Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Hợp đồng thuê khai thác tàu bay dân dụng tại Việt Nam Luận văn ThS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 127 trang )





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***







Đỗ Anh Tuấn


Hợp đồng thuê khai thác tàu bay dân
dụng tại Việt Nam


Chuyên ngành : Luật
Mã số : 60 38 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ







Người hướng dẫn: TS. Ngô Huy Cương








HÀ NỘI - 2008


1
MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan của thời
đại. Nhờ có toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế mà các quốc gia có thể
hợp tác, tiếp cận thị trường thế giới, tăng cường sức cạnh tranh, sử dụng hiệu
quả các nguồn lực bên trong và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát
triển kinh tế đất nước. Nắm bắt được quy luật khách quan, Đảng ta đã sớm đề
ra chủ trương " chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có
hiệu quả và bền vững " [1, tr.24]. Vì thế, nền kinh tế của Việt Nam đã luôn
giữ được nhịp độ tăng trưởng ổn định, quan hệ kinh tế trên các lĩnh vực càng
ngày càng được mở rộng và phát triển cả về lượng và chất; cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, xã hội từng bước được cải thiện.
Hòa vào đó, các hoạt động giao lưu quốc tế và kinh tế đối ngoại của
nước ta ngày càng phát triển, trong đó, hoạt động vận tải hàng không của các

hãng hàng không của Việt Nam cũng không ngừng phát triển do sự bùng nổ
của các nhu cầu vận chuyển hành khách, hàng hoá quốc tế, cũng như của các
hoạt động giao lưu quốc tế về văn hoá, thể thao, tìm kiếm cứu nạn, y tế .v.v.
Hiện nay, chỉ tính riêng Tổng công ty HKVN trong năm 2007 đã chuyên chở
7.900.000 hành khách và có một đội tàu bay gồm 46 chiếc thuộc nhiều loại
tàu bay. Trong số đó phần lớn là tàu bay thuê. Dự kiến đến năm 2015 chỉ
riêng Tổng công ty HKVN sẽ có đội tàu bay khoảng 85 chiếc, bao gồm tàu
bay thuộc sở hữu, thuê tài chính và thuê khai thác.
Để đáp ứng yêu cầu về vận tải hàng không trong thời kỳ "Đổi mới" và
hội nhập kinh tế quốc tế, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ:
" phát triển và nâng cao chất lượng vận tải hàng hoá, hành khách
ngày càng hiện đại, an toàn, có sức cạnh tranh, vươn nhanh ra thị trường khu


2
vực và thế giới. Dành thị phần lớn cho doanh nghiệp trong nước trong vận
chuyển hàng hoá Việt Nam theo đường biển và đường hàng không quốc tế.
Phát triển mạnh vận chuyển hành khách công cộng ở các thành phố lớn
nâng cao chất lượng, tăng khối lượng và độ an toàn vận tải hành khách, hàng
hoá trên tất cả các loại hình vận tải Nâng tỉ lệ thị phần vận tải quốc tế bằng
đường hàng không, đường biển Khối lượng luân chuyển hàng hoá tăng 9 -
10 % năm. Luân chuyển hành khách tăng 5-6%/năm" 1, tr.287.
Do đó, việc phát triển đội tàu bay của các hãng hàng không ở Việt Nam
để phục vụ cho các mục tiêu này là một vấn đề hết sức quan trọng.
Trên thế giới cũng như tại Việt Nam, việc phát triển đội tàu bay của các
hãng hàng không thường được thực hiện thông qua hai hình thức là: (1) mua
tàu bay và (2) thuê tàu bay (bao gồm thuê khai thác, thuê tài chính, thuê
chuyến). Trong đó, thuê khai thác tàu bay là một phương thức để phát triển
đội tàu bay của các hãng hàng không một cách linh hoạt, nhanh chóng, với
yêu cầu về khả năng tài chính không cao và thủ tục không quá phức tạp. Đây

sẽ là một phương thức quan trọng để phát triển đội tàu bay của các hãng hàng
không còn hạn chế về khả năng tài chính tại Việt Nam. Do vậy, trong thời
gian tới, hoạt động thuê khai thác tàu bay chắc chắn sẽ còn tiếp tục phát triển
song song với các hoạt động mua, thuê tài chính tàu bay.
Tàu bay là loại tài sản đặc biệt, có giá trị lớn (tàu bay Boeing B777 có
giá khoảng 100 triệu Đô la Mỹ, giá cho thuê tàu bay Boeing B777 vào thời
điểm hiện nay khoảng 1 triệu Đô la Mỹ/tháng), hàm lượng kỹ thuật cao và
thường xuyên hoạt động trên phạm vi quốc tế. Bên cạnh đó, yêu cầu về an
toàn đối với hành khách, hàng hoá và người thứ ba đặt ra rất khắt khe. Dẫn tới
quan hệ hợp đồng thuê khai thác tàu bay rất phức tạp, luôn có nguy cơ phải
đối diện với những rủi ro về tài chính và pháp lý .v.v. cho các bên tham gia.
Vì vậy, cần phải có một chế định pháp lý về thuê tàu bay nói chung và thuê


3
khai thác tàu bay nói riêng, làm cơ sở cho việc quản trị rủi ro, bảo vệ quyền
và lợi ích của các bên tham gia hoạt động thuê tàu bay.
Tuy vậy, các qui định của pháp luật Việt Nam liên quan tới thuê khai
thác tàu bay còn nhiều khiếm khuyết nên việc nghiên cứu đề tài: "Hợp đồng
thuê khai thác tàu bay trong lĩnh vực hàng không dân dụng tại Việt
Nam" là hết sức cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn nhằm đáp
ứng nhu cầu thuê khai thác tàu bay phục vụ cho việc phát triển đội tàu bay
của các hãng hàng không Việt Nam, cũng như hoàn thiện pháp luật nước ta về
thuê khai thác tàu bay.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Hoạt động thuê khai thác tàu bay tại Việt Nam dù không còn là hoạt
động quá mới mẻ như trong thời kỳ đầu những năm 1990. Tuy nhiên, đối với
thị trường thuê khai thác tàu bay ở Việt Nam thì các hoạt động này đang
vướng phải các khó khăn về pháp lý, phần thì do các qui định pháp luật chưa
đầy đủ, chuyên sâu, phần thì các tri thức pháp lý về thuê khai thác tàu bay còn

hạn hẹp. Cho đến nay, ở Việt Nam vẫn chưa có một công trình nghiên cứu
đáng kể nào về hợp đồng thuê khai thác tàu bay ở các cấp độ khác nhau.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích:
- Phân tích một số vấn đề lý luận trọng yếu của hợp đồng thuê khai thác
tàu bay;
- Tìm hiểu và đánh giá thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng thuê khai
thác tàu bay của các hãng hàng không của Việt Nam; và
- Trình bày một số kỹ năng thực hành trong việc giao kết và thực hiện hợp
đồng thuê khai thác tàu bay ở Việt Nam hiện nay.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để trình bày đề tài luận văn của mình, luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu chủ yếu như: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích,


