Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập doanh nghiệp. Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (893.32 KB, 117 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
––– o0o –––






NGUYỄN THỊ THU HÀ





PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
––– o0o –––




NGUYỄN THỊ THU HÀ




PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP


Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

TS. DOÃN HỒNG NHUNG



Hà Nội - 2013


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GÓP VỐN THÀNH
LẬP DOANH NGHIỆP 9
1.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của góp vốn thành lập doanh nghiệp
theo pháp luật Việt Nam 9
1.1.1 Khái niệm góp vốn 9
1.1.2 Bản chất pháp lý của góp vốn 12
1.2 Khái niệm, phân loại tài sản góp vốn 13
1.2.1 Khái niệm tài sản góp vốn 13
1.2.2 Phân loại tài sản góp vốn 17
1. 3 Lƣợc sử pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập doanh nghiệp 19
1.4.1 Giai đoạn trước năm 1986 19
1.4.2 Từ năm 1986 đến nay 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN 24
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP 24
2.1 Pháp luật thực định về góp vốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam 24
2.1.1 Chủ thể góp vốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam 24
2.1.2 Hình thức góp vốn thành lập doanh nghiệp 28

2.1.3 Thủ tục góp vốn thành lập doanh nghiệp 35
2.2 Áp dụng pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam 51
2.2.1 Những kết quả đạt được trong quá trình áp dụng pháp luật về góp vốn
thành lập doanh nghiệp 51
2.2.2 Những khó khăn, tồn tại trong hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp 55
2.2.3 Nguyên nhân của những khó khăn và tồn tại 68
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN 70
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM 13



3.1 Nhu cầu góp vốn đầu tƣ sản xuất kinh doanh trong nền KTTT tại Việt Nam . 70
3.2 Những định hƣớng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động góp
vốn thành lập doanh nghiệp 72
3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc góp vốn thành lập
doanh nghiệp tại Việt Nam 73
3.3.1 Hoàn thiện các quy định pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp 73
3.3.2 Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan Nhà nước 78
3.3.3 Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho người
dân và nâng cao văn hoá pháp lý doanh nghiệp. 81
3.4 Hoàn thiện pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp 82
KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
PHỤ LỤC 92



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT



BLDS năm 2005
Công ty THHH
Công ty THHH 1
Công ty THHH 2
KTTT
LDN năm 1999
LDN năm 2005
Bộ luật Dân sự năm 2005
Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Công ty Trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Kinh tế thị trường
Luật Doanh nghiệp năm 1999
Luật Doanh nghiệp năm 2005



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những mốc quan trọng trong lịch sử pháp luật về doanh nghiệp của
Việt Nam là sự ra đời của Luật Doanh nghiệp được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 5
thông qua ngày 12/6/1999. Luật Doanh nghiệp năm 1999 thể hiện sự hợp nhất Luật
Công ty năm 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, hướng tới những cải
cách tương đối toàn diện về doanh nghiệp đánh dấu thời kỳ mở đầu thực hiện chủ
trương Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá đất nước cùng với việc hội nhập quốc tế.
Ở mức phát triển toàn diện hơn, Luật Doanh nghiệp năm 2005 được Quốc
Hội khoá X kỳ họp thứ 10 thông qua đã quy định đầy đủ hơn, rõ nét hơn về các vấn
đề liên quan đến việc góp vốn thành lập, kinh doanh và các hoạt động khác của

doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh và
những quy định có ý nghĩa hành lang để bảo vệ nhà đầu tư, các chủ thể tham gia
kinh doanh… Những quy định mang tính ưu việt đó đã khẳng định sự ra đời của
Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 góp một phần không nhỏ vào các thành tựu
chung của công cuộc đổi mới đất nước, phát triển kinh tế.
Có thể nói, cùng với quá trình đổi mới kinh tế đất nước là sự không ngừng ra
đời và phát triển các loại hình doanh nghiệp. Sự phát triển như vũ bão các loại hình
doanh nghiệp đó đã kéo theo những tranh chấp trong và xung quanh doanh nghiệp.
Trong đó tranh chấp về vấn đề góp vốn, tài sản góp vốn để thành lập doanh nghiệp
xảy ra tương đối nhiều. Mặt khác, pháp luật về doanh nghiệp luôn luôn được sửa
đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót, văn hoá pháp lý về doanh
nghiệp của người dân Việt Nam còn thấp và hoạt động xét xử còn nhiều lúng túng
trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp. Chính vì những lý do đó, việc nghiên
cứu pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập doanh nghiệp là luôn cần thiết cho cả
công tác lý luận và thực tiễn.


2
Bên cạnh pháp luật về doanh nghiệp, chúng ta không thể không nhắc tới sự
ra đời và phát triển của Pháp luật Dân sự, Luật đầu tư, Luật thương mại, Luật đất
đai… đã góp phần không nhỏ cho việc phát triển pháp luật về doanh nghiệp nói
riêng và việc phát triển kinh tế của đất nước nói chung.
Góp vốn thành lập doanh nghiệp không phải là một khía cạnh mới, nhưng
trong hệ thống các quy định pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, khía
cạnh này tuy đã được quy định nhưng vẫn chưa được đầy đủ, chi tiết và chặt chẽ
dẫn tới nhiều tranh cãi và hiểu sai, hiểu không toàn diện. Mặc dù Bộ Luật Dân sự
năm 2005 với tư cách là một đạo luật gốc cho các ngành luật trong đó có Luật
Doanh nghiệp, nhưng bản thân Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về các vấn đề
liên quan đến việc góp vốn thành lập doanh nghiệp vẫn còn có nhiều quan điểm
chưa thống nhất.

