Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





VIÊN THẾ GIANG









PHÁP LUẬT VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÊN
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM









LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC












Hà Nội năm 2008

1
MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang



1

CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BỐ
THÔNG TIN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN
TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN

1.1.

Lý luận về thông tin và công bố thông tin trên thị trường chứng
khoán
6
1.2.
Những vấn đề cơ bản của pháp luật về công bố thông tin trên thị
trường chứng khoán
32
1.3.
Khái quát quá trình phát triển pháp luật về công bố thông
tin trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam
40


Kết luận chương 1
43

CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG BỐ
THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM

2.1.
Những kết quả đạt đƣợc
45
2.2.
Một số hạn chế của pháp luật về công bố thông tin trên thị trường
chứng khoán
67


Kết luận chương 2

79

CHƢƠNG 3 MỘT SỐ Ý KIẾN NHĂM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÊN
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

3.1.
Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật về công bố thông tin trên thị
trường chứng khoán Việt Nam

80

2
3.2.
Một số ý kiến nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về công bố
thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam
93


Kết luận
110

Tài liệu tham khảo



3
DANH SÁCH CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
UBCKNN: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước

TTCK: Thị trường chứng khoán
CBTT: Công bố thông tin
GDCK: Giao dịch chứng khoán
LCK: Luật chứng khoán 2006

4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công bố thông tin là một yêu cầu không thể thiếu để đảm bảo lòng tin và sự
công bằng cho các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán (TTCK). Các tổ chức
phát hành, niêm yết phải thực hiện chế độ công bố thông tin kịp thời, chính xác và
theo đúng quy định của pháp luật. Công bố thông tin là nguyên tắc công khai, được
coi là nguyên tắc hoạt động cơ bản nhất của TTCK. Việc thực hiện pháp luật về
công bố thông tin và giám sát quá trình công bố thông tin trên TTCK Việt Nam vẫn
còn nhiều hạn chế.
So với các nước trong khu vực và trên thế giới, TTCK nước ta còn non trẻ và
ẩn chứa trong nó nhiều nguy cơ. Cũng giống như những thị trường mới nổi khác,
TTCK Việt Nam cũng chịu tác động rất lớn của tình trạng thông tin bất cân xứng
(thông tin không đầy đủ, khó tiếp cận thông tin, rò rỉ thông tin, mua bán thông tin
nội gián ). Những thăng trầm, biến đổi của TTCK Việt Nam có một phần “đóng
góp” không nhỏ của thông tin trên TTCK. Nhận thức được điều đó, các nhà lập
pháp nước ta cũng đã quan tâm đến việc xây dựng một hành lang pháp lý thống nhất
cho hoạt động CBTT trên TTCK để bảo đảm cho TTCK phát triển minh bạch, an
toàn và phát triển bền vững. Việc nghiên cứu quá trình phát triển của pháp luật về
CBTT trên TTCK Việt Nam có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Pháp luật điều chỉnh hoạt động công bố thông tin đã không ngừng được hoàn
thiện theo hướng nâng cao khả năng kiểm soát thông tin của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền; bảo đảm tính khách quan, công bằng giữa các công ty niêm yết
cũng như các công ty không niêm yết; khả năng tiếp cận được chính xác, đầy đủ các
thông tin của nhà đầu tư như Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Chứng khoán 2006,

Thông tư số 38/2007/TT-BTC ngày 18/04/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn về
việc công bố thông tin trên TTCK Các quy định pháp luật này đã tạo thành khung
pháp lý bảo đảm cho hoạt động cung cấp thông tin trên TTCK. Tuy nhiên, mức độ
tuân thủ các quy định này chưa được cao, tình trạng sử dụng thông tin nội gián để
trục lợi vẫn còn khá phổ biến.

