Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Tìm hiểu chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật thương mại việt nam luận văn tốt nghiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.45 KB, 83 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA LUẬT
--------------------------

KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

TÌM HIỂU CHẾ ĐỘ TRÁCH NHIỆM DO VI
PHẠM HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ
THEO LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ - QUỐC TẾ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Tuyết
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Kim Khánh
Lớp : 48B1 Luật

VINH – 2011

1


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài "Tìm hiểu chế độ trách nhiệm
do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật thương mại Việt
Nam", bên cạnh sự cố gắng của bản thân tôi đã nhận được sự giúp
đỡ tận tình của thầy cơ, gia đình và bạn bè.
Với tình cảm chân thành, tơi xin bày tỏ tấm lịng biết ơn sâu sắc
tới cơ giáo – thạc sĩ Nguyễn Thị Tuyết, người đã trực tiếp hướng dẫn
tôi trong q trình thực hiện đề tài. Tơi xin chân thành cảm ơn tới
Ban chủ nhiệm Khoa, Hội đồng khoa học Khoa cùng các bạn sinh
viên đã đóng góp ý kiến cho đề tài.


Vì đây là lần đầu tiên nghiên cứu khoa học, trong khi thời gian
có hạn, kiến thức cịn chưa sâu rộng nên khơng tránh khỏi những
hạn chế, thiếu sót. Kính mong các thầy cơ giáo và các bạn sinh viên
đóng góp ý kiến xây dựng để luận văn này được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 5 năm 2011
Tác giả
Nguyễn Thị Kim Khánh

2


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu..................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................5
5. Những đóng góp khoa học của khoá luận...................................................6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài........................................................6
7. Kết cấu của đề tài........................................................................................7
B. NỘI DUNG................................................................................................8
Chương 1. Cơ sở lý luận về chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
mua bán hàng hoá.........................................................................................8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá........................8
1.2. Khái niệm vi phạm hợp đồng và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá
13
1.3. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá.........15
1.4. Các chế tài áp dụng do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá theo Luật
thương mại Việt Nam.....................................................................................22

Chương 2. Thực tiễn áp dụng các quy định về chế độ trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng mua bán hàng hoá theo Luật thương mại Việt Nam năm
2005. Một số hạn chế và giải pháp đề xuất..................................................43
2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua
bán hàng hoá theo Luật thương mại Việt Nam năm 2005........................................43
2.2. Hạn chế của các quy định trong Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về chế độ
trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá ...........................................57
2.3. Nguyên nhân của những tồn tại....................................................................63

3


2.4. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của Luật thương mại Việt Nam
năm 2005 về chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá................66
C. KẾT LUẬN...............................................................................................74
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

4


A. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thương mại hàng hóa có một vai trị quan trọng trong đời sống kinh tế
- xã hội của mỗi quốc gia. Trong hoạt động thương mại thì mua bán hàng hố
là hoạt động chính, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng và không chỉ giới
hạn ở phạm vi mỗi quốc gia mà còn mở rộng ra cả các quốc gia khác nhau
trên toàn thế giới.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, với các
thành phần kinh tế tương đối giống nhau về bản chất, hoạt động thương mại

được diễn ra trong khuôn khổ hạn hẹp với việc điều chỉnh bằng một hệ thống
các quy định có tính hiệu lực pháp lý thấp, nhằm giải quyết những vấn đề do
thực tiễn cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, bao cấp phát sinh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam Đại hội hoạch định đường lối đổi mới, khởi xướng công cuộc đổi mới kinh
tế - đã tạo ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng pháp luật ở Việt Nam,
trong đó hệ thống pháp luật thương mại đã được chú trọng đặc biệt.
Luật Thương mại được Quốc hội Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thơng qua ngày 10/05/1997 đã đánh dấu một bước phát triển mới của
hệ thống pháp luật thương mại Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật thương mại đồng bộ, khoa học phù hợp với định hướng
xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Có thể nói, Luật thương mại năm 1997, trong đó có các quy định về
thương mại đã thực sự tạo ra khuôn khổ pháp lý quan trọng cho hoạt động
thương mại phát triển, trên cơ sở bảo đảm quyền tự do kinh doanh và tự do
hợp đồng của các thương nhân, bước đầu phù hợp với pháp luật và tập quán
thương mại quốc tế.

5


Trong một vài năm trở lại đây, Nhà nước đã thực hiện đường lối đổi
mới cơ chế kinh tế với sự thừa nhận đa hình thức sở hữu, đa hình thức kinh
doanh. Quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay đã đạt được những
thành tựu nổi bật. Nhưng q trình đó càng đi vào chiều sâu và bề rộng thì
càng bộc lộ ra những vấn đề mới cần giải quyết. Tự do, năng động, sáng tạo,
nhạy bén là thuộc tính khách quan và là yêu cầu của nền kinh tế thị trường,
nhưng gắn liền với nó là nguy cơ gian lận kinh doanh, thương mại… Hơn
nữa, trong giai đoạn này nước ta đã thực sự hội nhập vào nền kinh tế quốc
tế (gia nhập WTO) thì càng cần thiết địi hỏi Nhà nước phải có một khung
pháp lý thương mại hoàn chỉnh để điều chỉnh các hoạt động đó đúng chủ