Hơn nữa, trong nền KTTT, lĩnh vực kinh tế tư nhân ngày càng được ưu tiên
phát triển. Việc làm ăn kinh doanh của người dân được thực hiện dưới hình thức
doanh nghiệp (pháp nhân) là một điều tất yếu và đang được khuyến khích thúc đẩy.
Trong bối cảnh đó, góp vốn kinh doanh trong nền KTTT ngày càng trở nên phức tạp
hơn. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định về góp vốn giúp cho các
chủ thể kinh doanh hiểu biết thêm kiến thức pháp luật và dễ dàng quyết định việc góp
vốn của mình một cách an toàn và hiệu quả hơn. Mặt khác, Nền KTTT xuất hiện
nhiều yếu tố kinh tế mới ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp như vấn đề “tài sản
ảo”, “giá trị thương hiệu”, những yếu tố này cần phải được hiểu rõ và phải được
pháp luật điều chỉnh theo xu hướng thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Góp vốn
thành lập doanh nghiệp tạo điều kiện cho phát huy nhiều năng lực sản xuất, tạo công
ăn việc làm cho người lao động. Các doanh nghiệp kinh doanh làm giàu cho cá nhân,
tổ chức. Dân giàu, nước mạnh là mục tiêu lớn mà Nhà nước ta luôn quan tâm.
Như vậy, pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp là mảng đề tài đã và
đang được quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ. Việc nghiên cứu tổng quát các
quy định pháp luật về vốn, góp vốn, tài sản góp vốn giúp cho ta nhận thức rõ hơn
các quan điểm, quan niệm về các vấn đề này một cách có hệ thống và qua đó áp


3
dụng vào thực tiễn một cách có hiệu quả. Qua việc nghiên cứu các quy định này,
đặc biệt là quy định về tài sản góp vốn, pháp luật Việt Nam cần điều chỉnh theo xu
hướng đa dạng hóa các hình thức tài sản góp vốn.Tuy không còn là mới mẻ trong
công tác lý luận và thực tiễn cuộc sống, nhưng để nghiên cứu một cách toàn diện,
đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế đất nước phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá
nền kinh tế, thì việc nghiên cứu khía cạnh góp vốn thành lập doanh nghiệp càng trở
nên cần thiết.
Xuất phát từ các lý do nêu trên, đề tài nghiên cứu “Pháp luật Việt Nam về
góp vốn thành lập doanh nghiệp” tác giả nghiên cứu cố gắng đóng góp một phần
các yêu cầu mà lý luận và thực tiễn đang đặt ra.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam các lĩnh vực liên quan đến doanh nghiệp đã được nhiều nhà
khoa học, giới luật học và các thương gia quan tâm. Trong những năm gần đây đã
có nhiều hội thảo, nhiều bài báo, đề tài khoa học nghiên cứu về các khía cạnh khác
nhau của doanh nghiệp như doanh nghiệp với nền kinh tế thị trường, văn hoá pháp
lý trong doanh nghiệp, quản trị doanh nghiệp, hợp đồng thành lập công ty,…Những
người nghiên cứu về doanh nghiệp nói chung cũng như pháp luật về doanh nghiệp
nói riêng chủ yếu từ những năm 1990 trở lại đây có xu hướng ngày càng nhiều.
Trong những công trình nghiên cứu đó, tiêu biểu phải kể đến các tác phẩm như:
Phạm Duy Nghĩa (1990), “Các khía cạnh Luật công ty và luật bảo vệ sở hữu
trí tuệ của quá trình chuyển giao công nghệ quốc tế thông qua doanh nghiệp liên
doanh với nước ngoài”, Luận án PTS KH luật học. Luận án đã chỉ ra bản chất pháp
lý của các thoả thuận góp vốn thành lập công ty, những nguyên tắc cơ bản của hợp
đồng góp vốn công nghệ vào doanh nghiệp, liên doanh quốc tế, cách thức thoả
thuận về giá trị công nghệ doanh nghiệp liên doanh.
Nguyễn Ngọc Điện (1999), “Nghiên cứu về tài sản trong pháp luật dân sự
Việt Nam”, sách chuyên khảo. Cuốn sách có thể được coi là một trong những dấu ấn
đầu tiên nghiên cứu pháp luật về tài sản một cách có hệ thống trong lịch sử nghiên


4
cứu lập pháp tại Việt Nam. Việc hiểu biết rõ về phân loại tài sản có ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc góp vốn thành lập doanh nghiệp.
Ngô Huy Cương (2004) “Hợp đồng góp vốn thành lập công ty” Luận án tiến
sỹ luật học. Luận án đã cho ta cái nhìn tổng quát, có hệ thống lý luận pháp luật về
Hợp đồng thành lập công ty hiện nay ở Việt Nam. Luận án cũng đã phân tích và
đánh giá một cách tương đối có hệ thống hiện trạng pháp luật về hợp đồng thành lập
công ty cũng như đưa ra những định hướng giải pháp cụ thể nhằm xây dựng chế
định hợp đồng thành lập công ty ở Việt Nam hiện nay và cách thức xây dựng chế
định này, những nội dung pháp lý chủ yếu và việc pháp điển hoá nó trong Bộ Luật

dân sự năm 2005.
Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009), “Công ty, vốn, quản lý và
tranh chấp theo luật doanh nghiệp năm 2005” Cuốn sách đáp ứng được các yêu cầu
mới từ khi Luật doanh nghiệp năm 2005 ban hành như: Những khái niệm và định
chế đã tồn tại ở các nước đã khá lâu mà nay do nhu cầu hội nhập chúng ta bị buộc
phải đem vào; việc thực hiện Luật Công ty kể từ năm 1990 đến nay đã để lại một số
thực tiễn mà bây giờ có thể trình bày để độc giả có thông tin áp dụng trong hoàn
cảnh của mình; Cuốn sách cũng đưa ra những sửa đổi của Luật doanh nghiệp năm
2005 so với Luật doanh nghiệp năm 1999.
Phạm Tuấn Anh (2009), “Góp vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt
Nam” Luận văn thạc sỹ luật học. Luận văn đã nghiên cứu một cách khái quát, có hệ
thống các vấn đề pháp lý về vốn góp, hình thức góp vốn, thực trạng pháp luật Việt
Nam về vấn đề góp vốn dựa trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành về góp
vốn thành lập doanh nghiệp và trên cơ sở tham khảo pháp luật của một số nước về
vấn đề này, Luận văn cũng đã đưa ra được một số định hướng cơ bản nhằm giải
quyết tồn tại của pháp luật về góp vốn thành lập công ty tại Việt Nam.
Hồng Vân (2009), “Góp vốn bằng quyền sử dụng đất tại Việt Nam”, Luận
văn thạc sỹ Luật học. Luận văn đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận của pháp luật


