Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.45 KB, 24 trang )

Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở
hữu trí tuệ ở Việt Nam


Đoàn Thu Hồng

Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Quế Anh
Năm bảo vệ: 2012


Abstract: Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận khoa học pháp lý về
góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ. Phân tích, đánh giá thực trạng
pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của
pháp luật Việt Nam. Đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện
pháp luật về hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt
Nam.

Keywords: Luật kinh tế; Quyền sở hữu trí tuệ; Thành lập doanh nghiệp; Vốn


Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyết định thành lập doanh nghiệp là một trong những quyết định quan trọng đối với bất
kỳ nhà đầu tư nào, đặc biệt là những người mới khởi nghiệp. Trong giai đoạn tiền doanh nghiệp
này, việc góp vốn là một trong những vấn đề đầu tiên mà các nhà đầu tư cần quan tâm, bởi việc
góp vốn thành lập doanh nghiệp là khởi đầu cho công việc kinh doanh cũng như là yếu tố tiền đề,
cơ sở phân chia lợi nhuận giữa các nhà đầu tư cũng như xác định phạm vi quyền hạn của chủ thể
góp vốn đối với việc đưa ra các quyết định quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp.


Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, pháp luật nước ta đã ghi nhận nhiều đối tượng mới
được sử dụng để góp vốn thành lập doanh nghiệp, trong đó, có quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên,
trên thực tế, việc sử dụng quyền sở hữu trí tuệ làm vốn góp thành lập doanh nghiệp chưa được
diễn ra phổ biến và còn nhiều hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Việc quyền này
chưa thực sự được phát huy trên thực tế do những nguyên nhân chủ quan và khách quan nhất
định. Trong đó, một trong những nguyên nhân cơ bản là sự hạn chế về lý luận cũng như thực tiễn
pháp luật hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ. Do đó, để khắc
phục tình trạng nêu trên, cần sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật hiện hành theo
hướng quy định cụ thể và điều chỉnh thống nhất hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng
quyền sở hữu trí tuệ. Để làm được điều đó, cần phải nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng từ
đó đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hoạt động góp
vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Với mong muốn làm rõ thêm
về mặt lý luận cũng như góp một phần nhỏ trong việc thực hiện chính sách và thực thi pháp luật,
tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu: “Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở
Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nói hoạt động “góp vốn nói chung” và “góp vốn thành lập doanh nghiệp nói riêng”
đã được các nhà khoa học chuyên ngành luật quan tâm nghiên cứu. Thời gian qua đã có một số
công trình nghiên cứu về vấn đề này ở các góc độ khác nhau. Như đề tài: “Góp vốn thành lập
công ty theo pháp luật Việt Nam” Luận văn thạc sỹ luật của tác giả Phạm Tuấn Anh, Khoa luật
Đại học quốc gia Hà Nội. Ở đề tài này, tác giả đã nghiên cứu khái quát những vấn đề chung về
hoạt động góp vốn thành lập công ty theo quy định của pháp luật Việt Nam trên cơ sở liên hệ so
sánh với hệ thống pháp luật của một số nước trên thế giới. Hay đề tài “Góp vốn bằng quyền sử
dụng đất tại Việt Nam – Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Hồng Vân, Khoa luật Đại học
Quốc gia Hà Nội. Theo đó, tác giả đã nghiên cứu hoạt động góp vốn bằng quyền sử dụng đất vào
hoạt động sản xuất, kinh doanh nói chung, trong đó có bao hàm cả nội dung của hoạt động góp
vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất. Ngoài ra còn một số bài viết đăng trên các tạp
chí như “Hoàn thiện quy định về góp vốn và xác định tư cách thành viên công ty theo Luật
doanh nghiệp năm 2005” của tác giả Nguyễn Thị Dung, Tạp chí Luật học Trường Đại học Luật
Hà Nội số 9/2010; “Xác định loại và giá trị tài sản góp vốn vào công ty” của tác giả Đỗ Quốc

Quyên – Tạp chí nghề luật, Học viện tư pháp số 5/2010. Bài viết “Một số vấn đề về góp vốn
bằng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu” của tác giả Nguyễn Hồng Vân tạp chí Hoạt động khoa học
tháng 7/2010.
Tóm lại, cho đến thời điểm hiện tại, dường như chưa có một công trình nào nghiên cứ một
cách toàn diện, khái quát về hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu trên tập trung vào hoạt động góp vốn thành lập doanh
nghiệp nói chung hoặc hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng các quyền tài sản khác
theo quy định của pháp luật. Do vậy, các công trình nghiên cứu nêu trên so với đề tài luận văn
này là không trùng lặp về mặt nội dung. Luận văn đi vào việc nghiên cứu, tổng hợp một số vấn
đề mới với hy vọng đóng góp một góc nhìn khái quát hơn cho việc nghiên cứu, xây dựng và ban
hành hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở
hữu trí tuệ ở Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận khoa học pháp lý về khái
niệm góp vốn thành lập doanh nghiệp nói chung và góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền
sở hữu trí tuệ nói riêng, phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động góp vốn thành lập
doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đề xuất một số giải pháp và
kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp
bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung làm rõ những vấn đề sau:
Một là, nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận khoa học pháp lý về góp
vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ;
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng
quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật Việt Nam;
Ba là, đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về hoạt
động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn đặt mục tiêu vào việc nghiên cứu khái quát hoạt động
sử dụng quyền sở hữu trí tuệ để góp vốn thành lập doanh nghiệp và góp vốn thành lập doanh

nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ nói chung.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt
Nam về hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của
pháp luật hiện hành.
6. Phương pháp tiếp cận vấn đề
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước
ta trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước, cải cách hành chính xây dựng Nhà
nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, việc nghiên
cứu đề tài còn được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích, so
sánh, tổng hợp, thống kê.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài được trình bày thành ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ;
Chương 2: Các quy định của pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí
tuệ ở Việt Nam hiện nay;
Chương 3: Thực trạng góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ và một
số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hoạt động góp vốn thành lập
doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP BẰNG
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
1.1 Khái quát chung về góp vốn thành lập doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm và phân loại doanh nghiệp
1.1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp được nhìn nhận dưới hai góc độ kinh tế và pháp lý. Ở góc độ kinh tế,
doanh nghiệp sẽ được nhìn nhận dưới các yếu tố chi phí để tổ chức huy động vốn; tổ chức lao
động; tiến hành kinh doanh và các chi phí để phối hợp các yếu tố đó với nhau. Còn dưới góc độ
pháp lý, doanh nghiệp được nhìn nhận là một thực thể pháp lý độc lập.
1.1.1.2 Phân loại doanh nghiệp
Dựa vào các tiêu chí khác nhau, doanh nghiệp có thể được phân loại thành doanh
nghiệp tư và doanh nghiệp nhà nước theo tiêu chí về hình thức sở hữu và mục đích hoạt động;

doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp lớn theo tiêu chí quy mô; doanh nghiệp độc lập, nhóm
doanh nghiệp hay các doanh nghiệp đa quốc gia căn cứ vào sự liên kết và doanh nghiệp nông
nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ
theo lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.2 Khái niệm và thỏa thuận góp vốn thành lập doanh nghiệp
Góp vốn thành lập doanh nghiệp là hành vi pháp lý của các tổ chức/cá nhân trong giai
đoạn “tiền doanh nghiệp” nhằm đưa tài sản của tổ chức, cá nhân vào thành tài sản của doanh
nghiệp để hưởng những lợi ích nhất định từ doanh nghiệp được hình thành. Bên cạnh đó, chúng
ta cần phân biệt việc chủ thể góp vốn chuyển giao tài sản góp vốn cho doanh nghiệp hoàn toàn
khác với việc mua bán hoặc cho thuê tài sản.
Thỏa thuận góp vốn thành lập doanh nghiệp là thỏa thuận được thiết lập giữa người góp
vốn hoặc cam kết góp vốn với doanh nghiệp sẽ được thành lập và mang lại quyền lợi cho chính
doanh nghiệp được thành lập – với tư cách một thực thể pháp lý độc lập. Thỏa thuận góp vốn có
thể được biểu hiện bằng văn bản hoặc không bằng văn bản. Tuy nhiên, trên thực tế thỏa thuận
góp vốn thường được các bên thể hiện dưới dạng văn bản, nó có thể là một băn bản độc lập, một
bản cam kết hay một điều khoản trong hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp.


1.1.3 Tài sản góp vốn thành lập doanh nghiệp
Dựa vào khái niệm tài sản ta có thể phân loại tài sản dùng để góp vốn thành lập doanh
nghiệp gồm những đối tượng:
Tiền và giấy tờ có giá. Tiền theo kinh tế học, là giá trị đại diện cho giá trị thực của hàng hóa
và là phương tiện lưu thông trong đời sống của con người. Giấy tờ có giá bao gồm: cổ phiếu, trái
phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, công trái, séc, giấy ủy nhiệm chi, số tiết kiệm Việc góp vốn thành
lập doanh nghiệp bằng tiền hoặc giấy tờ có giá được coi là hoàn tất khi thành viên góp vốn
chuyển giao tiền mặt hoặc giấy tờ có giá cho doanh nghiệp được thành lập.
Hiện vật, đây là việc người góp vốn sử dụng một tài sản hữu hình để góp vốn thành lập
doanh nghiệp với điều kiện đó phải là vật đưa được vào giao lưu dân sự. Chủ thể góp vốn thành
lập doanh nghiệp bằng vật có thể lựa chọn việc góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở
hữu hoặc chỉ góp vốn bằng quyền hưởng dụng đối với vật.

Quyền sử dụng đất, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà
nước chỉ trao cho các tổ chức, cá nhân quyền sử dụng đất đối với từng mảnh đất cụ thể. Quyền
sử dụng đất là một trong các quyền tài sản có thể được sử dụng để góp vốn thành lập doanh
nghiệp. Theo đó, tùy thuộc vào các nhóm quyền sử dụng đất mà mình sở hữu các chủ thể sẽ có
các quyền năng cụ thể trong hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp.
Sản nghiệp thương mại là một tập hợp tài sản bao gồm các tài sản có và tài sản nợ của
thương nhân phục vụ cho hoạt động thương mại. Trong sản nghiệp thương mại phải kể đến các
yếu tố sau: mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ; tên thương mại; biển hiệu; nhãn
hiệu; bí mật kinh doanh và các quyền tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ
Tri thức, trên phương diện hành vi có thể quan sát được thì tri thức là khả năng của một cá
nhân hay một nhóm thực hiện, hoặc chỉ dẫn, xui khiến những người khác thực hiện các quy trình
nhằm tạo ra các sự chuyển hóa có thể dự báo được của các vật liệu. Tri thức có thể được điển chế
hóa và có thể sao chụp hoặc có thể ở dạng ẩn không thể ghi chụp khi ở trong đầu của các cá nhân
hoặc các chu trình hoạt động của các doanh nghiệp
Công sức, có thể quan niệm rằng, góp vốn bằng công lao hay việc làm phải là góp vốn bằng
một công việc điều khiển, chỉ huy mà không phải là công việc của người thừa hành, vì doanh
nghiệp có nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên
1.2 Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
1.2.1 Khái niệm và đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ
1.2.1.1 Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ
Hiện nay, có rất nhiều các quan điểm khác nhau về khái niệm quyền sở hữu trí tuệ. Tuy
nhiên, theo quan điểm phổ biến, quyền sở hữu trí tuệ là quyền mà Nhà nước giành cho các cá
nhân, tổ chức là chủ sở hữu tài sản trí tuệ được kiểm soát độc quyền tài sản trí tuệ trong một thời
gian nhất định nhằm ngăn chặn sự khai thác các tài sản này một cách bất hợp pháp.
1.2.1.2 Đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ
Các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đó chính là các tài sản trí tuệ. Trong đó, bao gồm:
quyền tác giả và quyền liên quan; quyền sở hữu công nghiệp bao gồm quyền đối với sáng chế,
thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên
thương mại, bí mật kinh doanh và các quyền sở hữu công nghiệp khác do pháp luật quy định và
quyền đối với giống cây trồng.