trương, đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Đứng trước yêu cầu đó, ngày 14- 11- 2005 Quốc hội đã ban hành Luật
Thương mại số 36/ 2005- QH 11 quy định về hoạt động thương mại (chính
thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006, thay thế Luật thương mại
1997) nhằm tạo thành một hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho các thương
nhân trong hoạt động thương mại.
Khác với Luật thương mại 1997, Luật thương mại 2005 quy định khá
đầy đủ và chi tiết về mua bán hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hoá. Tuy
nhiên để hoạt động thương mại nói chung và hoạt động mua bán hàng hố nói
riêng đi vào chiều sâu, địi hỏi mỗi thành phần kinh tế, mỗi cá nhân cần phải
tìm hiểu, tiếp cận và nhận thức đúng đắn các hoạt động thương mại theo đúng
luật, nhằm hạn chế những tổn hại kinh tế khơng đáng có, để các quy định của
Luật thương mại thực sự có ích trong cuộc sống, tạo thuận lợi cho mọi chủ thể
của hoạt động thương mại.
Trong nội dung của Luật thương mại thì hợp đồng mua bán hàng hóa
là một mảng quan hệ pháp luật vơ cùng quan trọng. Hợp đồng mua bán hàng
hóa là sự khái quát một cách tồn diện các hình thức giao lưu mua bán
phong phú của con người, là một trong những phương thức hữu hiệu để các
chủ thể tham gia vào quan hệ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Luật
6


thương mại năm 2005 đã có những quy định khá chi tiết và đầy đủ về chế
định hợp đồng, đặc biệt là vấn đề trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Có thể
nói hợp đồng mua bán hàng hố là một nội dung không thể thiếu trong hoạt
động kinh doanh. Việc nắm vững, hiểu rõ các quy định của pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hoá sẽ giúp các chủ thể kinh doanh ký kết và thực hiện
hợp đồng được thuận lợi, an toàn và hiệu quả, tránh các tranh chấp, rủi ro
đáng tiếc.
Vì những lí do trên mà em đã lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu chế độ

trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật thương
mại Việt Nam” nhằm góp phần làm sáng tỏ những quy định của Luật
thương mại năm 2005 về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và đưa ra một số
phân tích, bình luận về vấn đề này. Đây là một đề tài khoa học có ý nghĩa
quan trọng cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá là vấn
đề thu hút được sự quan tâm của nhiều người. Trong những năm qua, giới
nghiên cứu khoa học pháp lý đã có một số cơng trình, bài nghiên cứu liên
quan đến vấn đề này với những phạm vi và mức độ khác nhau như:
- Luận án tiến sĩ của Trương Văn Dũng năm 2003 “Trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và vấn đề hồn thiện pháp luật Việt
Nam”
- Luận án tiến sỹ của PGS.TS Phạm Hữu Nghị năm 1996 “ Chế độ
Hợp đồng trong nền kinh tế thị trường Việt Nam ở giai đoạn hiện nay.”
- Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Văn Hùng năm 2002 “ Một số vấn đề
về Hợp đồng dân sự - Hợp đồng kinh tế - Hợp đồng thương mại và các giải
pháp hoàn thiện chế định pháp luật hợp đồng.”

7


- Luận văn thạc sỹ của tác giả Đào Anh Tuấn “Mối tương quan giữa
Hợp đồng kinh tế - Hợp đồng dân sự - Hợp đồng thương mại” .
- Bài viết của tác giả Phạm Thị Trong “Vi phạm hợp đồng được dự
đoán trước - sự cần thiết phải điều chỉnh trong pháp luật hợp đồng của Việt
Nam.”
- Bài viết của tác giả Đỗ Văn Đại “Phạt vi phạm hợp đồng trong
pháp luật thực định Việt Nam”, tạp chí Tồ án Nhân dân số 19/2007.
- Bài viết của tác giả Phan Chí Hiếu “Hồn thiện chế định Hợp

đồng” , tạp chí nghiên cứu lập pháp số 04/2005
- Bài viết của tác giả Dương Anh Sơn và Lê Thị Bích Thọ “Một số
ý kiến về phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt
Nam”, tạp chí khoa học pháp lý số 01/2005.
- Bài viết “Tác động của hình thức lỗi đến việc xác định trách nhiệm
hợp đồng nhìn từ góc độ ngun tắc trung thực và thiện chí”, tạp chí khoa
học pháp lý số 01/2007.
Trong những cơng trình nghiên cứu trên, các tác giả đó tập trung
luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh yêu cầu xây dựng và
hoàn thiện pháp luật hợp đồng của Việt Nam. Tuy nhiên, do mục đích
nghiên cứu của các cơng trình đặt ra khác nhau nên các cơng trình khơng đi
sâu vào vấn đề trách nhiệm do vi pham hợp đồng mua bán hàng hóa. Tuy
vậy, các cơng trình nói trên là những tài liệu rất quý giá cho tác giả luận văn
tham khảo phục vụ việc nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ khoa học
3.1. Mục đích
Dựa trên việc phân tích cơ sở lý luận về chế độ trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng mua bán hàng hoá, trên cơ sở tìm hiểu, đánh giá một cách khách
quan thực trạng thực thi các quy định của Luật thương mại Việt Nam năm