5
về góp vốn nói chung và pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất nói riêng.
Qua đó, Luận văn đã đánh giá một cách toàn diện pháp luật Việt Nam về góp vốn
bằng quyền sử dụng đất. Luận văn đã đưa ra các giải pháp và kiến nghị hoàn thiện
các quy định pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất; Hoàn thiện các quy
định pháp luật về thị trường bất động sản ở Việt Nam; Nâng cao năng lực quản lý
Nhà nước về đất đai; Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tuyên truyền phổ biến
giáo dục pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả của việc góp vốn bằng quyền sử dụng
đất tại Việt Nam.
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu chủ yếu được công bố dưới hình thức

các bài viết đăng trên Tạp chí Khoa học chuyên ngành, sách chuyên khảo. Trong số
đó phải kể đến các bài viết tiêu biểu của TS. Ngô Huy Cương, “Những bất cập về
khái niệm tài sản, phân loại tài sản của Bộ Luật dân sự năm 2005 và định hướng
cải cách”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Văn phòng Quốc Hội số 11 năm 2009,
trang 21-29; Doãn Hồng Nhung (2003) “Một số ý kiến về góp vốn là giá trị quyền
sử dụng đất trong doanh nghiệp liên doanh ở Việt Nam”, Học viện Tư pháp, Tạp
chí Ngề luật, Trường Đào tạo các chức danh tư pháp, chuyên đề cải cách tư pháp số
6 (trang 62-65); Lê Thị Thu Thủy (2003) “Thế chấp quyền sử dụng đất trong vay
vốn ngân hàng: những vướng mắc cần được tháo gỡ”, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp, Văn phòng Quốc hội số 6 năm 2004; Vũ Xuân Tiền, “Góp vốn bằng giá trị
thương hiệu”, Websiet http:// www.bsc.com.vn/new/2010/6/19;
Như vậy, pháp luật về doanh nghiệp là mảng đề tài được nhiều giới khoa học
quan tâm nghiên cứu. Trên cơ sở thừa kế những thành quả nghiên cứu của các công
trình đi trước, luận văn đi vào nghiên cứu sâu khía cạnh góp vốn thành lập doanh
nghiệp tại Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Luận văn đặt mục đích nghiên cứu là góp một phần xây dựng cơ sở lý luận
về vấn đề góp vốn thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam, đồng thời kiến nghị một số
giải pháp cơ bản cho việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề
này.


6
Với mục đích trên, Luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập
doanh nghiệp. Luận văn phân tích, bình luận nhằm làm rõ các yếu tố chủ yếu của
các khái niệm như vốn, góp vốn, tài sản góp vốn.
Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng những nội dung cơ bản của pháp luật hiện
hành về góp vốn thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam như chủ thể góp vốn, hình
thức góp vốn, thủ tục góp vốn.

Ba là, kiến nghị một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
góp vốn thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện
đại hoá đất nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Góp vốn thành lập doanh nghiệp là một đề tài có phạm vi rộng nên trong
khuôn khổ một luận văn thạc sỹ, chúng tôi sẽ tập trung vào nghiên cứu các đặc thù
của pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp như chủ thể góp vốn, thủ tục góp
vốn, hình thức góp vốn thành lập doanh nghiệp đối với loại hình doanh nghiệp là:
Công ty Cổ phần, Công ty Trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp danh theo Luật doanh
nghiệp Việt Nam năm 2005. Luận văn không nghiên cứu pháp luật về góp vốn đối
với các loại hình doanh nghiệp đặc thù như hợp tác xã, văn phòng Luật sư, các tổ
chức tín dụng hoặc các mô hình góp vốn liên doanh, liên kết khác.
Trong từng nội dung nghiên cứu, luận văn đưa ra nhận xét, đánh giá và kiến
nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về góp vốn thành lập doanh
nghiệp. Đặc biệt trong các hình thức góp vốn, luận văn đi sâu hơn phân tích hình
thức góp vốn bằng quyền sử dụng đất tại Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên nền tảng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã
sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu truyển thống kết hợp với phương
pháp nghiên cứu hiện đại, như: phương pháp thống kê tổng hợp, phương pháp so
sánh phân tích, phương pháp thu thập tài liệụ,… để hệ thổng, khái quát, phân tích,


7
tổng hợp, làm rõ và bình luận những nội dung nghiên cứu chính của đề tài, nằm đạt
được kết quả nghiên cứu tốt nhất.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Pháp luật việt Nam về góp vốn thành lập doanh nghiệp là một mảng đề tài
rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực tài sản, đất đai, đầu tư, thương mại, Khi tiếp
cận nghiên cứu, luận văn đi sâu vào những vấn đề có tính chất nguyên tắc và các