1.2.1.3 Điểm đặc trưng của quyền sở hữu trí tuệ so với quyền sở hữu các tài sản hữu hình
Một là, tài sản trí tuệ mang đặc tính vô hình.
Hai là, việc chiếm hữu, sử dụng tài sản trí tuệ có thể do nhiều người cùng chiếm hữu, sử dụng
mà không làm giảm bớt đi giá trị của nó.
Ba là, giá trị của tài sản trí tuệ chịu ảnh hưởng, chi phối của nhiều yếu tố khác biệt so với tài
sản hữu hình.
Bốn là, giá trị của tài sản trí tuệ có thể được nâng cao thông qua sự bảo hộ của nhà nước.
Xuất phát từ những đặc tính nêu trên của tài sản trí tuệ, nên trong mối tương quan với quyền
sở hữu các tài sản hữu hình, quyền sở hữu trí tuệ có những điểm đặc trưng nhất định:
Một là, quyền sở hữu trí tuệ là quyền sở hữu đối với một tài sản vô hình.
Hai là, căn cứ phát sinh và xác lập quyền đối với quyền sở hữu trí tuệ khác với các tài sản hữu
hình.
Ba là, việc thực hiện quyền chiếm hữu của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ khác với các tài
sản hữu hình.
Bốn là, sự khác biệt trong việc thực hiện quyền năng sử dụng tài sản.
Năm là, khác biệt trong việc thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản.
Sáu là, căn cứ chấm dứt quyền sở hữu tài sản.
Bảy là, một số đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ được xác lập theo thủ tục đăng ký bảo hộ
bị giới hạn bởi phạm vi lãnh thổ và thời hạn bảo hộ.
Tám là, đối với một số đối tượng quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền nhân thân và quyền tài
sản của chủ sở hữu đối với tài sản trí tuệ của mình.
1.2.2 Khái niệm và đặc trưng của góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí
tuệ
1.2.2.1 Khái niệm góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ là việc các chủ thể quyền chuyển
giao quyền sở hữu hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đối với tài sản trí tuệ của mình để góp
vốn thành lập doanh nghiệp để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của doanh
nghiệp.
1.2.2.2 Đặc điểm của góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
Một là, về chủ thể góp vốn thành lập doanh nghiệp là chủ sở hữu các đối tượng quyền sở

hữu trí tuệ.
Hai là, việc chuyển giao quyền sở hữu hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng của tài sản trí
tuệ ngoài việc tuân theo những quy định của pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp nói
chung còn phải tuân theo các quy định riêng về trình tự, thủ tục chuyển giao quyền của Luật Sở
hữu trí tuệ.
Ba là, về thời hạn góp vốn thành lập doanh nghiệp do các bên thỏa thuận, tuy nhiên phải
xem xét đến yếu tố thời hạn bảo hộ của đối tượng sở hữu trí tuệ.
Bốn là, khi góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ, chủ sở hữu chỉ có thể
góp vốn bằng quyền tài sản đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ, các quyền nhân thân đối với các
đối tượng sở hữu trí tuệ không được sử dụng để góp vốn.
Năm là, việc xác định giá trị của quyền sở hữu trí tuệ dùng để góp vốn thành lập doanh
nghiệp khá phức tạp và chủ yếu tôn trọng tự do thỏa thuận của các bên tham gia góp vốn.
1.3 Sơ lược pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở
hữu trí tuệ
1.3.1 Giai đoạn trước năm 1945
Trong giai đoạn này, xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, khoa học
kỹ thuật chưa phát triển. Bên cạnh đó, chính sách “bế quan tỏa cảng” được duy trì một thời gian
dài đã cản trở hoạt động thương mại, góp vốn kinh doanh của các thương nhân. Lần đầu tiên ở
Việt Nam, góp vốn thành lập doanh nghiệp được điều chỉnh trong “Dân luật thi hành tại Nam án
Bắc Kỳ” năm 1931, Chương IX nói về khế ước lập hội, tiết V nói về hội buôn.
1.3.2 Giai đoạn từ sau năm 1945 đến trước năm 1995
Sau năm 1954, đất nước ta bị chia làm hai miền. Ở miền Nam, dưới chế độ Việt nam cộng
hòa phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, việc góp vốn thành lập doanh nghiệp được hoạt động
trên cơ sở Bộ Luật dân sự, Luật thương mại của Việt Nam cộng hòa. Ở miền Bắc, Nhà nước ta
tiến hành cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa (kế hoạch 3 năm 1957 - 1960).
Cũng trong giai đoạn này, chúng ta mới bắt đầu quan tâm và có những quy định sơ khai về sở
hữu trí tuệ. Từ năm 1960, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III, miền Bắc bắt đầu xây
dựng một nền kinh tế tập trung – kế hoạch hóa với hai thành phần chủ yếu là quốc doanh và tập
thể, trong đó quốc doanh giữ vai trò then chốt, chi phối các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế
quốc dân. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung các quan hệ liên kết, góp vốn không có điều

kiện để phát triển và trong hệ thống pháp luật cũng không có quy định về quyền sở hữu trí tuệ,
do đó việc góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ hầu như chưa được đề cập.
Việc góp vốn bằng quyền sở hữu công nghiệp lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều lệ đầu tư nước
ngoài tại nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Ban hành kèm theo Nghị định số 115-CP
ngày 18 tháng 4 năm 1977 của Hội đồng Chính phủ và Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
nam 1987 ra đời đã có đề cập đến việc góp vốn thành lập xí nghiệp liên doanh của bên Việt Nam
và bên nước ngoài bằng một số đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Nhưng quyền này chỉ được
dành cho các các nhà đầu tư nước ngoài còn phía Việt Nam không được ghi nhận quyền này.
1.3.3 Giai đoạn từ năm 1995 đến trước năm 2005
Trong giai đoạn này, Quốc hội nước ta đã thông qua các văn bản quan trọng như Luật
Doanh nghiệp, ngày 21 tháng 12 năm 1990. Ngày 28/10/1995 Quốc hội đã thông qua Bộ Luật
Dân sự năm 1995, trong đã có Phần IV nói về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ,
bao gồm 61 Điều luật về sở hữu trí tuệ. Luật doanh nghiệp 1999, quyền sở hữu trí tuệ mới được
ghi nhận là tài sản góp vốn đối với các nhà đầu tư trong nước. Luật doanh nghiệp năm 1999 ra
đời trên cơ sở rút kinh nghiệm sau nhiều năm thực hiện Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật
Doanh nghiệp thực sự tạo ra một bước cải cách mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh
tế tư nhân và mở ra cơ hội mới cho các nhà đầu tư trong nước trong việc sử dụng quyền sở hữu
trí tuệ để góp vốn thành lập doanh nghiệp.
1.3.4 Giai đoạn từ năm 2005 đến nay
Luật doanh nghiệp năm 2005 đã được ban hành thay thế cho Luật doanh nghiệp năm
1999. Cùng với đó, trong BLDS 2005 được Quốc Hội khóa XI, thông qua ngày 14/06/2005 thay
thế Bộ luật dân sự năm 1995. Cũng trong kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XI, Quốc hội Việt Nam
đã thông qua Luật Sở hữu trí tuệ, có hiệu lực từ ngày 1/7/2006. Ngày 19 tháng 6 năm 2009,
Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu
trí tuệ số 50/2005/QH11. Hệ thống văn bản mới này đã một lần nữa khẳng định và dần hoàn
thiện các quy định pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ.





Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP DOANH
NGHIỆP BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Nội dung các quy định pháp luật hiện hành về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng
quyền sở hữu trí tuệ
Nội dung các quy định pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí
tuệ bao gồm các quy định về việc góp vốn thành lập doanh nghiệp như: chủ thể góp vốn, đối
tượng góp vốn, điều kiện góp vốn, hình thức góp vốn, định giá tài sản góp vốn, thủ tục góp vốn
2.1.1 Chủ thể góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
2.1.1.1 Chủ sở hữu các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ
Chủ sở hữu các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ là các tổ chức, cá nhân có các đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ theo quy định của pháp luật. Trong đó, có thể kể đến: chủ sở
hữu các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được xác lập theo cơ chế bảo hộ tự động; chủ sở hữu các
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được xác lập quyền theo thủ tục đăng ký bảo hộ; các tổ chức, cá
nhân nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, kế thừa, được tặng cho quyền sở hữu các đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ.
2.1.1.2 Các tổ chức, cá nhân nhận chuyển quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp.
Chủ thể nhận chuyển chuyển quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ là người được chủ
sở hữu quyền sở hữu trí tuệ chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ thuộc phạm vi
được bảo hộ của mình. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ
phải được lập thành hợp đồng bằng văn bản.
2.1.1.3 Chủ thể có quyền sử dụng trước đối với một số đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.
Trong trường hợp trước ngày đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp được công bố
mà có người đã sử dụng hoặc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sử dụng sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp đồng nhất với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp trong đơn đăng ký nhưng được tạo
ra một cách độc lập thì sau khi văn bằng bảo hộ được cấp, người đó có quyền tiếp tục sử dụng
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp trong phạm vi và khối lượng đã sử dụng hoặc đã chuẩn bị để sử
dụng mà không phải xin phép hoặc trả tiền đền bù cho chủ sở hữu sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp được bảo hộ.
2.1.2 Chủ thể nhận góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
Chủ thể nhận góp vốn thành lập doanh nghiệp có thể là một trong các loại hình doanh

nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005. Riêng đối với doanh nghiệp tư nhân thì vấn
đề nhận góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ dường như không được đặt
ra bởi theo quy định của pháp luật nước ta hiện nay loại hình doanh nghiệp này không có tư cách
pháp nhân.
2.1.3 Đối tượng góp vốn và điều kiện góp vốn
2.1.3.1 Quyền tài sản của tác giả/chủ sở hữu quyền tác giả và quyền liên quan.
Tác giả của các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ sẽ có quyền nhân thân và quyền tài sản đối
với các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ do mình sáng tạo ra. Tuy nhiên, quyền nhân thân của tác
giả là quyền gắn liền với tác giả và nó không được chuyển giao. Do đó, quyền nhân thân của tác
giả các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ sẽ không được sử dụng để góp vốn thành lập doanh
nghiệp. Ngược lại, quyền tài sản của tác giả/chủ sở hữu các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ có thể
là đối tượng được sử dụng để góp vốn thành lập doanh nghiệp.
2.1.3.2 Quyền sở hữu các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
Quyền sở hữu các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối
với các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp do mình sở hữu. Quyền đối với giống cây trồng là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát
triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. Quyền sở hữu các đối tượng sở hữu trí tuệ cũng được coi
là một quyền tài sản và có thể được sử dụng để góp vốn thành lập doanh nghiệp.
2.1.4 Định giá quyền sở hữu trí tuệ dùng để góp vốn
Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được tiến
hành định giá. Việc định giá này có thể do một tổ chức định giá chuyên nghiệp thực hiện hoặc do
các thành viên, cổ đông sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí; nếu quyền sở hữu trí tuệ được
định giá cao hơn so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì các thành viên/cổ đống sáng lập
liên đới chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bằng
số chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc
định giá.
Theo hướng dẫn số 4 của Ủy ban tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế, có ba loại phương pháp
để thẩm định giá tài sản vô hình mà ta có thể áp dụng để định giá tài sản trí tuệ. Cụ thể là:
phương pháp chi phí; phương pháp thu nhập và phương pháp thị trường.
Phương pháp thẩm định giá dựa trên thu nhập. Phương pháp định giá này dựa trên nguyên

tắc cơ bản là giá trị của một tài sản vô hình sẽ được tính ra từ các lợi ích kinh tế (tức thu
nhập/dòng tiền) mà tài sản đã mang lại trong tương lai.
Pháp thẩm định giá dựa trên thị trường được thực hiện bằng cách so sánh đối tượng định giá
với các tài sản vô hình tương tự, hay các lợi ích sở hữu tài sản vô hình và các chứng khoán đã
được bán trên thị trường mở.
Phương pháp thẩm định giá dựa trên chi phí được tìm ra dựa trên nguyên tắc thay thế. Có
nghĩa là giá trị của một tài sản sẽ không lớn hơn chi phí khi thay thế tất cả các bộ phận hợp thành
của nó. Trong khi thực hiện phương pháp chi phí, chi phí của từng bước tạo ra tài sản phải được
xác định, có sử dụng những lý thuyết và kiến thức được biết vào thời điểm định giá. Có hai
phương pháp định giá dựa trên chi phí của tài sản vô hình đó là: Phương pháp dựa trên chi phí
quá khứ và phương pháp dựa trên chi phí thay thế, chế tạo.
2.1.5 Các thủ tục liên quan đến việc góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu
trí tuệ
Theo quy định của Luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, góp vốn thành lập doanh
nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện qua các bước sau:
Bước 1. Cam kết hoặc thỏa thuận góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Bước 2: Thông qua điều lệ doanh nghiệp trong đó có ghi nhận tỷ lệ vốn góp bằng quyền sở hữu
trí tuệ.
Bước 3. Đăng ký kinh doanh
Bước 4. Chủ thể góp vốn chuyển giao vốn góp cho doanh nghiệp
Bước 5: Cấp giấy chứng nhận vốn góp cho thành viên/cổ đông góp vốn.
2.1.6 Thủ tục chuyển giao tài sản góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ và trách nhiệm của
thành viên góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ
Sau khi đã tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh, để hoàn tất thủ tục góp vốn thành viên góp
vốn phải tiến hành chuyển giao quyền sở hữu/quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp
cho doanh nghiệp. Theo đó, trong trường hợp các đối tượng sở hữu trí tuệ không cần phải tiến
hành thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền việc chuyển giao quyền sở hữu/quyền
sử dụng không cần phải tiến hành thủ tục đăng ký mà thành viên góp vốn chuyển giao tài sản đó
cho doanh nghiệp có xác nhận bằng biên bản. Cụ thể, các đối tượng sở hữu công nghiệp không
phải tiến hành thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm: quyền tác giả;