5
Tình trạng thông tin bất cân xứng, hạn chế thông tin, thông tin không đầy đủ
đã để lại những hậu quả xấu trong cách nhìn nhận của các nhà đầu tư vào thị trường.
Nhà đầu tư khó có thể đưa ra được quyết định đúng đắn nhằm giảm thiểu các rủi ro
trong hoạt động đầu tư. Việc tìm kiếm các giải pháp cho TTCK Việt Nam phát triển
ổn định và bền vững là yêu cầu hết sức cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu các nội dung liên quan đến thông tin trên TTCK Việt Nam cũng
đã được rất nhiều người quan tâm. Tuy nhiên các nghiên cứu đó mới chỉ dừng lại ở
việc đánh giá, bình luận của của báo giới, của những người có chức trách trong các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc của các chuyên gia tài chính, như
GS.,TSKH Nguyễn Duy Gia đề cập đến việc minh bạch và công khai đối với TTCK
trong cuốn “Một số vấn đề cần biết về TTCK Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà nội 2003; Chương 8 Hệ thống thông tin trên TTCK Giáo trình TTCK, trường
Đại học Kinh tế quốc dân, Nxb Tài chính Hà Nội, 2002; Chương 8 Hệ thống thông
tin thị trường, Giáo trình TTCK, Học viện Ngân hàng, Nxb Thống Kê, Hà Nội
2002; TS Nguyễn Minh Phong (2007) Nhận diện những rủi ro trong đầu tư chứng
khoán, Tạp chí Tài chính số tháng 5, tr 43-45; PGS.,TS Lê Hoàng Nga (2007) Cách
thức đầu tư và phòng chống rủi ro chứng khoán đối với nhà đầu tư cá nhân tham gia
TTCK, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam, số 103, tháng 5/2007, tr 8-11, Viên Thế
Giang (2007), Thông tin trên thị trường chứng khoán những vấn đề cần lưu ý, Tạp
chí Công nghệ Ngân hàng số 12/2007, Viên Thế Giang (2008), Hoạt động công bố
thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo
Ngân hàng số 1+2/2008, Viên Thế Giang (2008), Vai trò của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền trong việc giám sát hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng
khoán Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 6/2008, Viên Thế
Giang (2008), Minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí
Ngân hàng số 13 tháng 7/2008 Những nghiên cứu mang tính tổng thể đánh giá về
các tác động của thông tin, công bố thông tin và pháp luật về CBTT trên TTCK đến
hoạt động đầu tư chứng khoán lại chưa có nhiều. Chính vì vậy, việc lựa chọn đề tài

6
“Pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam” làm luận
văn tốt nghiệp cao học luật là một đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Là luận văn chuyên ngành luật học, Luận văn tập trung phân tích, đánh giá,
bình luận về các quy định pháp luật hiện hành về công bố thông tin trên TTCK
trong mối tương quan với quá trình xây dựng và hoàn thiện TTCK trong điều kiện
hội nhập quốc tế, nhất là các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ chứng khoán, thì
các quy định pháp luật hiện hành về CBTT cần phải hoàn thiện như thế nào. Để làm
được điều này, luận văn tập trung nghiên cứu, xây dựng hệ thống các vấn đề lý luận
về thông tin trên TTCK trên cơ sở đó phân tích các nhân tố tác động đến chất lượng
thông tin, hoạt động CBTT trên TTCK; các yêu cầu đối với thông tin trên TTCK
làm tiền đề cho các yêu cầu đối với pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam. Từ
những vấn đê lý luận trên, Luận văn phân tích thực trạng pháp luật về CBTT trên
TTCK Việt Nam, chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế của các quy định hiện hành
làm cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các quan điểm khoa học nhằm hoàn thiện pháp
luật về CBTT trên TTCK Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, cũng
như chuẩn mực về quản lý thị trường của Tổ chức quốc tế của các UBCKNN.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, tổng
hợp từ đó rút ra các đặc điểm, quy luật về thông tin và CBTT trên TTCK Việt Nam,
nhận diện những bất cập trong các quy định pháp luật về CBTT và đề xuất một số
quan điểm nhằm hoàn thiện pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam. Ngoài các

phương pháp trên, tác giả cũng sử dụng phương pháp điều tra xã hội học đối với các
nhà đầu tư cũng như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về thực trạng pháp luật
về CBTT trên TTCK Việt Nam.
5. Nội dung nghiên cứu chính của đề tài
Luận văn nghiên cứu và xây dựng hệ thống lý luận về thông tin, công bố thông
tin trên TTCK Việt Nam. Phân tích sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối
với hoạt động công bố thông tin trên TTCK, những đặc trưng, yêu cầu của pháp luật