nội dung mang tính đặc thù.
Dựa trên cách tiếp cận nghiên cứu đó, luận văn đã nghiên cứu để làm sáng tỏ
hơn một số vấn đề về lý luận và thực tiễn như: (i) lý luận về các khái niệm vốn,
góp vốn, tài sản, quyền tài sản, quyền sở hữu. Từ những khái niệm cơ bản này,
luận văn đã tiếp cận thực trạng các quy định pháp luật về góp vốn. Trong đó, luận
văn đi sâu hơn phân tích, bình luận một số hình thức góp vốn đang có xu hướng
phát triển phổ biến hiện nay nhưng các quy định pháp luật về nó chưa đầy đủ và
còn nhiều tranh cải như: hình thức góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sử
dụng đất, hình thức góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ, hình thức góp vốn bằng
giá trị quyền sử dụng thương hiệu; (ii) luận văn đã chỉ ra các nguyên nhân dẫn
đến thực trạng nêu trên như do chưa có quan điểm thống nhất về vị trí vai trò cũng
như cần làm rõ một số khái niệu về tài sản được nêu trong của Bộ luật dân sự năm
2005; một số vấn đề về góp vốn thành lập doanh nghiệp quy định trong luật doanh
nghiệp năm 2005 còn nhiều hạn chế như quy định về các hình thức, tài sản góp
vốn, việc định giá tài sản góp vốn và các vấn đề về tài sản khi giải thể, phá sản
doanh nghiệp,…(iii) luận văn cũng đưa ra được những giải pháp nhằm khắc phục
thực trạng còn tồn tại của pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp nói chung,
pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất nói riêng
như giải pháp về hoàn thiện các quy định của pháp luật, giải pháp về tăng cường
năng lực cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến góp vốn thành lập
doanh nghiệp; giải pháp nâng cao sự hiểu biết pháp luật của người dân và văn hóa
pháp lý của doanh nghiệp.


8
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương sau:
Chương I. Những vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn thành lập doanh nghiệp.
Chương II. Thực trạng pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp tại Việt nam.
Chương III. Hoàn thiện pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam.



9
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GÓP VỐN
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
1.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của góp vốn thành lập doanh
nghiệp theo pháp luật Việt Nam
1.1.1 Khái niệm góp vốn
Trước khi nghiên cứu các quy chế về góp vốn, chúng ta cùng tìm hiểu các
quan điểm về vốn trong sản xuất kinh doanh đã được đề cập từ trước tới nay:
Theo quan điểm của lý thuyết kinh tế cổ điển và tân cổ điển: Vốn bao gồm
các sản phẩm lâu bền được chế tạo để phục vụ sản xuất (máy móc, thiết bị, phương
tiện, nhà xưởng sản xuất, văn phòng, nguyên vật liệu….). Nghĩa là vốn được nhìn
nhận dưới góc độ tài sản là hiện vật là chủ yếu. [31; Tr518-520]
Đứng trên quan điểm của nền kinh tế thị trường: Coi doanh nghiệp cũng là
hàng hoá. Giá trị của doanh nghiệp gồm giá trị hữu hình và giá trị vô hình. [65]
Như vậy, các quan niệm trên về vốn chỉ thể hiện được vai trò của vốn trong
những điều kiện lịch sử cụ thể, với các yêu cầu nghiên cứu cụ thể. Nhưng đứng trên
phương diện pháp lý về quản lý vốn hiện nay, các quan điểm này chưa đáp ứng
được yêu cầu về quản lý và hoạch toán vốn đối với doanh nghiệp.
Chúng ta có thể xây dựng hoặc quan niệm về vốn trong nền kinh tế thị
trường theo xu thế hội nhập thì vốn phải được hiểu bao hàm cả phương diện pháp lý
và phương diện kinh tế.
Về phương diện pháp lý: Vốn được hiểu và gắn liền với quyền và trách
nhiệm của chủ thể góp vốn, vốn có thể là một điều kiện bắt buộc để thành lập và
kinh doanh trong một số ngành nghề kinh doanh nhất định.
Về phương diện kinh tế: Vốn là một yếu tố không thể thiếu tham gia vào quá
trình kinh doanh dưới dạng tài sản để mang lại giá trị thặng dư; Vốn là một trong



10
những nhân tố quan trọng hàng đầu trong kinh doanh và sản xuất. Nếu không gắn
kết vốn với các yếu tố khác của công ty thì công ty mới không thể kinh doanh và
sản xuất tốt được. Khi tiếp cận nghiên cứu từ góc độ tài chính, vốn là tổng số tiền
hay tổng số tài sản do các cổ đông, thành viên đóng góp và họ được nhận cổ tức
chia theo tỷ lệ góp vốn hoặc cổ phiếu mà họ đầu tư.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ kinh tế bao cấp, vốn không được phân biệt theo
tính chất pháp lý và nhìn nhận ở phương diện kinh tế một cách rõ nét, vốn được
hiểu và được gọi theo cách gắn liền với chủ thể quản lý và cung cấp như: Vốn ngân
sách nhà nước, vốn vay ngân hàng, vố tự có,
Bước sang thời kỳ kinh tế mở cửa (sau năm 1986), với chủ trương phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Đảng và
Nhà nước đã quan tâm đến nền kinh tế tư nhân. Song nhìn chung trong thời gian
đầu vẫn mang màu sắc quan điểm về vốn như thời kỳ bao cấp. Luật Công ty và Luật
doanh nghiệp tư nhân năm 1991 ra đời đề ra vốn pháp định cho mọi ngành nghề
kinh doanh. Vốn là điều kiện và phương tiện bắt buộc để kinh doanh. Không có
vốn, doanh nghiệp không thể thành lập. Việc pháp luật quy định như vậy cũng xuất
phát từ một số nguyên nhân chủ yếu như đã có nhiều xí nghiệp, doanh nghiệp ra đời
mà không có đồng vốn nào, chỉ có tên gọi và con dấu để hoạt động, ký kết rất nhiều
hợp đồng rồi lâm vào tình trạng nợ nần, phá sản, gây thiệt hại kinh tế cho nhiều
người. Luật Công ty năm 1991 ra đời đã quy định vốn là điều kiện và phương tiện
kinh doanh nhằm ngăn ngừa hành vi lừa đảo trong kinh doanh. [13; tr124-126]
Quan niệm coi đồng vốn là điều kiện và phương tiện kinh doanh như vậy dẫn
đến hạn chế quyền tự do kinh doanh cũng như nhu cầu kinh doanh của người dân
trong đời sống dân sự. Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 1999 ra đời đã bãi bỏ vốn
pháp định. Việc bãi bỏ quy định này đã đáp ứng được lòng dân, phù hợp với đường
lối chủ trương của Đảng. Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 vẫn giữ nguyên
quan điểm đó ngoại trừ một số ngành nghề bắt buộc phải có vốn pháp định để bảo
đảm sự an toàn đối với xã hội như ngành kinh doanh vàng, chứng khoán…Người