quyền liên quan đến quyền tác giả; quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại; quyền sở
hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh. Đối với các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được xác
lập trên cơ sở đăng ký bảo hộ như quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu thì thủ tục chuyển quyền sở hữu trí tuệ sang cho doanh nghiệp
được thực hiện theo thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2.1.7 Thủ tục xử lý quyền sở hữu trí tuệ khi chấm dứt việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí
tuệ vào doanh nghiệp
Trong trường hợp hết thời hạn góp vốn hoặc do các bên thỏa thuận chấm dứt việc góp vốn,
mà vẫn chưa hết thời hạn được bảo hộ đối với quyền sở hữu trí tuệ tương ứng thì bên góp vốn
bằng quyền sở hữu trí tuệ được nhận lại quyền sở hữu trí tuệ đó. Nếu bên góp vốn không có nhu
cầu sử dụng quyền sở hữu trí tuệ, thì doanh nghiệp nhận góp vốn vẫn có thể sử dụng quyền sở
hữu trí tuệ này, nếu được sự đồng ý của bên góp vốn. Nếu thời hạn bảo hộ đối với quyền sở hữu
trí tuệ dùng để góp vốn đã hết, thì doanh nghiệp nhận góp vốn được vẫn được quyền sử dụng
nhưng trong trường hợp này sẽ không được quyền sở hữu, nghĩa là không loại trừ các tổ chức, cá
nhân khác sử dụng quyền sở hữu trí tuệ. Nếu doanh nghiệp nhận góp vốn hoặc bên góp vốn bằng
quyền sở hữu trí tuệ bị phá sản, thì quyền sở hữu trí tuệ đã góp vốn được xử lý theo quyết định
của tòa án nhân dân về việc tuyên bố phá sản. Nếu doanh nghiệp nhận góp vốn bằng quyền sở
hữu trí tuệ bị giải thể hoặc bên góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ là tổ chức bị giải thể, thì quyền
sở hữu trí tuệ đã góp vốn được xử lý theo thỏa thuận của các bên phù hợp với quy định của Luật
Sở hữu trí tuệ và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
2.1.8 Về chứng từ và việc hoạch toán quyền sở hữu trí tuệ trong quá trình hoạt động của
doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhận góp vốn thành lập bằng quyền sở hữu trí tuệ phải hoạch toán giá trị vốn
góp bằng quyền sở hữu trí tuệ do bên góp vốn vào tài sản cố định và trích khấu hao vào chi phí
hợp lý kinh tính thuế thu nhập doanh nghiệp kể từ khi góp vốn. Như vậy, theo nguyên tắc về việc
ghi chép kế toán, chỉ có những quyền sở hữu trí tuệ có chi phí phát sinh thì mới được xem xét để
hoạch toán vào vốn góp thành lập doanh nghiệp. Đây là một vấn đề bất cập hiện nay, bởi đối với
các doanh nghiệp nhận góp vốn thành lập thì thành viên góp vốn chuyển giao quyền sở hữu
quyền sở hữu trí tuệ sang cho doanh nghiệp và được hưởng các quyền lợi từ doanh nghiệp. Mặc
dù, pháp luật có quy định về việc doanh nghiệp nhận góp thành lập bằng quyền sở hữu trí tuệ

phải hoạch toán giá trị vốn góp bằng quyền sở hữu trí tuệ do bên góp vốn vào tài sản cố định
doanh nghiệp, nhưng lại chưa quy định cụ thể về việc hoạch toán sổ sách kế toán của doanh
nghiệp.
2.1.9 Hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
Hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong việc góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng
quyền sở hữu trí tuệ. Hợp đồng góp vốn thành lập doanh nghiệp được tạo lập trên cơ sở tự do ý
chí của các bên. Do đó, cũng giống như các loại hợp đồng thông thường khác, về nguyên tắc
pháp luật sẽ không ràng buộc hoặc hạn chế sự tự do thỏa thuận của các bên.
2.2 Đánh giá pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
2.2.1 Những ưu điểm
Trước hết, pháp luật đã có sự hoàn thiện đó trong việc sử dụng những thuật ngữ pháp lý để
phản ánh nội dung của hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Hai là, Pháp luật nước ta về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ đã
hình thành và dần hoàn thiện khung pháp lý cơ bản cho hoạt động góp vốn thành lập doanh
nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Ba là, pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ đã góp phần
làm thay đổi cơ bản nhận thức của các tổ chức, cá nhân trong việc thiết lập quyền bảo hộ đối với
các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.
2.2.2 Những nhược điểm
Thứ nhất, pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ còn thiếu
tính đồng bộ.
Thứ hai, hiện nay, pháp luật nước ta đang sử dụng thuật ngữ góp vốn thành lập doanh
nghiệp bằng “giá trị quyền sở hữu trí tuệ” chưa thật sự thống nhất với các quy định của pháp luật
nói chung trong hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp, cũng như chưa phản ảnh được đúng
bản chất của hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ ba, hệ thống pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
chưa mang tính khả thi cao.
Thứ tư, hệ thống pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ còn
thiếu vắng những quy định để hướng dẫn chi tiết về hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp

bằng quyền sở hữu trí tuệ và căn cứ để xác định giá trị quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp
vốn thành lập doanh nghiệp.
Thứ năm, hệ thống pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp còn thiếu vắng những quy
định về chứng từ và việc hoạch toán quyền sở hữu trí tuệ trong quá trình hoạt động của doanh
nghiệp và các chế tài xử lý trong trường hợp doanh nghiệp hoạch toán chi phí cao hơn gấp nhiều
lần giá trị tài sản trí tuệ dùng để góp vốn.
2.2.3 Nguyên nhân cơ bản dẫn đến nhược điểm trong pháp luật về góp vốn bằng uyền sở
hữu trí tuệ ở Việt Nam
Thứ nhất, cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp tồn tại trong một thời gian dài
và còn ảnh hưởng tới hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, việc xây dựng pháp luật thiếu một tư duy hệ thống, bao quát.
Thứ ba, pháp luật về kinh tế tư nhân nói chung và pháp luật về doanh nghiệp nói riêng mới
được xây dựng ở Việt Nam sau nhiều năm bị triệt tiêu, nên không khỏi có sự lạc hậu, khiếm
khuyết.
Thứ tư, sự biến động khá sâu sắc và mạnh mẽ của các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị
trường phát triển với tốc độ cao ở nước ta, đã làm cho nhiều quy định trong pháp luật nhanh
chóng rơi vào trạng thái không phù hợp, không đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn đời sống xã
hội.
Thứ năm, Tổ chức bộ máy các cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật chưa đủ mạnh để
thực hiện nhiệm vụ được giao.
Thứ sáu, chi phí cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực
tiễn hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Chương 3: THỰC TRẠNG GÓP VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP BẰNG QUYỀN
SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG GÓP VỐN THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI VIỆT NAM
3.1 Thực trạng góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
hiện nay
Ở Việt Nam hiện nay, việc góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ đã
được pháp luật ghi nhận từ khá lâu, tuy nhiên trên thực tế hoạt động góp vốn thành lập doanh

nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ chưa được diễn ra phổ biến. Hiện nay, hoạt động góp vốn thành
lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu và quyền sử dụng nhãn hiệu đang được diễn ra phổ biến và
sôi động hơn cả. Còn hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu đối với các
đối tượng là các giải pháp kỹ thuật hay các quy trình chưa được phổ biến. Hiện nay, nhiều tập
đoàn, tổng công ty nhà nước như VINACONEX, CONTREXIM, VIGLACERA đã sử dụng
quyền sử dụng nhãn hiệu để góp vốn thành lập doanh nghiệp với các tổ chức, cá nhân khác. Cụ
thể Công ty Cổ phần Sông Đà đã sử dụng quyền sử dụng nhãn hiệu để góp vốn thành lập ba công
ty con. Đó là, Công ty Cổ phần Sông Đà 909 (S99), Công ty Cổ phần Sông Đà 10 (SDT) và
Công ty cổ phần Cơ giới Lắp máy và Xây dựng (VMC). Tuy nhiên, cùng là thương hiệu Sông
Đà, nhưng tại các doanh nghiệp khác nhau lại được ghi nhận giá trị vốn góp khác nhau. Vậy việc
định giá giá trị thương hiệu Sông Đà trong trường hợp này sẽ được thực tính toán theo nguyên
tắc nào. Còn theo báo cáo của Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (VINASHIN), tính đến
31.12.2007, Tập đoàn này đã sử dụng thương hiệu (nhãn hiệu, tên thương mại) để góp vốn vào
103 công ty cổ phần, liên doanh với giá trị quy ra tiền tới 2.067 tỷ đồng, tính bằng 30% tổng vốn
điều lệ doanh nghiệp nhận góp vốn. Ở Việt Nam hiện nay, do chưa có văn bản nào quy định
riêng về việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ, nên việc góp vốn thường được lập hợp đồng
như các loại hợp đồng góp vốn thông thường. Các bên sẽ xác định giá trị nhãn hiệu hàng hóa
theo thỏa thuận và theo đó lập hợp đồng góp vốn, trong đó quy định rõ tỷ lệ góp vốn là bao nhiêu
và nghĩa vụ, quyền lợi các bên như các loại hợp đồng thương mại thông thường. Khó khăn xảy ra
là việc các doanh nghiệp thực hiện góp bằng quyền sở hữu trí tuệ, vốn chưa được định giá, song
lại ghi trong giấy đăng ký kinh doanh là “góp vốn bằng tiền”. Và chính “hành động góp vốn
bằng tiền nhưng lại không có tiền” này sẽ gây rắc rối cho hệ thống kế toán; đồng thời, gây ra rất
nhiều vướng mắc nếu doanh nghiệp góp vốn muốn rút vốn, hay doanh nghiệp nhận vốn góp
không muốn tiếp tục hợp tác.
Các vướng mắc nêu trên, xuất phát từ một số nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Nguyên nhân chủ quan, xuất phát từ ý thức về quyền sở hữu trí tuệ của các chủ thể quyền ở Việt
Nam hiện nay chưa thật sự được quan tâm trong đời sống xã hội.
Nguyên nhân khách quan, hệ thống pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở
hữu trí tuệ tuy đã được ban hành, nhưng vẫn còn có những quy định chưa hợp lý hoặc thiếu vắng
những quy định pháp luật điều chỉnh, gây khó khăn cho các tổ chức, cá nhân trong việc sử dụng

quyền sở hữu trí tuệ để tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp.
3.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về góp vốn thành lập doanh
nghiệp băng quyền sở hữu trí tuệ
3.2.1 Hoàn thiện các quy định pháp luật về chủ thể góp vốn, đối tượng và điều kiện góp
vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
Hiện nay, các quy định của pháp luật về chủ thể có quyền góp vốn thành lập doanh nghiệp
bằng quyền sở hữu trí tuệ chưa được quy định cụ thể, rõ ràng. Luật doanh nghiệp 2005 mới chỉ
có những quy định chung về quyền góp vốn thành lập doanh nghiệp của các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước. Nhưng đối với quyền sở hữu trí tuệ, đây là một loại tài sản vô hình đặc biệt,
thì việc quy định của pháp luật về chủ thể có góp vốn thành lập doanh nghiệp là một vấn đề cần
thiết.
3.2.2 Xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về việc xác định giá trị của quyền sở
hữu trí tuệ làm cơ sở cho việc định giá quyền sở hữu trí tuệ khi góp vốn thành lập doanh
nghiệp
Theo hướng dẫn số 4 của Ủy ban tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế, có ba phương pháp để
thẩm định giá tài sản vô hình. Cụ thể là phương pháp chi phí, phương pháp thu nhập và phương
pháp thị trường. Tuy nhiên, việc áp dụng những phương pháp này không phù hợp với điều kiện
kinh tế của nước ta. Bởi vậy, chúng ta cần phải xây dựng những phương pháp xác định giá trị tài
sản vô hình cho tương thích với hướng dẫn của Ủy ban thẩm định giá quốc tế và thông lệ quốc
tế, nhưng phải phù hợp với điều kiện của Việt Nam
3.2.3 Hoàn thiện các quy định về chứng từ và việc hoạch toán quyền sở hữu trí tuệ trong
quá trình hoạt động của doanh nghiệp
Về chế độ hoạch toán quyền sở hữu trí tuệ dùng để góp vốn thành lập doanh nghiệp, pháp
luật cần cân nhắc đến việc xác định giá trị của tài sản này. Theo kiến nghị của tác giả, pháp luật
có thể cho phép doanh nghiệp tự xác định giá trị của quyền sở hữu trí tuệ sử dụng để góp vốn
thành lập doanh nghiệp để được ghi nhận trong báo cáo tài chính. Đồng thời, để có thể hiện
chính xác giá trị của tài sản này, hàng năm các doanh nghiệp cần được các tổ chức định giá xác
định lại giá trị của các quyền sở hữu trí tuệ này.
3.2.4 Hoàn thiện quy định về hợp đồng thành lập doanh nghiệp nói chung và góp vốn
thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ nói riêng