7
về CBTT trên TTCK, nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật một số nước về CBTT trên
TTCK từ đó rút ra những bài học cho việc xây dựng, thực thi pháp luật về CBTT
trên TTCK Việt Nam.
Luận văn khái quát quá trình hình thành và phát triển pháp luật về CBTT trên
TTCK Việt Nam, phân tích những kết quả đã đạt được, chỉ ra những bất cập cần
tiếp tục hoàn thiện trong tình hình mới.
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đã đạt được từ việc phân tích thực trạng
thi hành pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam, luận văn nghiên cứu và đề xuất
cơ sở và phương hướng hoàn thiện pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam.
6. Những đóng góp về khoa học và thực tiễn của đề tài
6.1. Những đóng góp về khoa học.
- Luận văn đã hệ thống hóa được những lý luận về thông tin, hoạt động công
bố thông tin trên TTCK Việt Nam. Chỉ ra những nhân tố tác động đến hoạt động
CBTT và xây dựng được hệ thống các tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin trên
TTCK Việt Nam. Luận văn chỉ ra sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối
với hoạt động CBTT trên TTCK, đặc trưng và các yêu cầu của pháp luật về CBTT
trên TTCK Việt Nam;
- Luận văn đã khái quát được quá trình hình thành và phát triển pháp luật về
CBTT trên TTCK Việt Nam, phân tích những kết quả đạt được và những hạn chế,
bất cập trong việc thực hiện pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam, trên cơ sở
đó, Luận văn xây dựng được hệ thống quan điểm lý luận và đề xuất các giải pháp

hoàn thiện pháp luật về CBTT trên TTCK Việt Nam.
6.2. Những đóng góp về thực tiễn
Thông qua các tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin trên TTCK, cơ quan
quản lý thị trường, nhà đầu tư và tổ chức phát hành có được cơ sở lý luận nhằm
từng bước nâng cao chất lượng thông tin trên TTCK, để thông tin trở thành một
trong những yếu tố quan trọng nhất giúp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh chứng
khoán. Những quan điểm, đề xuất trong luận văn cũng sẽ giúp ích cho cơ quan nhà

8
nước có thẩm quyền trong việc sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành về CBTT
trên TTCK Việt Nam.
7. Kết cầu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cầu làm ba chương sau:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về thông tin và pháp luật về công bố thông
tin trên thị trường chứng khoán
Chƣơng 2. Thực trạng pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng
khoán Việt Nam
Chƣơng 3. Hoàn thiện về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.




9
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN VÀ PHÁP
LUẬT VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THÔNG TIN VÀ CÔNG BỐ THÔNG
TIN TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thông tin và công bố thông tin trên thị
trƣờng chứng khoán
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thông tin trên thị trường chứng khoán
a) Khái niệm thông tin trên thị trường chứng khoán
“Biết địch biết ta trăm trận trăm thắng”, lời dạy của cổ nhân đến nay vẫn còn
nguyên giá trị nhất là trong hoạt động đầu tư chứng khoán với những biến động
không ngừng, bởi chỉ cần một quyết định đúng đắn hay sai lầm của nhà đầu tư sẽ
biến họ thành kẻ trắng tay hay là những tỷ phú. Phân tích những rủi ro trong hoạt
động đầu tư chứng khoán, thì rủi ro thông tin được coi là rủi ro lớn nhất và cũng là
nguồn cội của mọi rủi ro trong đầu tư chứng khoán đó chính là rủi ro từ sự dại dột
và những sai lầm do thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng tổng hợp, phân tích và phản ứng
thị trường nhạy bén, chính xác của nhà đầu tư. Do đó, khả năng lắng nghe, phân
tích các “chiêu thức” và cả nghệ thuật “tung tin đồn”, gây nhiễu thông tin của các
“đại gia” hoặc đại bợm kinh doanh chứng khoán, hay bản thân các công ty, tổ chức
phát hành chứng khoán sẽ là bùa hộ mệnh để nhà đầu tư bảo vệ mình tránh được
những cạm bẫy và gắn với thế giới thông tin thường luôn mờ ảo trên thị trường đặc
thù này [19, tr43-45].
Giá trị của thông tin trên TTCK đã và đang mang lại những hiệu quả hết sức to
lớn, song ẩn sau những thông tin được công bố là những hiểm hoạ mà nếu không
được kiểm soát, giám sát chặt chẽ thì có thể làm đảo lộn trật tự, quy luật thị trường.
Thanh tra Ủy ban Chứng khoán đã tiến hành kiểm tra tình hình thực hiện việc
CBTT của một số công ty niêm yết với những đánh giá chi tiết và đề xuất các lưu ý
đối với các tổ chức này trong hoạt động CBTT.