4
phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp luật học so sánh,
phương pháp phân tích quy phạm, phương pháp mô hình hoá và điển hình hoá
các quan hệ xã hội.
5. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương như sau:
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUÊ KHAI THÁC TÀU BAY
1.1 Khái niệm thuê khai thác tàu bay
1.1.1 Khái quát chung về thuê khai thác
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của thuê khai thác tàu bay
1.2 Phân loại hợp đồng thuê khai thác tàu bay
1.2.1 Khái quát chung về phân loại hợp đồng thuê khai thác tàu bay
1.2.2 Hợp đồng thuê ướt tàu bay
1.2.3 Hợp đồng thuê khô tàu bay

1.2.4 Hợp đồng thuê ẩm tàu bay
1.3 Giao kết và hiệu lực của hợp đồng thuê khai thác tàu bay
1.3.1 Chủ thể của hợp đồng thuê khai thác tàu bay
1.3.2 Giao kết hợp đồng thuê khai thác tàu bay
1.3.3 Hình thức hợp đồng thuê khai thác tàu bay
1.3.4 Hiệu lực của hợp đồng thuê khai thác tàu bay
1.4 Nội dung của hợp đồng thuê khai thác tàu bay
1.4.1 Nội dung chủ yếu của hợp đồng thuê khai thác tàu bay
1.4.2 Các nội dung khác
1.5 Đàm phán hợp đồng thuê khai thác tàu bay
1.6 Thực hiện hợp đồng thuê khai thác tàu bay
1.6.1 Các nguyên tắc
1.6.2 Các đặc thù


5
1.7 Vi phạm hợp đồng thuê khai thác tàu bay và chế tài áp dụng
1.7.1 Vi phạm hợp đồng thuê khai thác tàu bay
1.7.2 Chế tài
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THUÊ KHAI THÁC TÀU BAY Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Lƣợc sử thuê khai thác tàu bay ở Việt Nam
2.2 Pháp luật điều tiết thuê khai thác tàu bay ở Việt Nam
2.2.1. Các Điều ước quốc tế đa phương và Hiệp định hàng không song
phương về hàng không Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia
2.2.2. Các văn bản pháp luật Việt Nam về hợp đồng thuê khai thác tàu bay
2.3 Thực tiễn thuê khai thác tàu bay tại Tổng công ty hàng không Việt Nam
2.3.1. Khái quát chung về hoạt động thuê khai thác tàu bay tại Tổng Công ty hàng
không Việt Nam
2.3.2. Các giao dịch thuê khai thác tàu bay lớn của Tổng Công ty hàng không
Việt Nam

2.4 Những vƣớng mắc trong hoạt động thuê khai thác tàu bay ở Việt
Nam hiện nay
2.5 Các nguyên nhân chủ yếu của các khiếm khuyết thuê khai thác tàu
bay ở Việt Nam
Chƣơng 3. ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ VỀ CÁC
GIẢI PHÁP THỰC HÀNH THUÊ KHAI THÁC TÀU BAY Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Cơ sở xác định các định hƣớng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
thuê khai thác tàu bay ở Việt Nam hiện nay
3.2 Các định hƣớng cơ bản về hoàn thiện pháp luật về thuê khai thác
tàu bay ở Việt Nam hiện nay
3.3 Các giải pháp cơ bản để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thuê
khai thác tàu bay ở Việt Nam hiện nay


6
3.4 Các giải pháp thực hành thuê khai thác tàu bay của các hãng hàng
không ở Việt Nam


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUÊ KHAI THÁC TÀU BAY
Khái niệm thuê khai thác tàu bay
1.1.1 Khái quát chung về thuê khai thác
Thuê và cho thuê tài sản là một hành vi pháp lý có bề dày lịch sử trong
các nền tài phán. Chế định về thuê tài sản đã được ghi nhận trong các bộ luật cổ
từ hàng nghìn năm trước, chẳng hạn trong Bộ luật Hammurabi - bộ luật thành
văn cổ nhất của các quốc gia phương Đông (1795 - 1750 trước Công nguyên).
Trong nhiều thế kỷ, hệ thống luật chung Anh Mỹ (Common Law) chỉ
thừa nhận thuê bất động sản mà không thừa nhận thuê động sản như một chế
định pháp luật. Cho đến trước thế kỷ XIX, thuê tài sản vẫn còn là một loại

giao dịch mới, chưa phát triển trên thị trường thương mại thế giới. Kể từ sau
thế kỷ XIX, khi nền công nghiệp của các nước Châu Âu và Mỹ đạt được
những thành tựu vượt bậc, nhu cầu về các thiết bị trong ngành công nghiệp và
nông nghiệp gia tăng đi đôi với việc gia tăng rất lớn nhu cầu thiết bị trong
ngành hỏa xa, vì thế, đã dẫn đến sự phát triển của hoạt động thuê thiết bị, đặc
biệt là cho thuê thiết bị trong ngành hỏa xa. Thời kỳ này đã xuất hiện rất
nhiều công ty cho thuê thiết bị cũng như các ngân hàng hay công ty tín thác
phục vụ cho việc thuê thiết bị.
Đến đầu thế kỷ XX, do nhu cầu về thuê thiết bị ngắn hạn, đặc biệt là
đối với phương tiện vận tải của các công ty đã phát triển, cùng với việc các
nhà sản xuất muốn bảo vệ quyền sở hữu của mình đối với sản phẩm đã dẫn
đến sự ra đời của thuê khai thác tài sản - một dạng thuê tài sản đặc biệt. Cho


7
đến những năm 60 của thế kỷ XX thì thuê khai thác tài sản mới thực sự phát
triển và có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp, tổ chức, ngân hàng .v.v. Kể từ
thời gian này, hoạt động thuê khai thác tài sản đã trở thành một kênh để cung
cấp thiết bị cho các doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông vận tải.
Thuê khai thác tài sản là một dạng thuê tài sản đặc biệt, do vậy mọi nền
tài phán đều thấy cần có quy chế pháp lý riêng để điều chỉnh hoạt động này.
Tuy nhiên, về mặt học thuật, cũng như về pháp luật thực định có rất nhiều
định nghĩa khác nhau về hợp đồng thuê khai thác tài sản:
Theo Hiệp hội cho thuê thiết bị Anh quốc thì: "Thuê là một hợp đồng giữa
người cho thuê và người thuê nhằm thuê một thiết bị cụ thể được người thuê
chọn từ người sản xuất hoặc người bán. Người thuê nắm quyền chiếm hữu và
sử dụng tài sản thuê theo một khoản tiền thuê và trong một thời gian nhất
định" 26, tr.23.
Theo Canadian Institute of Chartered Accountants Handbook thì: "Hợp
đồng thuê là sự chuyển của Bên cho thuê cho Bên thuê các quyền sử dụng tài

sản hữu hình trong một thời gian xác định để đổi lấy tiền thuê" 26, tr.23.
Một số văn bản pháp luật của Việt Nam hiện nay không sử dụng thuật
ngữ "thuê khai thác" mà sử dụng thuật ngữ "thuê vận hành". Có thể thấy theo
cách hiểu thông thường thuật ngữ "thuê vận hành" chỉ bao hàm việc thuê điều
khiển tài sản. Trong khi đó thuật ngữ "thuê khai thác" ngoài việc đề cập đến
việc điều khiển, còn đề cập đến việc sử dụng tài sản, có nghĩa là khai thác
công dụng của tài sản phục vụ cho mục đích kinh tế của người thuê. Theo
Điều 2 của Quy chế tạm thời về Cho thuê vận hành của các Công ty cho thuê
tài chính ban hành kèm theo Quyết định số 731/2004/QĐ-NHNN ngày
15/6/2004 của Ngân hàng nhà nước thì thuê khai thác tài sản được định nghĩa
như sau:


8
"Cho thuê vận hành (cho thuê hoạt động) là hình thức cho thuê tài sản,
theo đó Bên thuê sử dụng tài sản cho thuê của Bên cho thuê trong một thời
gian nhất định và sẽ trả lại tài sản đó cho Bên cho thuê khi kết thúc thời hạn
thuê tài sản. Bên cho thuê giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê và nhận tiền cho
thuê theo hợp đồng cho thuê" .
Trong hợp đồng thuê khai thác, Bên thuê có quyền sử dụng tài sản, có
nghĩa là, Bên thuê có quyền khai thác công dụng, lợi ích vật chất của tài sản
để phục vụ nhu cầu của mình.
Trên thực tế có nhiều cách phân biệt thuê khai thác với các dạng thuê
tài sản khác nhau căn cứ trên tính chất thương mại, kỹ thuật, tài chính, đối
tượng, mục đích .v.v. của các dạng thuê tài sản.
Theo Điều 3 của Quy chế tạm thời về Cho thuê vận hành của các Công
ty cho thuê tài chính ban hành kèm theo Quyết định số 731/2004/QĐ-NHNN
của Ngân hàng nhà nước ngày 15/6/2004 thì tiêu chí để xác định hợp đồng
cho thuê vận hành là:
1. Quyền sở hữu tài sản cho thuê không được chuyển giao cho Bên thuê

khi kết thúc hợp đồng cho thuê vận hành.
2. Hợp đồng cho thuê không qui định việc thoả thuận mua tài sản cho thuê
giữa Bên cho thuê và Bên thuê.
3. Thời hạn thuê chỉ chiếm một phần trong khoảng thời gian hữu dụng của
tài sản cho thuê.
4. Tổng giá trị tiền thuê chỉ chiếm một phần trong giá trị tài sản cho thuê.
Theo thông lệ về thuê khai thác tài sản trên thế giới thì việc phân biệt
thuê khai thác tài sản với các dạng thuê tài sản khác được dựa trên hai căn cứ
sau: (1) hợp đồng thuê khai thác là hợp đồng có thể hủy ngang theo những
điều kiện nhất định; (2) Bên thuê có trách nhiệm bảo trì tài sản.
Như vậy, hợp đồng thuê khai thác tài sản có các đặc trưng sau:


9
- Hợp đồng thuê khai thác tài sản là hợp đồng có thể huỷ ngang với điều kiện
nhất định;
- Bên cho thuê là chủ sở hữu tài sản trong suốt thời hạn thuê. Các rủi ro liên
quan đến sở hữu tài sản do Bên cho thuê gánh chịu;
- Bên thuê không phải là chủ sở hữu của tài sản cho thuê vào thời điểm kết
thúc hợp đồng hoặc trong thời hạn thuê và phải trả lại tài sản cho Bên cho
thuê khi hết hạn hợp đồng thuê;
- Bên thuê chịu trách nhiệm bảo trì tài sản trong thời hạn thuê.
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thuê khai thác tàu bay
 Khái niệm thuê khai thác tàu bay:
Theo Khoản 1 Điều 13 Luật HKDDVN thì: "Tàu bay là thiết bị được nâng
giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ với không khí bao gồm máy bay, trực
thăng, tàu lượn và các thiết bị bay khác trừ các thiết bị được nâng giữ trong khí
quyền nhờ tác động tương hỗ với không khí phản lại từ bề mặt trái đất".
Tàu bay là một thiết bị di động đặt biệt, có giá trị kinh tế lớn và hàm
lượng khoa học kỹ thuật cao. Nó là thiết bị hoạt động trong khí quyển nên

trong quá trình hoạt động sẽ trở thành một nguồn nguy hiểm cao độ đối với an
toàn của tổ bay, hành khách, hàng hóa và người thứ ba. Trong lĩnh vực hàng
không dân dụng, tàu bay được sử dụng với mục đích vận chuyển hành khách,
hàng hóa. Do đó, yêu cầu về bảo đảm an toàn cho hành khách, hàng hóa và
người thứ ba là vấn đề rất quan trọng và được ưu tiên hàng đầu. Chính vì vậy,
các tiêu chuẩn về an toàn đối với các hãng hàng không trong việc khai thác
tàu bay được các văn bản pháp luật qui định rất cụ thể và khắt khe.
Tàu bay thường được khai thác trên phạm vi quốc tế nên chịu sự chi
phối của nhiều nền tài phán. Các qui định pháp luật liên quan đến tàu bay rất
rộng như chủ quyền quốc gia, tài chính, hành chính, dân sự, thương mại, hình
sự, kỹ thuật .v.v. Để bảo đảm an toàn cho hành khách, hàng hóa và người thứ


10
ba .v.v. cũng như hạn chế các rủi ro về tài chính, pháp lý thì việc khai thác tàu
bay phải đáp ứng các tiêu chuẩn, yêu cầu rất cao về an toàn, kỹ thuật, tài
chính, pháp luật .v.v.
Thuê khai thác tàu bay là một dạng thuê khai thác tài sản đặc biệt áp
dụng đối với một đối tượng đặc biệt - tàu bay. Vì vậy, thuê khai thác tàu bay
ngoài những tính chất giống như thuê khai thác tài sản như đã nêu ở trên thì
còn có những đặc điểm khác biệt như sau:
- Chủ thể của hợp đồng thuê khai thác tàu bay phải là các thực thể được pháp
luật thừa nhận theo các qui định cụ thể, chuyên ngành. Đó là các hãng hàng
không hoặc các công ty chuyên về cho thuê tàu bay;
- Các chế định liên quan đến bảo đảm an toàn cho hoạt động khai thác tàu bay
được qui định khắt khe. Người khai thác, người thuê và tàu bay phải hội đủ
các điều kiện để được cấp các chứng chỉ như: chứng chỉ về kiểu loại tàu bay,
chứng chỉ khả phi, chứng chỉ về khả năng tài chính của người bảo hiểm,
chứng chỉ nhân viên khai thác .v.v.;
- Hoạt động khai thác tàu bay phải được mua bảo hiểm do tính chất nguy

hiểm và rủi ra cao. Đó là các loại bảo hiểm đối với thân tàu bay, động cơ,
hành khách, hành lý, hàng hóa, người thứ ba .v.v.
Trong các tài liệu nghiên cứu chuyên ngành cũng như các văn bản
pháp luật của nước ta chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về thuê khai thác tàu
bay. Tại Mục 5 của Luật HKDDVN đã có một số qui định mang tính nguyên
tắc đối với thuê và cho thuê tàu bay và các dạng hợp đồng thuê tàu bay. Tuy
nhiên, Luật HKDDVN không có qui định nào nêu rõ khái niệm thuê khai thác
tàu bay mà chỉ có các qui định chung về Hình thức thuê và cho thuê tàu bay
(Điều 35); Thuê, cho thuê tàu bay có tổ bay và Thuê (Điều 36); Thuê, cho
thuê tàu bay không có tổ bay (Điều 37); Yêu cầu đối với thuê tàu bay (Điều
38); Chấp thuận việc thuê, cho thuê tàu bay giữa các tổ chức, cá nhân Việt