11
thành lập công ty chỉ cần khai báo sẽ có bao nhiêu vốn chứ không bị bắt buộc phải
có một số vốn nhất định như trước.
Từ khái niệm về vốn, có thể hiểu một cách chung nhất góp vốn là sự đóng
góp của hai hay nhiều đối tác để tạo nên số vốn nhất định. Do việc góp vốn liên
quan đến quyền lợi riêng hoặc quyền lợi chung của các thành viên góp vốn nên việc
góp vốn có nhiều vấn đề phức tạp dễ dẫn tới nguy cơ như đồng vốn không sinh lời,
thâm hụt thậm chí mất vốn và nghiêm trọng hơn còn dẫn tới tranh chấp về đồng vốn
góp. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta vẫn thường thấy có rất nhiều hình thức
góp vốn từ buôn bán nhỏ lẻ cho đến mở công ty kinh doanh hoặc là “hùn vốn” buôn
bán, “khoán trắng” vốn cho người khác hoặc góp vốn vào công ty hay góp vốn để
thành lập Công ty.
Có thể thấy “góp vốn” là một khái niệm rất thông dụng trong đời sống dân sự
cũng như trong quy định pháp lý. Từ khi Luật Công ty năm 1991 ra đời, khái niệm
này đã được nghi nhận một cách rõ nét và cụ thể hơn.
Tại Điều 9 Luật Công ty năm 1991 đã quy định:“Phần vốn góp của mỗi
thành viên có thể bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng, tài sản bằng hiện vật hoặc
bản quyền sở hữu công nghiệp. Phần vốn góp bằng hiện vật hoặc bản quyền sở hữu
công nghiệp phải được đại hội đồng thành lập xem xét, chấp thuận, định giá và
được ghi vào điều lệ công ty; Phần vốn góp này phải được nộp đầy đủ ngay sau khi
công ty chính thức thành lập”
Theo Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 1999: “Góp vốn là việc đưa tài sản vào
công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản
góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử
dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác
ghi trong điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty”
Theo Điều 4 khoản 4 Luật Doanh nghiệp 2005: “Góp vốn là việc đưa tài sản
vào công ty để trở thành chủ sở hữu chung của Công ty. Tài sản góp vốn có thể là

tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị


12
quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong điều lệ
công ty do thành viên công ty góp để tạo thành vốn của Công ty”.
Như vậy, so với Luật Công ty năm 1991, LDN năm 1999 và LDN năm 2005
đã quy định khái niệm góp vốn một cách sắc nét hơn. Luật Công ty năm 1991
không chỉ ra góp vốn là gì mà chỉ quy định hình thức “phần vốn góp” của mỗi thành
viên. LDN năm 1999 và LDN năm 2005 đã chỉ ra bản chất của việc góp vốn là một
hành vi pháp lý.
1.1.2 Bản chất pháp lý của góp vốn
Để hình thành một công ty, việc góp vốn của các chủ thể là nội dung quan
trọng có tính chất quyết định trong các vấn đề thủ tục thành lập công ty. Việc góp
vốn nhằm tạo ra cơ sở đầu tiên cho bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào,
khi có vốn doanh nghiệp mới có thể thuận lợi hơn để tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh. Vốn là điều kiện cần để doanh nghiệp tiến hành khởi sự các hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Việc góp vốn này là nguồn gốc của mọi quyền lợi cũng
như nghĩa vụ của các thành viên trong công ty sau này. Có thể nói, trong các quy
định về thủ tục thành lập doanh nghiệp thì các quy định về vốn, góp vốn quan trọng
nhất, thậm chí có ý nghĩa quyết định. Góp vốn có thể nói là “linh hồn” của một hợp
đồng thành lập công ty.
Về bản chất, góp vốn là hành vi pháp lý nhằm đưa tài sản của mình vào một
hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích kiếm lời. Trong mối quan hệ góp
vốn, có các bên góp vốn và tài sản góp vốn.
Về phương diện kinh tế thì góp vốn là sự đóng góp của các các thành viên
tạo ra khối tài sản chung cho Công ty nhằm đảm bảo cho những chi phí đối với hoạt
động của công ty và đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho các chủ nợ khi công ty lâm vào
tình trạng phá sản.
Xét về phương diện pháp lý, thì góp vốn là hành vi tự nguyện chuyển giao

tài sản hay đưa tài sản riêng của mình vào công ty sử dụng chung nhằm mục đích


13
kiếm lời. Hành vi tự nguyện chuyển giao tài sản này không phải là hành vi cho thuê
tài sản hay bán tài sản. Khi chuyển giao quyền sở hữu tài sản hay quyền sử dụng, thì
người chuyển giao có được một quyền lợi từ việc bán hoặc cho thuê là một khoản
tiền nhất định từ giá bán hay giá thuê. Còn trong hành vi góp vốn thì người góp vốn
không nhận được bất kể khoản tiền nào từ việc góp vốn đó. [22; tr. 49-52]
Như vậy, góp vốn là việc một người thông qua hành vi chuyển quyền sở hữu
tài sản hoặc quyền sử dụng của mình cho công ty để đổi lấy một số quyền lợi nhất
định từ công ty hay trở thành chủ sở hữu đối với phần vốn góp của mình vào công
ty đó. Góp vốn phải được phân biệt với phần vốn góp. Phần vốn góp là tổng giá trị
các tài sản của chủ thể góp vào công ty.
1.2 Khái niệm, phân loại tài sản góp vốn
1.2.1 Khái niệm tài sản góp vốn
Tài sản là một khái niệm khá phổ biến trong đời sống hàng ngày. Điều 172
BLDS năm 1995 quy định: “Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được
bằng tiền và các quyền tài sản”
Khái niệm tài sản được quan niệm rộng hơn và cụ thể hơn trong Điều 163
Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và
các quyền tài sản”
Khái niệm tài sản quy định trong BLDS năm 2005 đã mở rộng hơn BLDS
năm 1995 về đối tượng nào được coi là tài sản, không chỉ những “vật có thực” mới
được coi là tài sản mà cả những vật hình thành trong tương lai cũng có thể được coi
là tài sản.
BLDS năm 2005 không định nghĩa trực tiếp vật hình thành trong tương lai,
song tại Điều 320 khi quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đã viết: “Vật
dùng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của Bên bảo đảm
và được phép giao dịch. Vật dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện

có hoặc hình thành trong tương lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất


14
động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc
giao dịch bảo đảm được giao kết”. Quy định này đã khẳng định tài sản bao gồm cả
vật hình thành trong tương lai.
Trong lịch sử nghiên cứu khoa học pháp luật về tài sản, đã có rất nhiều tác
giả quan tâm nghiên cứu và đã có những đóng góp, những cống hiến rất to lớn cho
nền khoa học pháp lý nước ta. TS. Nguyễn Ngọc Điện là một trong số các tác giả
đó. Cuốn sách “Nghiên cứu về tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam” NXB Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999 có thể được coi là một trong những “dấu ấn”
đầu tiên nghiên cứu pháp luật về tài sản một cách có hệ thống trong lịch sử nghiên
cứu lập pháp tại Việt Nam. Theo tác giả tài sản được hiểu theo hai cách:
Một là, theo phương diện pháp lý, tài sản là của cải được con người sử dụng.
Hai là, trong ngôn ngữ thông dụng thì tài sản là một vật cụ thể được con
người nhận biết và sử dụng, có tài sản vô hình hữu hình, tài sản vô hình. Nhưng dù
tồn tại ở bất cứ dạng nào thì chúng đều có thể được sở hữu, tức là phải thuộc riêng
về một chủ thể nào đó. [27; Tr 5-6]
Ngoài ra, khi bàn về tài sản, đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề
này. Dưới đây là một số quan điểm chủ yếu:
Có quan điểm cho rằng, tài sản là đối tượng của quyền sở hữu. Hiểu theo
quan điểm này muốn hiểu tài sản là gì thì ta phải hiểu quyền sở hữu là gì. Tuy
nhiên, tại Điều 164 BLDS năm 2005 đưa ra khái niệm về quyền sở hữu ″Quyền sở
hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ
sở hữu theo quy định của pháp luật″. Khái niệm này cũng chỉ mang tính liệt kê,
chưa chỉ ra bản chất của quyền sở hữu.
Lại có quan điểm cho rằng, tài sản bao gồm động sản và bất động sản. Đây là
cách phân loại tài sản thì đúng hơn. Muốn hiểu tài sản là gì thì phải hiểu thế nào là
động sản, thế nào là bất động sản, muốn hiểu thế nào là bất động sản thì phải hiểu

thế nào là động sản. Quan niệm này cũng chưa chỉ ra bản chất của tài sản, thậm chí
khi nói đến quyền tài sản thì không biết để vào động sản hay bất động sản.


15
Như vậy, đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, BLDS năm
1995 trước đây cũng như BLDS năm 2005 hiện hành đều dựa vào tiêu chí tài sản là
đối tượng của quyền sở hữu phải trị giá được bằng tiền và có thể được đưa vào giao
lưu dân sự. Trên tinh thần đó, Điều 163 BLDS năm 2005 đã liệt kê các loại tài sản
là đối tượng của quyền sở hữu bao gồm: Vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài
sản. Diễn giải chi tiết điều này, cuốn Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005
do PGS.TS Hoàng Thế Liên làm chủ biên đã giải thích:
1.Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, bao gồm cả động vật, thực vật, vật với ý
nghĩa vật lý ở mọi trạng thái (rắn, lỏng, khí). Vật được coi là tài sản phải là vật hữu
hình, cảm nhận được bởi năm giác quan của con người và chiếm giữ một phần trong
không gia. Vật được coi là tài sản khi vật đó đáp ứng được một nhu cầu nào đó về
vật chất hoặc tinh thần của con người. Tuy nhiên không phải bộ phận nào của thế
giới vật chất cũng đều được coi là vật. Có những bộ phận của thế giới vật chất ở
dạng này thì được coi là vật, nhưng ở dạng khác thì không được coi là vật. Ví dụ
Oxi là một bộ phận của thế giới vật chất, đáp ứng được một nhu cầu rất quan trọng
của con người là để thở, nhưng nếu ôxi còn ở dạng không khí chung thì chưa thể coi
đó là đối tượng của quyền sở hữu. Chỉ khi ôxi được cho vào bình, tức là con người
có thể nắm giữ, quản lý được thì mới có thể đưa vào giao lưu dân sự và mới có thể
trở thành một tài sản được pháp luật điều chỉnh.
2. Tiền theo quy định tại Điều số 63, BLDS năm 2005, tiền là một trong những loại
tài sản. Có thể đồng ý với quan điểm khi phân biệt đặc điểm pháp lý khác nhau giữa
tiền với vật. Hai loại tài sản này khác nhau ở những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất: vật có thể do nhiều chủ thể khác nhau tạo ra, còn tiền thì chỉ có
Nhà nước độc quyền phát hành. Ở mỗi một quốc gia khác nhau, Nhà nước ban hành
một loại tiền nhất định và được coi là đại diện cho chủ quyền của một quốc gia.