10
TTCK được coi là thị trường của thông tin, thông tin là mối dây liên kết các nhà
đầu tư, cơ quan quản lý với thị trường bởi bất cứ một thông tin nào mới trên TTCK
cũng ngay lập tức ảnh hưởng đến hành vi của nhà đầu tư chứng khoán. Việc thành
bại trên thị trường của nhà đầu tư một phần là do việc nhà đầu tư có nắm bắt được
thông tin hay không, kỹ năng tiếp cận và xử lý thông tin như thế nào.

Các thông tin trên TTCK được nhiều các chủ thể khác nhau công bố và ở mỗi
chủ thể CBTT, pháp luật lại có các yêu cầu khác nhau nhằm hướng tới mục tiêu bảo
đảm sự phát triển nhanh, bền vững của TTCK đáp ứng các yêu cầu của tiến trinh
hội nhập quốc tế.
Dưới góc độ kinh tế, thông tin trên TTCK được hiểu là toàn bộ các thông tin
phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong những giai đoạn phát triển nhất
định. Tình hình tài chính của doanh nghiệp được phản ánh thông qua các báo cáo tài
chính, bảng kê chi tiết tài sản, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, chiến lược phát triển của doanh nghiệp trong tương lai và như vậy, khi
nhìn vào những tài liệu này chúng ta có thể thấy được độ “lành mạnh” của tình hình
tài chính của doanh nghiệp, cũng như tiềm năng, khả năng sinh lợi của doanh
nghiệp ở hiện tại và tương lai.
Dưới góc độ xã hội, thông tin trên TTCK là một bộ phận không thể thiếu của
TTCK. Thông qua kênh thông tin, nhà đầu tư có được cái nhìn tổng thể về TTCK
cũng như thông tin đối với các công ty niêm yết. Các thông tin trên TTCK như
thông tin về tổ chức phát hành, thông tin về chỉ số chứng khoán, thông tin về diễn
biến các giao dịch trên thị trường phản ánh quy mô, mức độ phát triển của TTCK,
khẳng định vai trò là “hàn thử biểu” của TTCK đối với sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.
Việc tiếp cận thông tin của nhà đầu tư có dễ dàng hay không cũng là một yếu tố
giúp cho thị trường hoạt động có hiệu quả và an toàn. Thông qua hệ thống thông tin
được công bố trên thị trường, nhà đầu tư có được các quyết định đầu tư phù hợp với
những thông tin mà mình đã có được. Với hệ thống thông tin minh bạch, rõ ràng,
TTCK sẽ thu hút được tối đa các nguồn lực của xã hội cho hoạt động đầu tư. Thông