11
Nam và các tổ chức, cá nhân nước ngoài (Điều 39); Chuyển giao nghĩa vụ giữa
quốc gia đăng ký quốc tịch tàu bay và quốc gia khai thác tàu bay (Điều 40).
Qua các phân tích nêu trên, có thể hiểu thuê khai thác tàu bay là: Thỏa
thuận giữa Bên thuê và Bên cho thuê, theo đó, Bên thuê có quyền chiếm hữu,
sử dụng tàu bay thuê trong thời hạn nhất định và phải thanh toán tiền thuê tàu
bay cho Bên cho thuê; Bên thuê phải trả lại tàu bay cho Bên cho thuê khi hết
thời hạn thuê; Quyền sở hữu tàu bay thuê thuộc về Bên cho thuê; các bên có
thể hủy ngang hợp đồng theo những điều kiện nhất định.
 Các đặc điểm của thuê khai thác tàu bay
Thứ nhất, Bên thuê tàu bay thường là các hãng hàng không được cấp Giấy
chứng nhận người khai thác tàu bay (Aircraft Operator Certificate);
Thứ hai, Bên cho thuê tàu bay thường là các công ty chuyên cho thuê
tàu bay hoặc các hãng hàng không;
Thứ ba, Bên cho thuê là chủ sở hữu tàu bay trong suốt thời hạn thuê;
Thứ tư, các rủi ro liên quan đến sở hữu tàu bay do Bên cho thuê gánh chịu;
Thứ năm, Bên thuê tàu bay phải hoàn trả lại tàu bay thuê cho Bên cho

thuê khi hết hạn hợp đồng;
Thứ sáu, hợp đồng thuê khai thác tàu bay là hợp đồng có thể huỷ ngang
theo những điều kiện nhất định. Hợp đồng không có điều khoản về việc Bên
thuê sẽ mua tàu bay sau khi hết thời hạn hợp đồng thuê khai thác;
Thứ bảy, Bên thuê khai thác tàu bay theo Giấy chứng nhận người khai
thác tàu bay của mình (đối với thuê khô) hoặc của Bên cho thuê (thuê
ướt/thuê ẩm) hoặc theo qui định của nhà chức trách hàng không liên quan.
 Vai trò của thuê khai thác tàu bay
Trong thực tiễn, giao dịch thuê tàu bay đã xuất hiện từ khoảng giữa
những năm 60 của thập kỷ XX trong hoạt động thương mại ở nhiều quốc gia
trên thế giới. Trải qua mấy thập kỷ tồn tại và phát triển, giao dịch thuê tàu bay


12
ngày càng phát huy được tác dụng tích cực trong hoạt động thương mại trên
toàn thế giới.
Thuê tàu bay đã trở thành một phương pháp tài trợ sáng tạo cho các
hãng hàng không trong việc xây dựng đội tàu bay một cách linh hoạt và hiệu
quả. Để đáp ứng nhu cầu về việc cung cấp tàu bay ngày càng cao của các
hãng hàng không thì thuê tàu bay đã trở thành một hình thức tài trợ thống nhất
tạo điều kiện cho ngành hàng không phát triển.
Trong những thập kỷ gần đây, thị trường cho thuê tàu bay nói chung và
thuê khai thác tàu bay nói riêng đã phát triển rất mạnh. Sự gia tăng các hoạt
động thuê khai thác đã được khẳng định một cách rõ ràng trong hoạt động
kinh doanh những năm gần đây:
”Các hoạt động cho thuê tàu bay chiếm khoảng 6 % thị phần (khoảng
360 tàu bay) vào năm 1981 đã tăng lên 13 % thị phần (khoảng 1.000 tàu bay)
vào năm 1987 và 17 % thị phần (khoảng 1500 tàu bay) vào năm 1999. Sự gia
tăng về số lượng và quy mô của các công ty, tổ chức cho thuê tàu bay trên thị
trường thế giới mặc dù vậy cũng không làm giảm bớt những qui định, quy chế

tài chính khắt khe, chặt chẽ của các ngân hàng cho vay áp dụng đối với các
giao dịch tài trợ vốn cho các dự án mua tàu bay các loại. Các nhà cho thuê
khai thác cho rằng tỉ lệ này sẽ là 22% thị phần vào năm 1996. Dự báo các nhà
cho thuê khai thác trên toàn thế giới hiện nay chiếm giữ khoảng 21% của toàn
bộ các đơn đặt hàng mua tàu bay đã được khẳng định chắc chắn và 15 % của
toàn bộ các đơn hàng lựa chọn dựa trên các xu hướng trong các thị trường
riêng biệt, đơn lẻ” 22, tr.67.
Thuê khai thác tàu bay hiện là hình thức phổ biến trên thị trường vận tải
hàng không quốc tế, kể cả các hãng hàng không có đội tàu bay lớn về quy mô
và chủng loại, có tiềm lực tài chính dồi dào, cũng như đối với các hãng hàng
không có điều kiện tài chính khó khăn, quy mô nhỏ hoặc mới thành lập. Hình


13
thức này thực sự đã đem lại nhiều lợi ích kinh tế cho các bên liên quan, điều
hoà một cách linh hoạt nhất nhu cầu sử dụng, khai thác tàu bay cho các khu
vực, các đối tượng có những mục tiêu không giống nhau. Đối với nhiều hãng
hàng không, các cơ cấu cho thuê có thể hỗ trợ được rất nhiều trong việc làm
tối đa hoá hiệu quả của đội tàu bay và làm tăng thêm khả năng sinh lợi từ việc
khai thác hợp lý, hiệu quả đội tàu bay này.
Cho thuê khai thác với hình thức đơn giản nhất là hợp đồng thuê khai
thác tàu bay chỉ liên quan trực tiếp tới hai bên. Trường hợp khi một hãng hàng
không muốn được sử dụng một hoặc nhiều tàu bay mà không phải trả toàn bộ
khoản tiền bỏ ra để mua tàu bay đó thì có thể sử dụng hình thức thuê khai thác
tàu bay với một tổ chức, công ty cho thuê tàu bay có đủ khả năng đáp ứng cho
nhu cầu của mình.
Đối với các hãng hàng không ở Việt Nam, trong thời kỳ đầu mới thành
lập và phát triển, đội tàu bay của các hãng hàng không gồm các thế hệ, chủng
loại tàu bay do Liên Xô cũ sản xuất với số lượng nhỏ, kỹ thuật lạc hậu, không
hợp với thị hiếu của phần đông khách hàng, khai thác kém hiệu quả. Nay các