Thứ hai: đối với vật thì chúng ta có thể khai thác công dụng hữu ích từ chính
vật đó (ví dụ dùng nhà để ở, ). Tiền thực hiện ba chức năng chính là: Công cụ
thanh toán đa năng, công cụ tích luỹ tài sản và công cụ định giá các loại tài sản
khác. Khái niệm quyền sử dụng chỉ được áp dụng cho vật chứ không áp dụng cho


16
tiền. Việc sử dụng tiền vào các hoạt động kinh doanh hay tiêu dùng như mua bán tài
sản, cho vay, góp vốn đều được hiểu là hành vi định đoạt tiền (chuyển giao quyền
sở hữu tiền cho chủ thể khác)
Thứ ba: vật được xác định số lượng bằng những đơn vị đo lường thông dụng, còn
tiền lại được xác định theo mệnh giá của đồng tiền đó.
Thứ tư: chủ sở hữu có toàn quyền sở hữu đối với vật và có thể thực hiện ba quyền
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt vật đó, nếu việc thực hiện các quyền đó không ảnh
hưởng đến lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích của các chủ thể khác. Nhưng
người có tiền (chủ sở hữu) không thể thực hiện quyền sở hữu đối với tiền như là đối
với các tài sản thông thường khác được, mà phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt
của Nhà nước.
3. Giấy tờ có giá. Giấy tờ có giá được phân thành hai loại: Giấy tờ có giá như tiền
và các giấy tờ khác. Khoản 1 điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Ngân hàng nhà nước Việt Nam số 10/2003/QH11 ngày 17/6/2003 đã quy định các
giấy tờ có giá tuy có giá trị như tiền nhưng được sử dụng trong các giao dịch dân sự
thông thường hạn chế hơn so với tiền, hoặc chỉ được sử dụng làm phương tiện lưu
thông giữa một số chủ thể nhất định theo quy định của pháp luật (ví dụ: Séc). Giấy
tờ có giá như tiền do các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn, trong đó xác
nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi
và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua. Ngoài giấy tờ
có giá như tiền do tổ chức tín dụng phát hành còn có một số loại giấy tờ có giá khác
như: Séc, các loại chứng khoán, công trái…
Các quyền tài sản: Được quy định tại Điều 181 BLDS năm 2005. Đó là quyền

chuyển giao tài sản, quyền đòi nợ, quyền sở hữu đối với phát minh, sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá,…Các quyền này phải đáp ứng yêu cầu trị
giá được bằng tiền và có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự. Khác với vật
là tài sản hữu hình, quyền tài sản là tài sản vô hình”. [6;Tr 356-366]
Nghiên cứu về khái niệm “quyền tài sản” bằng cách gắn kết Điều 163 quy
định về tài sản “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” và


17
Điều 181 BLDS năm 2005 “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể
chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”.Từ các quy định ta
có thể khẳng định quyền tài sản trước hết là tài sản và phải đáp ứng đủ hai điều
kiện: Phải trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao cho người khác trong giao
dịch dân sự. Tuy nhiên quy định này không đúng trong mọi trường hợp. Tất cả
những quyền không đáp ứng được hai điều kiện này thì không được coi là tài sản.
1.2.2 Phân loại tài sản góp vốn
Từ các lập luận nêu tại phần 1.2.1 trang 11 của luận văn, có thể phân loại
quyền tài sản như sau: Quyền đối vật và quyền đối nhân. Quyền đối với vật được
biểu hiện như quyền cầm cố, quyền thế chấp, quyền hưởng hoa lợi,… Quyền đối
nhân của một người thường tương ứng với nghĩa vụ tài sản của người khác. Ví dụ
quyền yêu cầu người khác phải làm là một việc hoặc không phải làm một việc.
Hoặc cũng có thể hiểu quyền tài sản là một loại tài sản vô hình. Để tồn tại
với ý nghĩa là một tài sản vô hình, các tài sản vô hình ngoài việc đáp ứng hai điều
kiện được quy định tại điều 181 BLDS năm 2005, cần phải có một số đặc điểm sau
đây:
Một là, tài sản vô hình cần phải nhận dạng được. Việc nhận dạng tài sản vô
hình có thể thông qua một số chứng cứ hữu hình để có thể mô tả được loại tài sản
vô hình đó. Ví dụ một sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật khoa
học, mới chỉ hình thành trong ý nghĩ của người sáng tạo thì chưa coi là tác phẩm và
người đó chưa được pháp luật bảo vệ quyền tác giả. Chỉ khi người có ý nghĩa sáng

tạo sáng tạo thể hiện các tác phẩm của mình dưới một hình thức vật chất nhất định,
thì các tác phẩm đó mới được coi là đối tượng của quyền tác giả. Một sáng chế phát
minh, nhãn hiệu hàng hoá… được pháp luật bảo vệ khi chủ sở hữu đăng ký quyền
sở hữu. Đối với quyền sử dụng đất và hay quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền
kề chẳng hạn, biểu hiện của quyền tài sản là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
thoả thuận sử dụng hạn chế bất động sản liền kề được đăng ký tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.


18
Hai là, cũng như việc người ta có thể nhận biết được sự tồn tại của tài sản đó,
các chủ thể cũng có thể nhận biết được sự kết thúc (hay sự phá huỷ của tài sản vô
hình này). Ví dụ: quyền đòi nợ kế thúc khi người có nghĩa vụ thanh toán xong
khoản nợ; quyền sử dụng đất của một chủ thể kết thúc khi hết thời hạn sử dụng đất
mà pháp luật đã quy định, hoặc khi chủ thể đó chuyển quyền sử dụng đất cho người
khác.
Ba là, chủ sở hữu tài sản vô hình được pháp luật bảo vệ khi quyền sở hữu bị
xâm phạm, thì ngược lại, chủ sở hữu cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý khi thực
hiện quyền sở hữu các tài sản vô hình này. [64; Tr51]
Giá trị của quyền tài sản được thể hiện thông qua các hình thức pháp lý khác
nhau như: thông qua giao kết hợp đồng dân sự như quyền đòi nợ, quyền sử dụng tài
sản thuê; được cơ quan nhà nước giao quyền sử dụng như quyền sử dụng đất, quyền
khai thác khoáng sản; bằng trí tuệ của mình sáng tạo ra tác phẩm hoặc được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sở hữu công nghiệp,
Tóm lại, tài sản không phải là một khái niệm mang tính ổn định. Tùy thuộc
vào giá trị kinh tế và mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau mà khái niệm tài sản ngày
càng phong phú về hình thức và nội dung. Đặc biệt, ngày nay trong thời đại kinh tế
thị trường, hội nhập quốc tế, đời sống xã hội ngày càng xuất hiện thêm nhiều loại tài
sản mới như: sở hữu trí tuệ, chứng khoán, cổ phiếu, ….thì khái niệm tài sản càng
phải được quan niệm lại cho phù hợp với thực tế khách quan.