11
tin trên thị trường chứng khoán là hệ thống các dữ liệu liên quan đến tổ chức niêm
yết do các chủ thể có thẩm quyền cung cấp theo quy định của pháp luật.
Dưới góc độ pháp lý, thông tin trên TTCK phản ảnh mức độ tuân thủ các quy
định pháp luật được áp dụng đối với các chủ thể tham gia thị trường, phản ánh hàng

loạt các quan hệ pháp luật đa dạng phức tạp trong nội bộ của doanh nghiệp, như
quan hệ giữa cổ đông với thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát,
Ban Giám đốc; thể hiện mức độ tuân thủ pháp luật về CBTT đối với các chủ thể
tham gia thị trường. Như vậy, dưới góc độ pháp lý, thông qua các thông tin về
doanh nghiệp là điều kiện để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét quyết
định cho phép tổ chức phát hành được chào bán cổ phiếu ra công chúng để huy
động vốn. Pháp luật về CBTT cũng quy định rõ điều kiện, đối tượng, hình thức,
phương tiện CBTT đối với các chủ thể tham gia thị trường.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra những nhận định cơ bản sau đây [9]:
Một là, thông tin trên TTCK là nhân tố quan trọng giúp cho nhà đầu tư đưa ra
các quyết định đầu tư. Các thông tin đó định hướng và giúp cho các nhà đầu tư lựa
chọn được các công ty có triển vọng để quyết định đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro;
Hai là, minh bạch thông tin là một trong những yếu tố quan trọng giúp làm lành
mạnh thị trường, hoạt động an toàn và bền vững;
Ba là, giá trị của thông tin trên TTCK rất lớn, ảnh hưởng đến quyết định đầu tư
của nhà đầu tư chứng khoán cũng như của các cơ quan quản lý. Điều này đặt ra yêu
cầu khi tiếp cập đối với các thông tin trên TTCK buộc nhà đầu tư cũng như nhà
quản lý phải có những chọn lọc rất kỹ càng trước khi đưa ra quyết định;
Bốn là, khung pháp luật về CBTT trên TTCK và việc tổ chức thực hiện là vấn
đề mấu chốt hiện nay để nâng cao tính minh bạch của TTCK. Yêu cầu đặt ra đối với
các cơ quan quản lý nhà nước là phải tìm ra được các biện pháp để nâng việc tuân
thủ pháp luật về CBTT của các chủ thể;
Năm là, nâng cao nhận thức của nhà đầu tư trong việc phân tích thông tin trên
TTCK vẫn vần vấn đề mang tính thời sự đối với nhà đầu tư nước ta hiện nay, đặc

12
biệt là trên thị trường OTC, bởi lẽ, chỉ khi nhà đầu tư có được các kỹ năng phân tích
thông thi thì sẽ hạn chế được rủi ro bầy đàn trong đầu tư chứng khoán;
b) Đặc điểm thông tin trên thị trường chứng khoán.
Thứ nhất, thông tin trên thị trường chứng khoán là hệ thống các dữ kiện liên

quan đến hoạt động của các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán. Hệ thống
các dữ kiện này được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như, các báo cáo tài
chính hàng năm, Nghị quyết đại hội đồng cổ đông, việc xây dựng chiến lược và các
biện pháp bảo đảm thực thi Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông của Hội đồng quản
trị… Thông qua hệ thống thông tin này, nhà đầu tư có được cái nhìn nhận về hiện
trạng và xu hướng phát triển của công ty ở hiện tại và tương lai trên cơ sở đó đưa ra
quyết định đầu tư.
Hệ thống các dữ kiện này được truyền tải qua các phương tiện thông tin đại
chúng cũng như hệ thống lưu trữ dữ kiện/tài liệu nội bộ của tổ chức niêm yết và cơ
quan quản lý thị trường. Tổ chức niêm yết chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính
chân thực của các thông tin này. Yêu cầu đối với hệ thống dữ kiện của tổ chức niêm
yết là phải dễ dàng tiếp cận với những ai muốn tìm hiểu về công ty.
Thứ hai, thông tin trên TTCK là một bộ phận cấu thành nên thị trường. Thông
qua kênh thông tin, nhà đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, các
chuyên gia tài chính ngân hàng có thể nhận biết được xu hướng phát triển của thị
trường từ đó đưa ra được những cảnh báo hoặc định hướng phát triển.
Tuy nhiên, trong điều kiện ai cũng có thể đưa ra thông tin, bình luận thông tin
trong cách nhìn nhận riêng của cá nhân mình dễ dẫn đến tình trạng loạn thông tin và
nếu không thận trọng thì sẽ dễ dẫn đến những quyết định sai lầm hoặc gây thiệt hại
cho các tổ chức niêm yết một cách vô tình hay hữu ý.
Là bộ phận cấu thành nên thị trường, hệ thống thông tin cần được kiểm duyệt
chặt chẽ, nhất là các thông tin có nguy cơ gây nhiễu loạn thị trường. Minh định
trong chính sách về phát triển thị trường, ấn định hệ thống các thông tin phải công
bố là một trong những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của bộ phận thông tin của