tàu bay đó đã không còn đáp ứng được các nhu cầu phát triển mà thực tế đặt
ra. Việc thuê tàu bay bổ xung và nâng cao năng lực vận chuyển, đáp ứng được
theo nhu cầu của thị trường và thị hiếu của hành khách .v.v. đã trở nên hết sức
bức thiết và không thể trì hoãn. Do vậy, các hãng hàng không của Việt Nam
đã mạnh dạn tiếp cận, tham gia vào thị trường vận tải hàng không quốc tế
bằng phương thức thuê khai thác tàu bay nhằm tiếp nhận, làm quen và học hỏi
về quản lý, khai thác các chủng loại tàu bay hiện đại được ưa chuộng trên thị
trường hàng không thế giới như ATR, Airbus, Boeing, Fokker .v.v. Thông
qua hoạt động này chúng ta có điều kiện tiếp xúc và dần dần từng bước vừa
học hỏi để tiến tới làm chủ được các dòng công nghệ hiện đại, tiên tiến.


14
Hoạt động thuê khai thác tàu bay đã giúp các hãng hàng không của Việt
Nam đạt được các lợi thế sau trong những năm vừa qua:
Thứ nhất, việc thuê tàu bay đã tạo được một kênh thống nhất để xây dựng
chiến lược phát triển đội tàu bay;
Thứ hai, việc thuê tàu bay đã giúp có được tàu bay sử dụng nhằm mở rộng
phạm vi hoạt động khai thác hoặc phục vụ cho một yêu cầu riêng biệt nào đó,
đặc biệt là những yêu cầu đột xuất, không đòi hỏi hãng hàng không - là người
sử dụng, khai thác tàu bay phải huy động ngay một số tiền lớn như trường
hợp phải bỏ tiền hoặc vay tiền để mua tàu bay cho các nhu cầu đó;
Thứ ba, việc thuê tàu bay đã mang lại khả năng điều chỉnh rất linh hoạt.
Các thủ tục qui định của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với hợp đồng thuê
khai thác không quá phức tạp đối với các bên. Vì vậy, hình thức thuê này đáp
ứng được dễ dàng hơn các hình thức khác về các yêu cầu mà hãng hàng
không hoặc đối tác có liên quan phải tuân thủ theo qui định của các hệ thống
pháp luật có liên quan;
Thứ tư, việc thuê tàu bay giúp có được tàu bay sớm hơn rất nhiều so với
hình thức mua trực tiếp truyền thống. Nếu trong hình thức mua trực tiếp hoặc

thuê mua thì thời gian đàm phán cũng như việc sản xuất, lắp ráp tàu bay
thường rất dài, thực tế các công việc này thường được tiến hành trong vài
năm. Ưu điểm về thời gian của hình thức thuê khai thác tàu bay là khá nổi bật
so với các hình thức khác, đặc biệt là hình thức thuê khai thác đáp ứng được
ngay các nhu cầu đột xuất của hãng hàng không. Thời gian sử dụng cho giao
dịch từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc một giao dịch thuê tàu bay, tức là ký
kết xong hợp đồng và nhận được tàu bay đưa vào khai thác thường là trong
một khoảng thời gian không dài, đa số các giao dịch loại này được hoàn thành
trong một khoảng thời gian tính bằng tuần hoặc tháng. Thời gian đàm phán,
ký kết hợp đồng và nhận được tàu bay để đưa vào khai thác có thể xác định


15
trước được tương đối chính xác. Lợi thế này đặc biệt có ý nghĩa đối với các
nhu cầu ngắn hạn, đột xuất, hoặc nhu cầu đột biến của thị trường;
Thứ năm, thuê khai thác tàu bay thường có khoản đặt cọc trước không lớn.
Mặc dù trong hình thức thuê khai thác tàu bay, Bên thuê thường cũng phải đặt
cọc một số tiền (kể cả tiền mặt hoặc mở L/C) nhất định được thoả thuận trong
hợp đồng. Số tiền này trong các hợp đồng thường tính trên cơ sở tiền thuê
hàng tháng. (Ví dụ : tiền đặt cọc trước thường là tương đương với ba tháng
tiền thuê). Nếu so sánh với khoản tiền đặt cọc ở các hình thức mua hoặc thuê
mua thì các khoản tiền đặt cọc này thường nhỏ hơn nhiều so với các khoản
đặt cọc trong giao dịch mua trực tiếp. Vì vậy, khả năng thu xếp các nguồn tài
chính là dễ hơn rất nhiều. Đặc biệt là đối với các hãng hàng không có khả
năng tài chính hạn chế hoặc khả năng vay vốn tín dụng không được thuận lợi;
Thứ sáu, việc thuê tàu bay giúp khắc phục được các hạn chế về việc sử
dụng các khoản ngân sách lớn của Hãng hàng không hoặc của Chính phủ.
Thuê khai thác còn có thể không bị ảnh hưởng do các hạn chế về các chính
sách, qui định cụ thể của các tổ chức, định chế tài chính quan trọng như của
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), các hạn chế của các

ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng cho vay thương mại .v.v . mà có
thể trong hợp đồng vay vốn mua tàu bay có thể gặp phải;
Thứ bảy, do hình thức thuê khai thác có khả năng thu xếp các khoản thanh
toán ngắn hạn dễ dàng hơn so với các hình thức mua trực tiếp hoặc thuê mua
nên chúng có thể mang lại sự linh hoạt hơn trong việc lập kế hoạch của đội
tàu bay nếu điều kiện thị trường và thiết bị có sự thay đổi đáng kể. Đây là một
lợi thế khá lớn của hình thức này bởi vì sự linh hoạt trong việc lập kế hoạch
phát triển đội tàu bay đáp ứng được các mục tiêu kinh doanh và nhu cầu, thị
hiếu của thị trường luôn là bài toán không dễ giải đối với hầu hết các hãng
hàng không. Đặc biệt là đối với hãng hàng không mà các tiêu chí cụ thể của