8


2005 về chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng cùng với việc tìm ra
những bất cập, hạn chế trong các quy định của Luật thương mại Việt Nam
năm 2005, luận văn đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy
định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 liên quan tới chế độ trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu và phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về chế độ
trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về chế độ trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá theo Luật thương mại Việt
Nam năm 2005.
- Phân tích, đánh giá một cách sâu sắc những bất cập, hạn chế trong
các quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về chế độ trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục
hoàn thiện các quy định của Luật thương mại Việt Nam về chế độ trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn sử dụng phương pháp luận
của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chủ
trương đường lối của Đảng và Nhà nước về pháp luật. Đặc biệt, luận văn
được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị

9


trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, như:
phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh luật học, phương pháp logic và lịch sử…Trong đó, phương pháp tổng hợp
và phân tích là phương pháp chủ yếu được tác giả sử dụng trong q trình

nghiên cứu hồn thành đề tài này.
5. Những đóng góp khoa học của khố luận
- Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản
về chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá
- Luận văn phân tích, đánh giá một cách khách quan thực trạng áp dụng
Luật thương mại về chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng ở Việt Nam
hiện nay, từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế, đặc biệt những điểm khơng
tương thích với thực tiễn cũng như pháp luật thương mại quốc tế.
- Luận văn đã đề xuất phương hướng và những giải pháp cụ thể để tiếp
tục hoàn thiện các quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về
chế định trách nhiệm hợp đồng mua bán, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng
và phát triển kinh tế nói chung cũng như yêu cầu phát triển của hoạt động
mua bán hàng hoá và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá trong giai
đoạn hiện nay, đặc biệt trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
 Về mặt lý luận: Đề tài là cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
Luật thương mại năm 2005. Bổ sung nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên
chuyên ngành luật, kinh tế; giúp người nghiên cứu có thêm nguồn tài liệu để
tìm hiểu, tham khảo.
 Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở phân tích, đánh giá, bình luận, khố luận
chỉ ra được những hạn chế của các quy định pháp luật về chế độ trách nhiệm

10


do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá theo Luật thương mại năm 2005 và
mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hồn thiện chế định hợp
đồng mua bán hàng hoá, đặc biệt là chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
mua bán hàng hoá.
7. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo nội
dung luận văn bao gồm hai chương và tám tiết.

11


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa
vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh
tốn; bên mua có nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán, nhận hàng và quyền sở
hữu hàng hóa theo thỏa thuận (Khoản 8 Điều 3 Luật thương mại năm 2005).
Quan hệ mua bán được xác lập và thực hiện thơng qua hình thức pháp lí là
hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa đã là một cái tên
quá quen thuộc cho không chỉ giới thương nhân mà cả các nhà nghiên cứu
kinh tế, luật học. Xem xét các quy định pháp luật Việt Nam từ trước đến nay
thì hợp đồng mua bán hàng hóa đều được xác định (dù trực tiếp hay gián
tiếp) là một hợp đồng mang tính chất thương mại (vì mục đích lợi nhuận).
Với quan điểm này thì hợp đồng mua bán hàng hóa khơng bao hàm các hợp
đồng mua bán trong lĩnh vực dân sự truyền thơng (vì mục đích sinh hoạt tiêu
dùng hàng ngày).
Hợp đồng mua bán hàng hóa là “cơng cụ pháp lí” quan trọng và có hiệu
quả nhằm thúc đẩy giao lưu mua bán phát triển, bảo đảm cho các quan hệ tài
sản khi trao đổi được thực hiện trong hành lang pháp lí an tồn theo những
ngun tắc đặc trưng của pháp luật thương mại. Hợp đồng mua bán hàng
hóa cũng là phương tiện pháp lí quan trọng để các chủ thể của pháp luật

thương mại thỏa mãn các nhu cầu vật chất trong sản xuất kinh doanh, góp
phần xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

12


Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa nếu xét theo phương diện
khách quan thì được hiểu đó là bộ phận các quy phạm pháp luật được quy
định cụ thể trong Luật thương mại nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội (chủ
yếu là quan hệ tài sản) trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa
các chủ thể với nhau. Việc quy định của pháp luật dựa trên cơ sở điều kiện
kinh tế – xã hội, thể chế chính trị vào thời điểm tương ứng. Quyền và nghĩa
vụ của các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng được pháp luật quy định trước
và không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng.
Nếu xét theo phương diện chủ quan thì hợp đồng mua bán hàng hóa là
sự ghi nhận kết quả của việc cam kết, thỏa thuận giữa các chủ thể giao kết
hợp đồng. Hợp đồng có thể được coi là kết quả của việc thỏa thuận, thống
nhất ý chí của các bên, được thể hiện trong các điều khoản cụ thể về quyền và
nghĩa vụ của mỗi bên để có cơ sở cùng nhau thực hiện. Trong hợp đồng mua
bán hàng hóa, sự thỏa thuận được thể hiện khi các bên tham gia giao kết hợp
đồng đưa ra nội dung cơ bản (còn gọi là điều khoản cơ bản của hợp đồng)
thực sự phù hợp với mong muốn mà ý chí của họ nhằm đạt tới.
Luật Thương mại năm 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng
mua bán hàng hóa song có thể xác định bản chất pháp lí của hợp đồng mua
bán hàng hóa trong thương mại trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự về
hợp đồng mua bán tài sản. Tại Điều 428 Bộ luật dân sự quy định: “Hợp
đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có
nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, cịn bên mua có nghĩa vụ
nhận tài sản và trả tiền cho bên bán.” Từ đó cho thấy hợp đồng mua bán