13
thị trường. Chỉ khi có được hệ thống thông tin thị trường minh bạch mới có thể tạo
lập được TTCK phát triển ổn định và bền vững.
Thứ ba, thông tin trên TTCK là cơ sở để các nhà đầu tư phân tích, đánh giá,
thương lượng với nhau. Thông tin là thước đo phản ánh giá trị của doanh nghiệp.

Thông qua hệ thống các chỉ số về vốn, về lợi nhuận, về chiến lược kinh doanh…
nhà đầu tư có thể thấy được tiềm năng phát triển của tổ chức phát hành. Không phải
ngẫu nhiên mà mỗi lần đấu giá cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) đều rất được
giới đầu tư chú ý. Các nhà đầu tư đua nhau tìm kiếm các thông tin, không chỉ từ các
báo cáo có liên quan mà còn thông qua báo chí, thậm chí là các mối quan hệ của
những người có liên quan đến tổ chức niêm yết. Nhận thấy tiềm năng phát triển của
tổ chức niêm yết, nhà đầu tư sẵn sàng mua với mức giá cao miễn là được sở hữu cổ
phần của công ty. Từ đó có thể khẳng định, thông tin liên quan đến tổ chức niêm yết
là cơ sở không thể thiếu được để nhà đầu tư ra quyết định đầu tư.
Riêng đối với TTCK Việt Nam thông tin lại càng quan trọng hơn, bởi lẽ, thông
tin trên TTCK Việt Nam đa dạng, đủ loại, song việc kiểm định độ chính xác, khách
quan những thông tin là không dễ dàng, thêm vào đó, đa phần các nhà đầu tư nước
ta ít hiểu biết về TTCK, tâm lý đầu tư theo đám đông nên các nhà đầu tư thường
hay nghe ngóng và có thiên hướng ngả theo đám đông nên hiện tượng “thông tin rỉ
tai” là phổ biến. Điều nguy hại là các nhà đầu tư của ta tỏ ra tin tưởng với các luồng
thông tin này và dạng “thông tin rỉ tai” như một “vết dầu loang” có sức lan toả
nhanh song hết sức mỏng manh và dễ tan vỡ.
Đã không ít nhà đầu tư cá nhân thường tìm đến những “tay không tham gia thị
trường”. Họ là những sinh viên các trường kinh tế tham gia thị trường vừa để học
tập kinh nghiệm thực tiễn vừa kiếm tiền, vì họ là những người ít nhiều có kiến thức
về chứng khoán và TTCK nên thường được nhờ đặt lệnh mua hoặc bán, đôi khi còn
đưa ra lời khuyên cho không ít nhà đầu tư. Còn nhà đầu tư tổ chức thường tìm đến
các công ty chứng khoán với đội ngũ cán bộ môi giới – tư vấn của chính am hiểu thị
trường. Cách làm này có ưu điểm là nhà đầu tư dễ có được những lời khuyên và

14
định hướng được hoạt động đầu tư, song theo các chuyên gia thì cách làm này ẩn
chứa những nguy cơ [9].
Do biết được các thông tin nội bộ nên đã không ít các trường hợp, người quản
trị doanh nghiệp lợi dụng sự hiểu biết của mình để bán thông tin hoặc tìm cách để