16
đội tàu bay chưa được xác định một cách chắc chắn và rõ ràng ở một thời kỳ
nhất định. Việc xác định các tiêu chí cụ thể cho đội bay của một hãng hàng
không chịu sự tác động, ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố thị trường hoặc các
yếu tố khác. Yếu tố thay đổi kỹ thuật cũng có xảy ra xong ít hơn rất nhiều so
với yếu tố thay đổi về thị trường;
Thứ tám, trong các hình thức thuê khai thác tàu bay dưới dạng thuê khô,
nếu tàu bay thuê là tàu bay mới thì Bên thuê còn được hưởng các chương
trình bảo hành sản phẩm, các chương trình hỗ trợ, khuyến mại mà các nhà sản
xuất tàu bay hoặc các nhà sản xuất động cơ, các nhà cung ứng phụ tùng cấp
cho người mua. Các nhà sản xuất tàu bay, động cơ và một số nhà cung ứng
thiết bị, phụ tùng tàu bay rất ngại hoặc đơn giản là không muốn trực tiếp giảm
giá mua tàu bay, động cơ, thiết bị. Bởi vì việc giảm giá trực tiếp sẽ làm giảm
giá trị của các sản phẩm trên thị trường hàng không vốn rất khắt khe và nhạy
cảm. Do đó, các tổ chức này thường thực hiện việc giảm giá cho sản phẩm
của mình thông qua việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ hoặc các khoản tín dụng
không phải bằng tiền mặt mà thường là bằng các dịch vụ hỗ trợ được tính
bằng tiền. Các công ty cho thuê khai thác tàu bay thường chuyển nhượng các

dịch vụ này cho Bên thuê tàu bay hưởng hoặc sử dụng. Thông thường các loại
dịch vụ này được chuyển nhượng hết sang cho Bên thuê tàu bay;
Thứ chín, trong hợp đồng thuê khai thác tàu bay thường chứa đựng những
yếu tố hoặc khả năng rủi ro về mặt sở hữu tài sản. Các rủi ro về sở hữu hoặc
hoạt động tiếp thị để tiếp tục cho thuê tàu bay sau khi một hợp đồng thuê khai
thác đã kết thúc là do Bên cho thuê tàu bay gánh chịu chứ không phải Bên
thuê. Lợi thế này ở vị thế của Bên thuê tàu bay không phải là lớn và nổi trội.
Tuy nhiên, nếu so sánh các rủi ro này với các hình thức khác như khi hãng
hàng không mua tàu bay hoặc thuê mua trong bối cảnh thị trường không ổn
định thì đôi khi lợi thế này là rất nổi trội và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.


17
Phân loại hợp hợp đồng thuê khai thác tàu bay
1.2.1 Khái quát chung về phân loại hợp đồng thuê khai thác tàu bay
Có nhiều cách để phân loại hợp đồng thuê khai thác tàu bay, ví dụ như:
phân loại hợp đồng thuê theo tính chất hay theo mục đích, đối tượng của hợp
đồng .v.v. Việc phân loại hợp đồng thuê khai thác tàu bay là khá phức tạp và
có sự khác biệt khá lớn trong các quốc gia khác nhau hoặc trong các khu vực
pháp lý khác nhau. Ví dụ: cùng một loại thuê nhưng tại từng quốc gia lại có
thể được gọi bằng tên này hay tên khác.
Tàu bay là một loại tài sản đặc biệt cả về giá trị vật chất và tính chất
hoạt động. Quá trình khai thác tàu bay thường chứa đựng những yếu tố và khả
năng rủi ro về an toàn đối với bản thân tàu bay, tổ bay, hành khách, hành lý,
hàng hoá .v.v. Ngoài các yếu tố rủi ro mang tính chất thuần tuý kỹ thuật thì
phần lớn các rủi ro trong quá trình khai thác tàu bay là do lỗi của người trực
tiếp thực hiện công việc sử dụng, khai thác tàu bay (nhân viên hàng không).
Các qui định pháp luật về việc khai thác tàu bay nói chung và qui định về
nhân viên hàng không nói riêng được qui định rất chặt chẽ nhằm hạn chế rủi
ro trong quá trình khai thác tàu bay. Vì vậy, việc khai thác tàu bay phải được

thực hiện bởi những người có giấy phép, chứng chỉ phù hợp, đó là các nhân
viên hàng không. Theo Khoản 1 Điều 68 Luật HKDDVN, thì: "Nhân viên
hàng không là những người hoạt động liên quan trực tiếp đến bảo đảm an toàn
hàng không, an ninh hàng không, khai thác tàu bay, vận chuyển hàng không,
hoạt động bay, có giấy phép, chứng chỉ chuyên môn phù hợp do Bộ Giao
thông vận tải cấp hoặc công nhận".
Trong các nhân viên hàng không thì các nhân viên thuộc Tổ bay là
những người trực tiếp điều khiển tàu bay, phục vụ và bảo đảm an toàn cho
hành khách. Họ có vai trò đặc biệt quan trọng, mang tính quyết định đối với
an toàn và hiệu quả của hoạt động khai thác tàu bay. Theo Khoản 2 Điều 71


18
Luật HKDDVN, "Thành phần tổ bay bao gồm tổ lái, tiếp viên hàng không và
các nhân viên hàng không theo yêu cầu thực hiện chuyển bay". Trong tổ bay
thì tổ lái là những người trực tiếp điều khiển tàu bay, bao gồm lái chính, lái
phụ và các nhân viên hàng không khác theo qui định. Trong tổ lái có một
thành viên được chỉ định làm Người chỉ huy tàu bay. Người chỉ huy tàu bay là
người có quyền cao nhất trên tàu bay, thay mặt Nhà nước, cơ quan có thẩm
quyền và hãng hàng không thực hiện các quyền về: khai thác và điều khiển
tàu bay; thương mại; hành chính; Điều 75 Luật HKDDVN có qui định các
quyền của người chỉ huy tàu bay.
Xuất phát từ đặc điểm cơ bản, mang tính đặc thù của thuê khai thác tàu
bay là tính chất đặc biệt quan trọng của Nhân viên hàng không nói chung và
Tổ bay nói riêng đối với an toàn của hoạt động khai thác tàu bay. Do đó, theo
thực tiễn hoạt động thuê khai thác tàu bay trên thế giới đã phân loại hợp đồng
thuê khai thác tàu bay thành ba loại hợp đồng cơ bản căn cứ theo hình thức tổ
bay kèm theo tàu bay thuê, đó là:
- Hợp đồng thuê ướt tàu bay (Wet Lease);
- Hợp đồng thuê khô tàu bay (Dry Lease);

- Hợp đồng thuê ẩm tàu bay (Damp Lease).
1.2.2 Hợp đồng thuê ướt tàu bay
1.2.2.1 Định nghĩa
Luật HKDDVN không có qui định cụ thể về khái niệm hợp đồng thuê
ướt tàu bay mà chỉ có qui định mang tính khái quát tại Điều 36 về "Thuê, cho
thuê tàu bay có tổ bay":
1. Trong trường hợp thuê, cho thuê tàu bay có tổ bay, tàu bay được khai
thác theo Giấy chứng nhận người khai thác tầu bay của Bên cho thuê.
2. Bên cho thuê chịu trách nhiệm bảo đảm thực hiện tiêu chuẩn an toàn
về bảo dưỡng, khai thác tàu bay.