hàng hóa trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài
sản. Một hợp đồng mua bán có thể là thỏa thuận về việc mua bán hàng hóa ở
hiện tại hoặc mua bán hàng hóa sẽ có ở một thời điểm nào đó trong tương
lai. Bất cứ khi nào, một người mua hàng hóa bằng tiền hoặc phương thức
thanh tốn khác và nhận quyền sở hữu hàng hóa thì khi đó hình thành nên
quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa.
13


Như vậy, có thể thấy hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận
giữa các thương nhân với nhau, hoặc giữa thương nhân với các chủ thể khác
về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các
bên trong quan hệ mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm
hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước và hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế áp dụng cho các phương thức: xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái
xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán
tài sản trong dân sự cho nên giữa chúng khơng có khác biệt về sự điều chỉnh
của pháp luật trong nhiều vấn đề như: giao kết hợp đồng, hợp đồng vô hiệu
và xử lí hợp đồng vơ hiệu…Bên cạnh đó, hợp đồng mua bán hàng hóa cịn
mang những đặc trưng riêng xuất phát từ bản chất thương mại của hành vi
mua bán hàng hóa. Những đặc trưng đó là:
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa là bên mua và bên bán hàng
hóa. Theo quy định của Luật thương mại năm 2005, ít nhất một trong các
bên chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là thương nhân. Thương
nhân bao gồm các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xun và có đăng kí kinh doanh
(Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại 2005). Thương nhân là chủ thể của hợp

đồng mua bán hàng hóa có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân
nước ngoài (trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế).
Bên cạnh đó, chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa cịn là các tổ chức,
cá nhân khác có hoạt động liên quan đến thương mại hoặc chủ thể không
phải là thương nhân tham gia hợp đồng mua bán không nhằm mục đích lợi
nhuận. Trong đó, thương nhân là chủ thể chủ yếu và thường xuyên của hợp
đồng mua bán hàng hóa.

14


Thứ hai, về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
Tự do thoả thuận là một trong những nguyên tắc quan trọng trong giao
kết hợp đồng. Điều này có nghĩa là các bên được phép lựa chọn hình thức
thích hợp khi ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, để bảo đảm an toàn pháp luật
trong các giao dịch hợp đồng giữa các bên, cũng như để bảo vệ trật tự pháp
luật và lợi ích kinh doanh địi hỏi các bên giao kết hợp đồng phải tuân theo
những hình thức nhất định, ngược lại, hợp đồng đó sẽ khơng có hiệu lực. Vì
thế, yếu tố hình thức hợp đồng và ảnh hưởng của nó đến hiệu lực của hợp
đồng sẽ rất quan trọng trong các hoạt động mua bán hàng hóa.
Hình thức của hợp đồng là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngồi dưới
hình thức nhất định của các chủ thể hợp đồng. Thông qua cách thức biểu
hiện này, người ta có thể biết được nội dung của sự thỏa thuận mua bán
hàng hóa đã xác lập. Luật thương mại năm 2005 quy định hình thức hợp
đồng mua bán hàng hóa có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán
hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tn
theo các quy định đó (Điều 24).
Như vậy, trong trường hợp pháp luật không quy định loại hợp đồng đó
phải được thể hiện bằng một hình thức nhất định, thì có thể được giao kết

bằng lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên. Văn bản hợp
đồng có thể do các bên thỏa thuận hoặc theo mẫu. Phụ lục hợp đồng cũng
được coi là một trong những hình thức của hợp đồng và có hiệu lực như hợp
đồng. Trường hợp pháp luật quy định loại hợp đồng đó phải được thực hiện
bằng một hình thức nhất định như: văn bản có cơng chứng, chứng thực, phải
đăng kí hoặc xin phép thì phải tn theo quy định đó. Hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế là một ví dụ về trường hợp bắt buộc hình thức của hợp
đồng mua bán phải bằng văn bản. Theo quy định của Luật thương mại năm
2005, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được thể hiện dưới hình