đưa người thân của mình vào để mua cổ phiếu của công ty. Thực tế này đã làm ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động của công ty. Công ty bị tước đoạt đi các giá trị mà
đáng lẽ công ty được hưởng đồng thời làm mất đi các cơ hội kinh doanh của các nhà
đầu tư khác; đồng thời làm mất đi tính công bằng, khách quan của thị trường.
Để bảo đảm cho thông tin để các nhà đầu tư phân tích, đánh giá, thương lượng
với nhau thì thông tin phải bảo đảm các yêu cầu:
- Các thông tin về diễn biến hoạt động của công ty phải được công bố kịp thời,
nhất là các thông tin bất thường, các giao dịch lớn, giao dịch của cổ đông lớn trong
công ty;
- Mỗi tổ chức phát hành cần có bộ phận chuyên trách để thu thập, phân tích, xử
lý và công bố thông tin về tình hình hoạt động của công ty;
- Tổ chức phát hành phải thường xuyên cập nhật thông tin lên trang thông tin
điện tử của mình;
- Nâng cao ý thức và vai trò của cổ đông trong việc yêu cầu công ty cung cấp
thông tin đáp ứng yêu cầu của mình để bảo đảm sự bình đẳng trong việc tiếp cận
thông tin của nhà đầu tư.
Do vậy, vấn đề kiểm soát thông tin công bố trên TTCK, các biện pháp chế tài
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về CBTT trên TTCK là công cụ thiết lập trật tự
kỷ cương của thị trường, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống thông tin thị trường,
từ đó giúp cho thị trường hoạt động theo đúng quy luật, an toàn và phát triển bền
vững phải được quan tâm hàng đầu và tiến hành thường xuyên.
Thứ tƣ, thông tin trên TTCK là một trong những biểu hiện và làm gia tăng giá
trị của công ty niêm yết, song nó cũng có thể gây bất lợi cho công ty. Một công ty
làm ăn có hiệu quả, chiến lược kinh doanh khả thi, tình hình tài chính lành mạnh tất
yếu sẽ được nhà đầu tư chú ý và giá cổ phiếu niêm yết của công ty sẽ cao. Đây là

15
điều hiển nhiên. Thực tế cho thấy, một công ty với nhiều thành tích, được báo giới
nhắc đến nhiều, hoặc là các nhà tài trợ cho các chương trình thì càng được công
chúng biết đến và điều đó đã làm gia tăng đáng kể giá trị của công ty. Một trong

những lợi ích của việc niêm yết trên TTCK, đó là các tổ chức niêm yết có được
phương tiện quảng cáo rất hữu hiệu, tạo thêm được lợi thế cạnh tranh trên trường vì
thông qua số lượng giao dịch cổ phiếu của công ty được giao dịch hàng ngày, công
ty sẽ thu hút được thêm nhà đầu tư cũng như đối tác mới.
Tuy nhiên, nếu các thông tin về tổ chức niêm yết bị bóp méo, hoặc thông tin sai
lệch thì đó lại là điều hết sức tai hại và có thể “giết chết” tổ chức niêm yết. Tổ chức
niêm yết càng có uy tín, càng được sự tin tưởng của công chúng bao nhiêu, khi có
những thông tin ngược chiều, thì càng nguy hiểm bấy nhiêu, vì tổ chức niêm yết
không chỉ mất các nhà đầu tư hiện tại, mà còn mất luôn các nhà đầu tư tiềm năng.
Hoạt động đầu tư chứng khoán, niêm tin là yếu tố quan trọng nhất, là động lực, lực
đẩy TTCK nói chung và tổ chức niêm yết nói riêng phát triển. Và như vậy, khi tổ
chức niêm yết mất niềm tin đối với công chúng đầu tư thì sẽ không thể tồn tại và
phát triển được.
Tính hai mặt của thông tin trên TTCK đặt ra yêu cầu đối với cổ đông, nhà quản
trị, cơ quan quản lý nước có thẩm quyền là cần hết sức thận trọng trước các thông
tin liên quan đến hoạt động của tổ chức niêm yết, nhất là các thông tin có nguy cơ
gây hại. Bởi lẽ, trong tình huống đó, bất cứ một động thái nào của những người có
liên quan cũng ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức niêm yết.
Thứ năm, thông tin trên TTCK có tác động rất lớn đối với thị trường cũng như
cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiện toàn hoạt động của thị trường và việc hoạt
định chính sách phát triển TTCK. Thông tin trên TTCK chính là biểu hiện của
những phản ứng thị trường đối với cơ chế chính sách, pháp luật của Nhà nước, cung
cách quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Những phản ứng thị
trường đó cần được các cơ quan quản lý nhà nước nghiêm túc tiếp nhận và từng
bước nghiên cứu và có những bước hiệu chỉnh cho phù hợp. TTCK Việt Nam đang
trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện, những phản ứng thị trường đó phải được