19
Theo qui định trên của Luật HKDDVN thì tàu bay sẽ được khai thác
theo "Giấy chứng nhận người khai thác tàu bay của Bên cho thuê", qui định
như vậy là còn thiếu và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế về thuê ướt tàu
bay. Trên thực tế, thông thường phần lớn các hợp đồng thuê ướt tàu bay có
Bên cho thuê là một hãng hàng không vì chỉ có hãng hàng không mới có đủ
các điều kiện cung cấp các dịch vụ theo yêu cầu của hợp đồng thuê ướt và
được cấp Giấy chứng nhận nhà khai thác tàu bay. Tuy nhiên, cũng có một số
trường hợp không phải hoàn toàn như vậy. Trong thực tiễn thuê tàu bay của
các hãng hàng không thời gian qua thì vẫn có một số hợp đồng theo hình thức
thuê ướt tàu bay trong giai đoạn trước đây, cũng như một số trường hợp thuê
sau này lại do một công ty chuyên cho thuê tàu bay cung cấp, sau đó họ thuê
người khác khai thác, bởi vì thông thường công ty chuyên về cho thuê tàu bay
thì sẽ không có Giấy chứng nhận người khai thác tàu bay, vì họ không phải là
một hãng hàng không, hoạt động kinh doanh chủ yếu của họ là cho thuê tàu
bay (còn các hãng hàng không là nhà vận chuyển, hoạt động chủ yếu của họ
là vận chuyển hành khách, hàng hoá, thư tín công cộng bằng tàu bay). Thực
tiễn pháp luật của hầu hết các quốc gia đều qui định việc cấp Giấy chứng

nhận người khai thác tàu bay của nhà chức trách hàng không cho các hãng
hàng không là dựa trên nguyên tắc phổ biến này.
Chính vì vậy, qui định tại Điều 36 Luật HKDDVN về thuê và cho thuê
tàu bay có tổ bay là chưa thực sự phù hợp với thông lệ và thực tế về thuê ướt
tàu bay và làm hạn chế cơ hội thuê ướt tàu bay của các hãng hàng không khi
qui định như Khoản 1 Điều 36.
Căn cứ các phân tích trên, có thể hiểu: Hợp đồng thuê ướt tàu bay là sự
thỏa thuận giữa Bên thuê và Bên cho thuê về quyền, nghĩa vụ trong việc thuê
tàu bay kèm theo tổ bay (bao gồm tổ lái và tiếp viên), theo đó Bên thuê chiếm
hữu và sử dụng tàu bay thuê của Bên cho thuê trong một thời hạn nhất định và


20
phải thanh toán tiền thuê tàu bay cho Bên cho thuê; tàu bay được khai thác
theo Giấy chứng nhận người khai thác tàu bay không phải của Bên thuê; Bên
cho thuê giữ quyền sở hữu tàu bay thuê, Bên thuê phải trả tàu bay thuê cho
Bên cho thuê khi kết thúc thời hạn hợp đồng thuê khai thác tàu bay.
1.2.2.2 Đặc điểm
Qua định nghĩa trên có thể thấy thuê ướ tàu bay có một số đặc điểm cơ
bản là:
1) Việc thuê tàu bay luôn kèm theo tổ lái và tiếp viên;
2) Tổ bay (bao gồm cả tổ lái và tiếp viên) của Bên cho thuê (trực tiếp)
hoặc là của một bên khác do Bên cho thuê chịu trách nhiệm (gián
tiếp);
3) Tàu bay thuê hầu như được khai thác theo Giấy chứng nhận người
khai thác tàu bay của Bên cho thuê;
4) Tiền thuê tàu bay được tính dựa trên căn cứ số giờ bay (flight/block
hours).
Loại hình thuê khai thác tàu bay theo hình thức hợp đồng thuê ướt tàu
bay thường chứa đựng 4 nội dung chính, đó là: thuê tàu bay (Aircraft), thuê tổ

lái (Crew), thuê dịch vụ bảo dưỡng (Mainternance) và bảo hiểm (Insurance) -
hay còn được gọi tắt là các điều kiện “ACMI”. Ngoài ra, hợp đồng thuê ướt
tàu bay còn chứa đựng nhiều yếu tố khác đi kèm với việc cung ứng tài sản và
dịch vụ kể trên. Như vậy, trong hợp đồng thuê ướt tàu bay, Bên thuê tàu bay
ngoài việc phải trả tiền thuê tàu bay như các loại hợp đồng thuê khai thác tàu
bay khác cho Bên cho thuê thì còn phải thanh toán tiền thuê tổ bay, tiền thuê
dịch vụ bảo dưỡng tàu bay và tiền bảo hiểm cho Bên cho thuê. Do đó, hình
thức thuê khai thác tàu bay này thường có tiền thuê cao hơn so với các hình
thức thuê khai thác tàu bay khác. Với các đặc điểm đã nêu ở trên, hình thức
thuê này thường làm phát sinh những vấn đề, nội dung pháp lý tương ứng.


21
Thông thường, tàu bay thuê ướt được chính Bên cho thuê thực hiện việc khai
thác khi Bên cho thuê là một hãng hàng không. Sở dĩ nói như vậy vì chỉ có
các hãng hàng không mới có đầy đủ khả năng cung cấp trực tiếp được các
dịch vụ theo hình thức thuê này.
Đây là một hình thức thuê phổ biến trong giai đoạn đầu của thời kỳ phát
triển, hiện đại hoá đội tàu bay của các hãng hàng không tại Việt Nam. Vì vào
thời kỳ đầu mới thành lập, do những khó khăn, hạn chế về cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, về nhân lực .v.v. nên các hãng hàng không Việt Nam đã lựa chọn hình
thức thuê ướt này trong khoảng thời gian đầu như một bước chuẩn bị, tập dượt
cho thời kỳ phát triển ở mức độ cao hơn sau này. Sau này khi hình thức thuê khô
đã được sử dụng nhiều hơn và chiếm đa số các hợp đồng thuê khai thác của các
hãng hàng không của Việt Nam.
Hình thức thuê ướt tàu bay vẫn thỉnh thoảng được sử dụng để đáp ứng
các nhu cầu khai thác nhất thời, thường là trong một thời gian ngắn và có tính
chất tình thế. Do các hãng hàng không không có cơ số, tỉ lệ tàu bay dự phòng
cho toàn bộ đội tàu bay của mình, cho nên khi có tàu bay bị hỏng đột xuất
không khai thác được, hoặc phổ biến hơn là các tàu bay được sử dụng vào

việc thực hiện công tác chính trị như bay chuyên cơ, thực hiện một số nhiệm
vụ đặc biệt trong một thời gian nhất định thường dẫn đến việc thiếu tàu bay
cho kế hoạch khai thác theo lịch bay đã được ấn định của các hãng hàng
không.
Trong những năm vừa qua, đây là hiện tượng thường gặp. Giải pháp
thích hợp nhất cho các hoàn cảnh đó là hình thức thuê ướt tàu bay. Hình thức
này đáp ứng được ngay cho nhu cầu cần gấp tàu bay để khai thác trong một
thời gian tương đối ngắn hoặc rất ngắn. Thời hạn thuê thường cũng là trong
một thời gian không dài. Bởi vì thuê khô tàu bay rất hiếm khi đối tác đồng ý,
chấp nhận cho thuê với thời hạn ngắn.