Quy định về hợp đồng thành lập doanh nghiệp phải có tối thiếu các nội dung: một là, chỉ rõ
bản chất pháp lý của hợp đồng thành lập doanh nghiệp và nêu lên những đặc điểm chính của hợp
đồng; hai là nhiều người liên kết hay giao kết hợp đồng tạo lập ra một thực thể có mục đích
thương mại; cùng nhau góp vốn vào thực thể đó dưới các hình thức góp vốn nhất định; nhằm
mục đích kiếm lợi nhuận để chia nhau và cùng nhau chịu lỗ; hình thức của hợp đồng trong đó
xác định rõ những trường hợp phải xác lập bằng văn bản và giá trị chứng cứ của văn bản này;
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm bắt đầu của doanh nghiệp; các nguyên tắc, quy
tắc giải quyết việc không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ góp vốn; xác định các
nguồn pháp luật để tìm kiếm giải pháp giải quyết tranh chấp liên quan tới hợp đồng.
3.2.5 Hoàn thiện các quy định pháp luật về thủ tục góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng
quyền sở hữu trí tuệ
Pháp luật cần quy định về điều kiện, thủ tục góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ theo hướng
bảo đảm sự phù hợp và thông thoáng của các quy định này. Đồng thời, nên quy định việc người
góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ được nhận lại quyền sở hữu trí tuệ khi hết thời hạn góp vốn
với điều kiện việc rút quyền sở hữu trí tuệ không làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp, đồng thời
cũng phù hợp với quy định của Luật doanh nghiệp (thành viên góp vốn không được rút vốn khỏi
doanh nghiệp và không được giảm vốn điều lệ).

3.2.6 Hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ
Pháp luật sở hữu trí tuệ phải có tính hệ thống, tính thống nhất, cần phải có những quy định
những vấn đề chưa được pháp luật điều chỉnh; các quy định rõ ràng, cụ thể; quy định phải tương
thích với các công ước quốc tế liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ mà chúng ta đã và sẽ là thành
viên. Hơn nữa, các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ phải hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho
cả các chủ thể sáng tạo và các chủ thể có liên quan. Thông qua các giải pháp: rà soát tất cả các
văn bản pháp luật hiện hành về quyền sở hữu trí tuệ, các quy định pháp luật về cụ thể về sở hữu
trí tuệ; xây dựng và ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh những vấn đề cơ bản nhưng lại được
quy định chung chung trong Bộ Luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ đang phải chờ văn bản hướng
dẫn thi hành; hoàn thiện các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ về trình tự, thủ tục khi sử dụng
quyền sở hữu trí tuệ để góp vốn thành lập doanh nghiệp.
3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và tổ chức thực hiện pháp luật về góp vốn

thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
3.3.1 Nâng cao năng lực quản lý và thực thi quyền sở hữu trí tuệ của các cơ quan Nhà
nước
Một là, cần xác định rõ ràng và hợp lý về thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong việc
quản lý quyền sở hữu trí tuệ.
Hai là, cần nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ quản lý, hoàn thiện thủ tục hành chính về
quản lý quyền sở hữu trí tuệ.
Ba là, cần triệt để và nghiên cứu cải tiến cơ chế khi giải quyết những vấn đề có liên quan
đến việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Bốn là, cần tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đối với việc quản lý sở hữu trí tuệ, vì đây là một lĩnh vực phực tạp.
3.3.2 Tăng cường việc đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ
Một mặt, cần đặc biệt quan tâm đến việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức, bổi dưỡng về
pháp luật nói cung, pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ nói riêng đối với đội ngũ công chức làm
công tác quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
Mặt khác, cần đẩy mạnh việc phổ biến giáo dục pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ nói chung
và pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ nói riêng.
3.4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng
quyền sở hữu trí tuệ
Một là, nghiên cứu thành lập một đơn vị có nhiệm vụ rà soát tất cả các quy định có liên quan
đến việc quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ nói chung, đến việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí
tuệ nói riên, để kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung một cách đồng bộ.
Hai là, nên có một nghị định riêng quy định về việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ, quy
định cụ thể về bên góp vốn, bên nhận góp vốn, quyền sở hữu trí tuệ được dùng để góp vốn, trình
tự, thủ tục góp vốn và những nội dụng khác có liên quan đến việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí
tuệ.
Ba là, theo quan điểm của cá nhân tác giả, nên thống nhất lại quan niệm góp vốn thành lập
doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ thay vì quy định của pháp luật hiện nay là góp vốn
thành lập doanh nghiệp bằng “giá trị quyền sở hữu trí tuệ” để phù hợp với những quy định của

pháp luật nói chung và bản chất của hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở
hữu trí tuệ nói riêng.
Bốn là, về việc định giá quyền sở hữu trí tuệ khi góp vốn thành lập doanh nghiệp, theo quan
điểm cá nhân của tác giả, nhà nước ta vẫn trên cơ sở tôn trọng sự tự do thỏa thuận của các bên
trong việc định giá quyền sở hữu trí tuệ khi nó được sử dụng để góp vốn thành lập doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nhà nước ta cũng cần phải có những quy định chi tiết để hướng dẫn, định hướng cho
việc xác định giá trị của quyền sở hữu trí tuệ.
Năm là, cần nghiên cứu để quy định về thu thuế đối với việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí
tuệ vào sản xuất, kinh doanh. Việc không thu thuế đối với hoạt động này đã tạo cơ chế để một số
cá nhân, tổ chức muốn trốn thuế chuyển quyền sở hữu trí tuệ bằng cách bên chuyển nhượng và
bên nhận chuyển nhượng cùng đứng ra thành lập doanh nghiệp, trong đó bên chuyển nhượng là
người nhận góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh bên chuyển nhượng sẽ làm thủ tục chuyển nhượng phần vốn Zgóp đó cho bên nhận
chuyển nhượng với tư cách thành viên doanh nghiệp và sau đó chấm dứt hoạt động của doanh
nghiệp.