15


thức văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương, bao
gồm điện báo, TELEX, FAX, thông điệp dữ liệu.
Thứ ba, về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hố có đối tượng là hàng hố. Hiểu theo nghĩa
thơng thường, hàng hoá là sản phẩm lao động của con người, được tạo ra
nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của con người. Theo Luật thương mại năm
2005 hàng hoá bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành
trong tương lai, những vật gắn liền với đất đai ( Khoản 2 Điều 3).
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá phải được phép giao dịch trên
thị trường. Nghĩa là hàng hố khơng thuộc danh mục những đối tượng mà nhà
nước cấm kinh doanh. Đối với những hàng hố hạn chế kinh doanh hoặc kinh
doanh có điều kiện, việc mua bán chỉ được thực hiện khi các bên tham gia và
hàng hoá đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Danh mục
hàng hoá cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện
và điều kiện để kinh doanh hàng hố đó do Chính phủ quy định và sửa đổi, bổ
sung theo từng điều kiện kinh tế – xã hội. Trong hợp đồng mua bán hàng hoá
phải được xác định rõ (nếu là vật) và phải có căn cứ xác thực chứng minh

thuộc quyền sở hữu của bên bán.
Thứ tư, về nội dung hợp đồng mua bán hàng hoá
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá phản ánh các quyền và nghĩa
vụ pháp lí của các chủ thể trong quan hệ mua bán hàng hố. Do đó, nội dung
của hợp đồng mua bán hàng hoá trước hết là những điều khoản do các bên tự
thoả thuận. Tuy nhiên, nội dung của hợp đồng mua bán hàng hố khơng chỉ là
những điều khoản mà các bên đã thoả thuận mà cịn bao gồm những điều
khoản khơng thoả thuận nhưng theo quy định của pháp luật các bên có nghĩa
vụ phải thực hiện.
Như vậy, nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá gồm những điều khoản
sau:
16


 Điều khoản bắt buộc (hay còn gọi điều khoản cơ bản, điều khoản
chủ yếu): là những điều khoản nhất thiết phải có trong hợp đồng. Khi xác
lập hợp đồng mua bán hàng hoá bắt buộc các bên phải thoả thuận và ghi vào
văn bản hợp đồng. Nếu thiếu những điều này coi như hợp đồng chưa được
giao kết. Điều khoản chủ yếu đóng vai trị quyết định đến sự tồn tại của một
hợp đồng. Đó có thể là những điều khoản về đối tượng của hợp đồng, giá cả,
thời hạn, địa điểm, phương thức giao hàng, quyền và nghĩa vụ của các bên…
 Điều khoản thông thường: là những điều khoản mà pháp luật đã
có quy đinh trước, các bên có thể thoả thuận hoặc khơng. Trong trường hợp
các bên có thoả thuận thì thực hiện theo thoả thuận, nếu khơng có thoả thuận
thì mặc nhiên tn theo quy định của pháp luật.
 Điều khoản tuỳ nghi: là những điều khoản do các bên tự thoả
thuận với nhau khi chưa có quy định của pháp luật hoặc có quy định của
pháp luật nhưng các bên được phép vận dụng linh hoạt vào hoàn cảnh thực
tế của các bên mà không trái quy định của pháp luật. Những điều khoản này
chỉ trở thành nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá khi các bên trực tiếp

thoả thuận với nhau.
1.2. Khái niệm vi phạm hợp đồng và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
mua bán hàng hóa
1.2.1. Khái niệm và dấu hiệu của vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
Khoản 12 Điều 3 Luật thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “Vi
phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo
quy định của Luật này.”
Như vậy, vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa là xử sự của các bên
không phù hợp với các nghĩa vụ thoả thuận trong hợp đồng, đó có thể là
khơng thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng các
nghĩa vụ.
17


Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là do bên mua hoặc bên
bán. Đối với trường hợp bên bán vi phạm hợp đồng có các dạng vi phạm
như: không giao hàng, giao hàng không đúng đối tượng, chất lượng, giao
hàng thiếu, giao hàng chậm, giao hàng không đúng phẩm chất quy cách đã
thoả thuận…Đối với trường hợp vi phạm hợp đồng do bên mua có thể là
khơng thanh tốn tiền hàng, khơng chịu nhận hàng, chậm thanh tốn…
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trị của trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
mua bán hàng
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá là dạng cụ thể
của trách nhiệm pháp lý phát sinh trong lĩnh vực mua bán hàng hoá.
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng có những đặc điểm cơ bản là: Được
áp dụng trên cơ sở hành vi vi phạm hợp đồng mua bán có hiệu lực pháp luật;
Nội dung gắn liền với việc thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc trách
nhiệm về tài sản; Do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền áp dụng hoặc do bên
bị vi phạm áp dụng trên cơ sở pháp luật.