22
1.2.2.3 Đối tác cho thuê tàu bay
Đối tác cho thuê tàu bay cũng được coi là một yếu tố có ảnh hưởng rất
lớn đến các khía cạnh pháp lý của hoạt động thuê khai thác tàu bay. Sự ảnh
hưởng này xảy ra đối với tất cả các loại hợp đồng thuê khai thác tàu bay cụ thể.
Do vậy, những người đàm phán, thực hiện hoạt động này cần phải có sự tìm
hiểu, nghiên cứu nhất định về các đối tác cho thuê tàu bay trong từng trường
hợp nhất định. Qua nghiên cứu, có thể thấy đối tác cho thuê tàu bay có hai loại:
(1) hãng hàng không; và (2) các tổ chức, công ty chuyên cho thuê tàu bay.
Hình thức thuê ướt tàu bay thường được thực hiện giữa Bên thuê và
Bên cho thuê đều là các hãng hàng không. Khi đối tác cho thuê tàu bay là các
hãng hàng không thì nội dung này là rất rõ ràng, trong giấy phép thành lập
hoặc giấy phép đăng ký kinh doanh, các hãng hàng không thường có chức
năng cho thuê tàu bay và cung ứng các dịch vụ khác trên cơ sở các hãng chỉ
thực hiện được chức năng này khi nhà chức trách hàng không có liên quan
cấp phép.
Như vừa đề cập ở trên, do đặc điểm của hình thức thuê ướt tàu bay,
nên trong thực tế thường gặp các đối tác cho thuê theo hình thức này là các

hãng hàng không. Đối tác là các hãng hàng không rõ ràng có thuận lợi do họ
có thể trực tiếp thực hiện các nghĩa vụ của mình với tư cách là Bên cho thuê.
Họ cung cấp tàu bay, cung cấp tổ lái, tiếp viên và khai thác tàu bay cho thuê
đó theo Giấy chứng nhận người khai thác tàu bay của mình. Vì thế đối với
hợp đồng thuê ướt tàu bay khi đối tác là một hãng hàng không thì việc thực
hiện thường thuận tiện và dễ dàng hơn.
Trường hợp đối tác không phải là một hãng hàng không mà là một
công ty, tổ chức cho thuê chuyên nghiệp thì thường bên đối tác sẽ phải thuê tổ
lái, tiếp viên và khai thác theo chứng chỉ của một hãng hàng không khác. Tổ
chức, công ty cho thuê tàu bay chuyên nghiệp thường không có các nguồn


23
cung cấp trực tiếp các yếu tố như tổ lái, tiếp viên (ngoài việc cho thuê tàu
bay) theo hợp đồng. Họ chỉ có khả năng cung cấp trực tiếp được tàu bay cho
Bên thuê, còn việc cung cấp dịch vụ khai thác, bảo dưỡng và các yếu tố khác
có liên quan thì các tổ chức này phải có các nguồn khác hoặc đối tác khác hỗ
trợ, hợp tác thì mới có thể thực hiện được. Trong khi Bên thuê khi lựa chọn
hình thức thuê ướt tàu bay lại chỉ biết yêu cầu Bên cho thuê cung cấp và thực
hiện các nghĩa vụ có tính chất trọn gói (bao gồm cả tài sản và dịch vụ khai
thác, bảo dưỡng cộng với một số yếu tố khác có liên quan đến tài sản và dịch
vụ mà Bên cho thuê cam kết thực hiện theo công thức của hình thức thuê
này).
Trong thực tế thuê khai thác tàu bay của các hãng hàng không của Việt
Nam đã có một số hợp đồng, giao dịch dạng này. Tổ chức, công ty chuyên
cho thuê tàu bay mà không phải là hãng hàng không thì không có Giấy chứng
nhận người khai thác tàu bay. Vì thế, trong trường hợp này các đối tác thường
phải thuê lại các dịch vụ mà mình không có để đảm bảo thực hiện được đầy
đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng thuê ướt tàu bay mà họ đã ký kết với một hãng
hàng không.

Đối với trường hợp nêu trên, khi ký kết, thực hiện hợp đồng cần nắm rõ
những đặc điểm của nó để có thể tiên liệu trước cũng như xem xét đầy đủ các
mối quan hệ giữa hãng hàng không với tư cách là Bên thuê tàu bay trong hợp
đồng và Bên cho thuê bao gồm cả những mối quan hệ trực tiếp và các mối
quan hệ gián tiếp của các bên liên quan để tránh những hậu quả bất lợi có thể
xảy ra.
Việc khai thác tàu bay theo chứng chỉ của tổ chức khác còn đòi hỏi sự
công nhận của các nhà chức trách hàng không có liên quan đối với chứng chỉ,
giấy phép của tổ lái, tiếp viên. Nội dung này kéo theo các qui định có liên
quan của các bên khi khai thác tàu bay thuê theo các qui định của hợp đồng.


24
Đặc biệt là về giá trị hiệu lực của các chứng chỉ, thủ tục và hồ sơ trình nhà
chứ trách hàng không tương ứng xin phê duyệt, cấp phép .v.v.
1.2.2.4 Đối với tàu bay
Tàu bay là đối tượng của hợp đồng thuê ướt tàu bay phải tuân thủ các
yêu cầu chuyên ngành về hoạt động hàng không dân dụng. Theo Công ước
quốc tế Chicago năm 1944 về hàng không dân dụng thì tàu bay khi bay trên
vùng trời bất kỳ phải đáp ứng đầy đủ và nghiêm ngặt một số qui định của các
điều ước quốc tế, của hệ thống pháp luật quốc gia có liên quan. Các yêu cầu
này bao gồm khá nhiều nội dung khác nhau như vấn đề đăng ký của tàu bay,
các chứng chỉ khả phi, kỹ thuật, nhân viên, trang thiết bị của tàu bay .v.v. Đây
là những yêu cầu bắt buộc theo các qui định của điều ước và luật pháp của các
quốc gia hữu quan.
Do thuê ướt tàu bay thường có thời hạn ngắn, vì vậy, các tàu bay được
thuê ướt thường được đăng ký tại quốc gia không phải là quốc gia có hãng
hàng không thuê khai thác. Trường hợp ở một số quốc gia có lãnh thổ rộng
lớn, có nhiều hãng hàng không như Mỹ, Nga, Trung quốc, Pháp, Canada .v.v.
thì có thể xảy ra trường hợp Bên cho thuê và Bên thuê đều là các hãng hàng

không thuộc một quốc gia và tàu bay được đăng ký tại quốc gia đó. Còn đối
với các quốc gia khác thì trường hợp này rất ít gặp trong thực tế, mặc dù về lý
thuyết thì vẫn có thể xảy ra.
Loại trừ trường hợp nêu trên khi tàu bay được thuê đang có đăng ký tại
nước ngoài thì yêu cầu đưa tàu bay vào khai thác phải có sự phê duyệt của
nhà chức trách hàng không của quốc gia đăng ký tàu bay đối với những vấn
đề về an toàn, khả phi, và cấp phép cho các nhân viên khai thác, kỹ thuật có
liên quan theo qui định của Công ước Chicago năm 1944. Ngoài ra, có thể
còn có các qui định khác của các quốc gia, đặc biệt là của quốc gia đăng ký
tàu bay. Do hợp đồng thuê ướt có thời hạn ngắn cho nên rất ít trường hợp các

×