KẾT LUẬN

Trong công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta, nhiều quy định pháp luật đã được hình
thành mới hoặc sửa đổi, bổ sung, để giải quyết những vấn đề phát sinh trên thực tiễn. Góp vốn
thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ là một trong những nội dung đó. Đây là vấn đề
không hoàn toàn mới lạ trong pháp luật nước ta, nhưng không phải mọi nội dung đều đã được
hiểu và giải quyết một cách thống nhất và có hiệu quả. Ngược lại, hiện nay vẫn còn nhiều quan
điểm trái ngược nhau về một số nội dung liên quan đến vấn đề này.
Luận văn đã nghiên cứu để làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn các khái niệm về góp vốn,
quyền sở hữu trí tuệ và góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ vào sản xuất,
kinh doanh. Từ những khái niệm cơ bản đó luận văn đã tiếp cận thực trạng pháp luật về góp vốn

bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt nam, đã biệt là những quy định của pháp luật hiện hành về đối
tượng góp vốn, đối tượng nhận góp vốn điều kiện góp vốn, thủ tục góp vốn và những nội dung
khác về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Các nội dung cơ bản về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ dã được phân tích, so sánh,
với quy định của các giai đoạn trước để rút ra kết luận về những ưu điểm, nhược điểm của các
quy định pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
Luận văn cũng phân tích để xác định những nguyên nhân những nhược điểm của các quy
định pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể: nhiều quy
định của pháp luật chưa khoa học, trình độ chuyên môn của đội ngũ công chức nhà nước về sở
hữu trí tuệ còn chưa đồng bộ; ý thức pháp luật của nhân dân còn thấp.
Những nguyên nhân đó đã trở thành cơ sở khoa học cần thiết cho việc hình thành những giải
pháp hoàn thiện pháp luật về bao gồm những giải pháp về hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ
quan có chức năng trong quản lý. Đồng thời trên cơ sở đó, tác giả luận văn đã đề xuất một số
kiến nghị nhăng nâng của hiệu quả của việc cá nhân, tổ chức góp vốn thành lập doanh nghiệp
bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.


References

A. TIẾNG VIỆT
1. Phạm Tuấn Anh (2009), Góp vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt Nam, Luận văn ThS,
Luật, Thư viện Đại học Quốc Gia Hà Nội.
2. Tori Aritdumi, Xaca Vacaxum; Nguyễn Đức Giao, Lưu Tiến Dũng dịch; Hoàng Thế Liên
hiệu đính (1996), Bình luận khoa học Bộ Luật dân sự Nhật Bản, NXB Chính Trị Quốc Gia.
3. Ngô Huy Cương (2004), Hợp đồng thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam, luận án tiến sĩ luật
học, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
4. Quốc Cường (2010), Luật doanh nghiệp và quy định mới về đăng ký kinh doanh, hướng dẫn
thi hành chi tiết thành lập doanh nghiệp (theo nghị định số 43/2010/NĐ-CP và Thông tư số
14/2010/TT-BKH), NXB Hồng Đức.
5. Trương Quang Dũng, Đoàn Thanh Loan, Hồ Thu Phương dịch; Trần Quang Hiếu hiệu đính

(2006), Bộ luật dân sự Pháp, NXB Tư pháp, Hà Nội.
6. Vũ Duy Khang (2003), Hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.
7. Lê Nết (2006), Quyền sở hữu trí tuệ, NXB Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
8. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo luật kinh tế, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.
9. Nguyễn Như Phát (1997), Lý luận chung về luật kinh tế, Giáo trình luật kinh tế Việt Nam,
Khoa Luật, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn – Đại học Quốc Gia Hà Nội,
NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.
10. Quốc hội (1996), Bộ Luật dân sự 1995, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Quốc hội (1997), Luật Thương mại 1997, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Quốc hội (2006), Bộ Luật dân sự 2005, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Quốc hội (2006), Luật Doanh nghiệp 2005, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
14. Quốc hội (2003), Luật đất đai, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
15. Quốc Hội (2009), Luật sở hữu trí tuệ (Được sửa đổi, bổ sung năm 2009), NXB Tư pháp, Hà
Nội.
16. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (1972), Bộ Luật Dân sự và Thương sự tố tụng,
17. Nguyễn Văn Thanh (2002), Những vấn đề pháp lý về góp vốn thành lập công ty trách nhiệm
hữu hạn theo luật doanh nghiệp, Luận văn tốt nghiệp, Thư viện Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
18. Lê Xuân Thảo (2005), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, NXB Tư pháp Hà
Nội.
19. Trường đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật dân sự Việt nam, NXB Công an nhân
dân, Hà Nội.
20. Đoàn Văn Trường (2007), Các phương pháp thẩm định giá quyền sở hữu trí tuệ, NXB Khoa
học và Kỹ thuật.
21. Lê Tài Triển, Nguyễn Vạng Thọ, Nguyễn Tân (1972), Luật thương mại Việt Nam dẫn giải,
Quyển I, Kim lai ấn quán, Sài Gòn.
22. Hồng Vân (2009), Góp vốn bằng quyền sử dụng đất tại Việt Nam, Luận văn ThS. Luật, Thư
viện Đại học Quốc Gia Hà Nội.
23. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1997), Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của Bộ
Luật dân sự, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Phạm Việt (2003), Các quy định pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, NXB Chính

trị Quốc Gia, Hà Nội.

B. TIẾNG NƯỚC NGOÀI

25. Adul Kadar, Ken Hoyle, Geoffrey Whitehead. (1985), Business Law, Heinemann, London.
26. Cozian M., Viandier A. (1992), Droit Des Sociétés, Cinqième ésdition, Litec, Paris.
27. CCH Asia Limited. (1990), Guide to Company Law in Malaysia & Singapore, CCH Asia
Limited, 1990.
28. Charles Leadbeater., Living on thin air- The new economy,Viking, London, 1999.
29. William J. Allen, Reiner Kraakman., Commentaries and Cases on the Law of Business
Organization, Aspen publishers, New York, 2003.

×