Chế định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hố có nội
dung chủ yếu là các quy định về căn cứ áp dụng trách nhiệm, các hình thức
trách nhiệm và các trường hợp miễn trách nhiệm. Những quy định này có ý
nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể
trong quan hệ hợp đồng mua bán cũng như đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật về mua bán hàng hố. Vai trị của chế định trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng mua bán hàng hố thể hiện ở những khía cạnh cơ bản sau:
- Chế định trách nhiệm hợp đồng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá. Khi tham gia quan
hệ hợp đồng mua bán hàng hoá, các bên đều nhằm đạt được những mục đích
nhất định. Hành vi vi phạm hợp đồng mua bán luôn tiềm ẩn nguy cơ xâm
hại lợi ích của bên bị vi phạm (làm mất mát, hư hỏng hàng hoá, giảm sút thu
nhập, lợi nhuận…). Để bảo vệ lợi ích của bên bị vi phạm, chế định trách

18


nhiệm hợp đồng mua bán cho phép bên bị vi phạm tự mình hoặc u cầu cơ
quan có thẩm quyền áp dụng các hình thức trách nhiệm (chế tài) đối với bên
vi phạm (buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại,
tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ hợp đồng, huỷ bỏ hợp đồng). Bên
cạnh đó, chế định trách nhiệm hợp đồng mua bán cũng bảo vệ quyền lợi của
bên vi phạm. Với việc quy định rõ ràng các căn cứ, thủ tục áp dụng trách
nhiệm, các trường hợp miễn trách nhiệm…chế định trách nhiệm hợp đồng
mua bán bảo đảm cho bên vi phạm chỉ phải chịu trách nhiệm về những thiệt
hại do pháp luật quy định, bảo vệ bên vi phạm trước những hiện tượng tiêu
cực trong xử lý vi phạm hợp đồng.
- Chế định trách nhiệm hợp đồng ngăn ngừa và hạn chế vi phạm hợp
đồng mua bán hàng hoá, nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ thể hợp
đồng trong việc thực hiện hợp đồng. Chế định trách nhiệm hợp đồng chủ

trương áp dụng các biện pháp chế tài đối với mọi hành vi vi phạm hợp đồng
(trừ trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định của pháp luật hoặc bên bị
vi phạm không yêu cầu áp dụng chế tài). Quy định về trách nhiệm hợp đồng
có tác động rất mạnh mẽ vào ý thức của các bên, nâng cao tinh thần trách
nhiệm của các bên trong việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, ngăn ngừa và
hạn chế vi phạm hợp đồng xảy ra.
1.3. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng
hóa
Những vi phạm trong q trình thực hiện hợp đồng sẽ có tác động
không nhỏ tới hoạt động kinh doanh cuả hai bên. Tuy nhiên, không phải bất
kỳ trường hợp nào, khi một bên trong hợp đồng mua bán hàng hố khơng
thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ những quy
định trong hợp đồng đều phải chịu trách nhiệm bồi thường và chịu phạt
trước bên kia. Để xác định xem một trường hợp vi phạm hợp đồng có thể

19


quy trách nhiệm cho bên vi phạm không, ta phải căn cứ vào các yếu tố cấu
thành trách nhiệm.
Với tính chất là một loại trách nhiệm pháp lí, trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng mua bán hàng hoá được áp dụng khi có những căn cứ do pháp luật
quy định. Với mỗi hình thức chế tài, căn cứ áp dụng có sự khác nhau nhất
định, phụ thuộc vào tính chất và mục đích của hình thức chế tài đó.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn khoa học pháp lý về lỗi trong quan hệ
mua bán, Điều 230 Luật thương mại năm 2005: "Căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại" quy định bốn yếu tố cấu thành trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm: Có hành vi vi phạm hợp đồng;
có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra; hành vi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp
gây ra thiệt hại thực tế; có lỗi của bên vi phạm.

1.3.1. Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ phát sinh trách nhiệm
Hành vi vi phạm hợp đồng là xử sự của các chủ thể không phù hợp với
các nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ.
Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ pháp lí để áp dụng đối với tất cả
các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Đây là căn cứ cơ bản để quy
trách nhiệm, vì hợp đồng là sự thỏa thuận tự nguyện có hiệu lực pháp luật,
và sau khi được xác lập, các nghĩa vụ xuất phát từ quan hệ hợp đồng mang
tính bắt buộc, nếu một bên khơng thi hành thì bị coi là vi phạm pháp luật và
sẽ bị quy kết trách nhiệm. Trong mua bán hàng hóa, hành vi vi phạm pháp
luật có thể là khơng thực hiện hợp đồng hay thực hiện không đầy đủ, thực
hiện không đúng các nghĩa vụ theo hợp đồng. Việc người bán không giao
hàng, người mua không trả tiền hàng sẽ bị coi là hành vi không thực hiện hợp
đồng, và như vậy nếu hợp đồng được ký kết theo đúng quy định của pháp luật
thì hành vi vi phạm hợp đồng này cũng là vi phạm pháp luật. Mặt khác, việc
người bán không thực hiện đầy đủ, thực hiện không tốt hợp đồng như giao