Có thể thấy việc liệt kê các tài sản góp vốn như Luật Doanh nghiệp năm
2005 của Việt Nam là không thực tế và còn có nhiều hạn chế. Các quy định này
không làm sáng tỏ hơn các qui định về tài sản trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm
2005. Theo pháp luật Việt Nam, tài sản góp vốn chủ yếu là “vật chất liệu” còn các
quyền tài sản cũng được nhắc tới nhưng rất mờ nhạt. Do đó, việc góp vốn bằng
quyền tài sản còn gặp nhiều khó khăn trên thực tế do chưa có những quy định cụ thể
và hợp lý. Ngoại trừ quyền sử dụng đất là một loạt vật quyền thông dụng và phổ
biến trong đời sống dân sự đã được nhiều văn bản pháp lý chuyên ngành quy định


19
khá rõ ràng. Song cho đến thời điểm này, việc áp dụng các quy định của pháp luật
về góp vốn bằng quyền sử dụng đất vào thực tiễn vẫn còn chứa đựng nhiều bất cập.
Như vậy, tài sản bao gồm tiền hiện vật (hiện vật ở đây được hiểu theo nghĩa
rộng nhất bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình). “hiện vật” phải mang lại
lợi ích cho con người đồng thời trị giá được bằng tiền.
1.3 Lƣợc sử pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập doanh
nghiệp
Trong lịch sử lập pháp ở Việt Nam, pháp luật về doanh nghiệp cũng đã hình
thành từ rất sớm. Có thể khái quát sự hình thành và phát triển các quy định pháp
luật về vấn đề góp vốn thành lập doanh nghiệp thành hai giai đoạn: Giai đoạn trước
năm 1986 và giai đoạn từ năm 1986 đến nay.
1.3.1 Giai đoạn trƣớc năm 1986
Do hoàn cảnh lịch sử đất nước thời kỳ đầu đặc biệt những năm trước 1945,
khi triều đình Nhà Nguyễn còn tồn tại song song với ách đô hộ của thực dân Pháp
xâm lược đất nước, tình hình kinh tế đất nước còn quá nghèo nàn lạc hậu, nhìn
chung hệ thống pháp luật không phát triển, pháp luật về kinh doanh, kinh tế cũng
chịu ảnh hưởng trong giai đoạn đó. Tuy nhiên khi nói đến thời kỳ này về khía cạnh
lập pháp, pháp luật nước ta chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống pháp luật của nước
Pháp. Tại các Bộ Luật Dân sự Bắc kỳ năm 1931 và Bộ Luật Dân sự Trung kỳ năm

1936 đã có những quy định về việc góp vốn làm làm ăn kinh doanh, buôn bán, lập
hội của nhân dân.
Tại Điều 1205 Bộ luật Dân sự Bắc kỳ năm 1931 quy định: “Nếu khế ước
không có kỳ hạn hay một điều kiện gì, thì chính ngày hôm ấy, các thành viên phải
nộp phần mình đã góp vốn, nếu không thì đương nhiên sẽ phải trả hoa lợi cùng lời
lãi và đồng thời phải bồi tổn hạn vì lẽ chậm trễ, dù là tiền bạc cũng vậy”.
Điều 1437 Bộ luật Dân sự Trung kỳ năm 1936 quy đinh: “Mỗi hội viên đối
với hội là người mắc nợ về phần mình đã góp, và phải góp ngay vào ngày thành


20
lập, nếu không thời đương nhiên phải trả hoa lợi hay là tiền lời của phần mình cho
hội, chiểu theo số tiền lời luật định, nếu phần góp ấy là một số tiền và có khi lại
phải bồi tổn hại nhiều vì lẽ góp vốn chậm nữa”.
Như vậy, trong giai đoạn trước năm 1945, các quy định về góp vốn làm ăn
kinh doanh ít nhiều cũng đã được đề cập cho dù thời điểm đó tình hình kinh tế đất
nước ta chưa ổn định.
Giai đoạn từ 1945 đến 1986: Sau khi đất nước giành được độc lập dân tộc,
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức được thành lập, năm 1946, bản Hiến
pháp đầu tiên của Nhà nước ta đã ra đời. Tại Điều 10 Hiến pháp đã quy định rõ
ràng các quyền tự do cá nhân: "Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận, tự
do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong
nước và ra nước ngoài".
Hiến pháp năm 1959 đã được ra đời, sửa đổi Hiến pháp năm 1946 với sứ
mệnh và nhiệm vụ là phù hợp với nhiệm vụ mới, tình hình mới của đất nước thời
bấy giờ. Giai đoạn cả nước kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Miền Bắc tiến lên Chủ
nghĩa Xã hội, Miền Nam tiếp tục đấu tranh chống đến quốc Mỹ và tay sai. Trong
giai đoạn này, kinh tế Miền Bắc phát triển hơn Miền nam song nhìn chung toàn
Đảng, toàn dân chăm lo sản xuất chủ yếu phục vụ công cuộc đấu tranh giải phóng
thống nhất đất nước.


Xuất phát từ hình thức sở hữu của Nhà nước (tức là của toàn
dân) về tư liệu sản xuất là chủ yếu và hình thức sở hữu của hợp tác xã (tức là hình
thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động) là chủ yếu nên nền kinh tế thời kỳ này
chưa khởi sắc. Tuy nhiên tại Điều 25 Hiến pháp có nhắc tới quyền công dân “Công
dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội
họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để
công dân được hưởng các quyền đó”. Quyền tự do lập hội lần đầu tiên được đề cập
trong bản Hiến pháp này.
Sau khi thống nhất đất nước (năm 1975), nền kinh tế bắt đầu được phục hồi.
Bản hiến pháp năm 1980 tiếp tục quy định các quyền công dân trong đó có quyền tự
do kinh doanh (tự do lập hội). “Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do 27

×