20


hàng thiếu, giao hàng chậm, giao hàng không đúng phẩm chất quy cách đã
thỏa thuận ... Và người mua thiếu tinh thần thiện chí trong thực hiện hợp đồng
như khơng chịu nhận hàng cũng bị coi là vi phạm hợp đồng.
Như vậy, chỉ khi các chủ thể hợp đồng thực hiện đúng nguyên tắc chấp
hành mua bán hàng hoá sau:
+ Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng,
chủng loại, thời hạn, phương thức và các thoả thuận khác;
+ Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi
nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau;
+ Không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,

quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Có thực hiện đúng các ngun tắc này thì các bên mới được coi là
khơng vi phạm hợp đồng tức là không vi phạm pháp luật và được pháp luật
bảo vệ quyền lợi chính đáng.
Yếu tố “hợp đồng” được hiểu bao gồm “thoả thuận” và “quy định”
của pháp luật gắn liền với hợp đồng. Điều này có nghĩa trong quan hệ hợp
đồng mua bán thì các bên không chỉ phải thực hiện những nghĩa vụ thoả
thuận trong hợp đồng (ghi vào hợp đồng) mà còn có thể phải thực hiện
những nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Vi phạm hợp đồng tức là
không thực hiện đúng thoả thuận trong hợp đồng hoặc quy định của pháp
luật liên quan đến hợp đồng. Do đó, để có thể kết luận một hành vi có vi
phạm hợp đồng mua bán hàng hố hay khơng cần phải căn cứ vào nội dung
của hợp đồng và các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán, chúng ta
phải đối chiếu hành vi đó với thỏa thuận trong hợp đồng và đối chiếu với
các quy định liên quan.
Luật thương mại Việt Nam quy định nghĩa vụ chứng minh vi phạm
hợp đồng là của bên bị vi phạm. Ví dụ như khi người bán không giao hàng,

21


người mua phải chứng minh việc người bán không giao hàng căn cứ vào các
tài liệu văn bản có liên quan như hợp đồng mua bán đã được ký kết là căn
cứ chứng minh người bán có nghĩa vụ phải giao hàng; các bức điện giục bên
bán giao hàng, điện trả lời của người bán cam kết sẽ giao hàng... Khi đó,
người bán nếu muốn bác lại thì phải chứng minh mình khơng vi phạm hợp
đồng bằng cách xuất trình biên lai chứng từ ...
1.3.2. Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra
Thiệt hại vật chất thực tế do vi phạm hợp đồng mua bán gây ra là yếu
tố cần thiết, đặc biệt trong trường hợp muốn quy trách nhiệm địi bồi thường

thiệt hại thì đây là căn cứ bắt buộc phải có. Đối với các chế tài khác, thiệt
hại thực tế có thể được coi là tình tiết để xác định mức độ nặng nhẹ của chế
tài được áp dụng. Thông thường, thiệt hại mà bên bị vi phạm phải gánh chịu
có thể là thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần. Song, Luật thương mại Việt
Nam năm 2005 cũng như luật các nước thường chỉ thừa nhận những thiệt
hại tài sản (thiệt hại về vật chất) mới là yếu tố để quy trách nhiệm.
Thiệt hại thực tế là những thiệt hại có thể tính được thành tiền mà bên
bị vi phạm hợp đồng phải gánh chịu. Thiệt hại thực tế được chia làm hai loại
là thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Trong đó thiệt hại trực tiếp là
những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế, có thể tính tốn một cách dễ dàng và
chính xác; bao gồm:
+ Giảm tài sản bằng hiện vật: như tài sản bị mất mát, hư hỏng hoặc khi
một bên vi phạm một nghĩa vụ nào đó làm cho tài sản của bên kia giảm sút
(người bán giao hàng kém phẩm chất so với thỏa thuận làm cho bên mua
khơng nhận được hàng đúng chất lượng do đó phải bán hạ giá hoặc phải sử
dụng với mục đích khác đi...)
+ Các chi phí đã chi ra và chi thêm: các chi phí đã chi ra như chi phí
đàm phán, ký kết hợp đồng, chi phí thuê tàu mua bảo hiểm cho hàng hóa
nhưng người bán khơng giao hàng... Các chi phí chi thêm trong q trình

22


thực hiện hợp đồng như chi phí bồi thường cho người thứ ba do bên bán
giao chậm hàng làm cho bên mua bị phạt giao chậm, chi phí phạt dỡ chậm
mà người bán phải trả cho người chuyên chở do người mua khơng chịu đến
nhận hàng... Chi phí để ngăn chăn và hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng
gây ra.Tất cả các khoản bị giảm sút về tài sản và chi phí đã chi và chi thêm
này đều có thể quy ra giá trị vật chất cụ thể và là cơ sở cho việc đòi bồi
thường thiệt hại.

Thiệt hại gián tiếp là những thiệt hại phải dựa trên sự suy đoán khoa
học (trên cơ sở những chứng cứ, tài liệu) mới có thể xác định được. Biểu
hiện cụ thể của thiệt hại gián tiếp là thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút,
khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu.
Đây chính là những khoản lợi mà khi ký kết hợp đồng, các bên đều mong
đợi. Những khoản lợi này dù trên thực tế nếu khơng có vi phạm hợp đồng,
bên bị vi phạm có nhận được hay khơng khơng quan trọng mà cứ có vi phạm
gây thiệt hại làm mất khoản lợi dự ước đó, bên bị vi phạm vẫn được quyền
đòi bên vi phạm.
Về nguyên tắc bên bị vi phạm chỉ được bồi thường những khoản thiệt
hại trong phạm vi do pháp luật quy định. Đối với hợp đồng trong lĩnh vực
thương mại, Luật thương mại năm 2005 quy định về các khoản thiệt hại do
vi phạm hợp đồng bao gồm: giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi
phạm phải gánh chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà lẽ ra
bên bị vi phạm được hưởng. Trường hợp nếu bên vi phạm chậm thanh tốn
tiền thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó
theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh tốn
tương ứng với thời gian chậm trả (Điều 306 Luật thương mại năm 2005).
1.3.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt
hại thực tế

23


Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực
tế xảy ra là một căn cứ quan trọng để áp dụng trách nhiệm đối với bên vi
phạm. Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ vi phạm hợp đồng là nguyên nhân
trực tiếp gây ra các thiệt hại, còn thiệt hại thực tế là hậu quả trực tiếp của
những hành vi đó. Bên có hành vi vi phạm hợp đồng chỉ phải bồi thường
thiệt hại khi thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi vi phạm hợp đồng.

Trong trường hợp thiệt hại xảy ra không phải do hành vi vi phạm gây nên thì
bên có hành vi vi phạm khơng phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đó. Ví dụ
như người bán giao hàng chậm so với thời gian quy định trong hợp đồng
làm giá hàng giảm so với giá của thời kỳ lẽ ra hàng được giao, và do vậy
người mua bị bỏ lỡ khoản lợi đáng lẽ được hưởng. Vậy hành vi giao hàng
chậm là nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hại tài sản cho người mua (không
được nhận khoản lãi mà mình có quyền được hưởng từ quan hệ hợp đồng).
Hay trường hợp người bán đã giao hàng theo đúng thỏa thuận trong hợp
đồng nhưng người mua không chịu ra nhận hàng tại cảng đến, làm phát sinh
chi phí lưu tàu vì hành vi khơng nhận hàng của người mua là nguyên nhân
trực tiếp gây ra hậu quả người bán phải chi thêm các chi phí lưu tàu, bảo
quản hàng hóa.
Trên thực tế, một hành vi vi phạm hợp đồng có thể gây ra nhiều
khoản thiệt hại và một khoản thiệt hại cũng có thể được sinh ra do nhiều
hành vi vi phạm hợp đồng. Trong khi đó, các chủ thể hợp đồng, đặc biệt là
các chủ thể kinh doanh, có thể cùng lúc tham gia nhiều quan hệ hợp đồng
khác nhau. Vì vậy việc xác định chính xác mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế không phải bao giờ cũng dễ dàng;
sẽ rất dễ nhầm lẫn nếu chỉ dựa vào sự suy đoán chủ quan. Điều này đòi hỏi
bên bị vi phạm khi đòi bồi thường thiệt hại (cũng như các cơ quan tài phán
khi quyết định áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại đối với bên vi phạm)
phải dựa trên những chứng cứ rõ ràng, xác thực và hợp pháp.
1.3.4. Có lỗi của bên vi phạm
24


Lỗi của bên vi phạm hợp đồng là căn cứ bắt buộc phải có để áp dụng
đối với tất cả các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Trong khoa học
pháp lí, lỗi được hiểu là trạng thái tâm lí và mức độ nhận thức của một
người đối với hành vi của họ và hậu quả của hành vi đó. Vấn đề trạng thái

tâm lí và nhận thức chỉ được đặt ra đối với các chủ thể là cá nhân. Trong khi
đó bên vi phạm hợp đồng có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Vì vậy, khi xác
định lỗi của chủ thể là tổ chức vi phạm hợp đồng để áp dụng trách nhiệm
hợp đồng phải căn cứ vào lỗi của người đại diện cho tổ chức đã giao kết và
thực hiện hợp đồng.
Luật thương mại Việt Nam khơng quy định ai có lỗi mà lỗi được xác
định theo nguyên tắc suy đoán. Khi một bên vi phạm hợp đồng thì bên kia
có quyền suy đốn bên vi phạm có lỗi và vì vậy, bên vi phạm phải chịu trách
nhiệm. Pháp luật Việt Nam đã có sự phân biệt rõ ràng hai hình thức lỗi là lỗi
cố ý và lỗi vô ý tuy nhiên trong việc xác định trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng thì hình thức của lỗi hồn tồn khơng khơng ảnh hưởng đến giới hạn
và phạm vi của trách nhiệm, hay nói đúng hơn là không ảnh hưởng đến mức
độ bồi thường thiệt hại. Ví dụ như khi người bán giao hàng chậm, người
mua có quyền suy đốn ngay là người bán có lỗi vì khơng giao hàng theo
đúng thời gian thỏa thuận và như vậy, người mua có thể quy trách nhiệm
cho người bán.
Khi bị quy trách nhiệm, bên vi phạm muốn thoát trách nhiệm phải
chứng minh là mình khơng có lỗi, chừng nào khơng chứng minh được thì
đương nhiên vẫn bị coi là có lỗi và phải chịu trách nhiệm.
Khi áp dụng chế tài đối với bên vi phạm, bên bị vi phạm cũng như cơ
quan tài phán khơng có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên vi phạm.

25


×