16
coi là những dấu hiệu đáng mừng, vì thông qua những phản ứng thị trường đó
những điểm yếu của TTCK mới được bộ lộ và như vậy Nhà nước sẽ dễ dàng hơn

trong việc “bốc thuốc trị bệnh” cho TTCK trong những trường hợp cần thiết.
1.1.1.2. Hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán
a) Khái niệm công bố trên thị trường chứng khoán
Để thông tin đến được người có nhu cầu không thể không có hoạt động công
bố. Hoạt động CBTT là hoạt động thường xuyên của các chủ thể có nghĩa vụ
CBTT. Hoạt động CBTT không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân tổ chức phát hành
mà còn có ý nghĩa đối với cả nhà đầu tư, với cơ quan quản lý nhà nước.
Thực tiễn hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp không chỉ bó hẹp trong một vài
quan hệ kinh doanh, mà các quan hệ kinh doanh đó tồn tại đan xen và phức tạp. Các
thông tin liên quan đến hoạt động của công ty nếu chỉ bó hẹp trong phạm vi “quản
trị nội bộ” thì không ai có thể tiếp cận được với các luồng thông tin nội bộ đó. Hoạt
động của công ty gắn liền với thị trường và cần có sự giám sát của thị trường bên
cạnh sự giám sát của cổ đông công ty.
Thông qua hoạt động giám sát từ bên ngoài, từ thị trường, công ty buộc phải
điều chỉnh hành vi của mình, của cổ đông và của người quản trị công ty. Công ty
hoạt động với quy mô và tính chất đại chúng càng cao thì yêu cầu công khai và
minh bạch hoá thông tin càng lớn. Có rất nhiều thông tin công ty cần phải công khai
hoá, như thực trạng và cơ cấu sở hữu, mục tiêu hoạt động, thực trạng tài chính, tiềm
năng và rủi ro… đến tập thể và cá nhân những người quản lý công ty và những lợi
ích có liên quan đều phải công khai hoá.
Thông quan hoạt động CBTT, chúng ta có được một cái nhìn toàn diện về
TTCK trong một giai đoạn nhất định. Bởi lẽ, pháp luật quy định việc CBTT không
phải chỉ là của các tổ chức niêm yết mà còn cả của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Tất cả các hoạt động CBTT đó được cộng hưởng cùng với các phương tiện
truyền thông đại chúng giúp cho các thông tin được công bố đến với công chúng
đầu tư nhanh hơn.

17
Độ chính xác, khách quan, kịp thời của hoạt động CBTT luôn là vấn đề cần
được quan tâm hàng đầu. Nếu thông tin không chính xác, không khách quan, không

kịp thời thì ngay lập tức nó ảnh hưởng đến kết quả đầu tư của công ty cũng như của
các nhà đầu tư. Người quản lý công ty phải chịu trách nhiệm về tính đầy đủ, chính
xác, tin cậy và kịp thời của các thông tin được công khai hoá.
Đối với TTCK bên cạnh thông tin của các công ty, thì thông tin từ Sở Giao
dịch/Trung tâm GDCK và từ UBCKNN cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Nguyên tắc
11 và Nguyên tắc 12 trong bộ 30 nguyên tắc quản lý TTCK của IOSCO quy định
rõ: cơ quan quản lý TTCK cần có thẩm quyền chia sẻ thông tin công khai và không
công khai với các đối tác trong và ngoài nước. Cơ quan quản lý TTCK cần xác lập
cơ chế chia sẻ thông tin với các đối tác trong và ngoài nước.
Như vậy, cùng với thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác về kết quả tài chính
và thông tin khác có tính chất trọng yếu đối với quyết định của người đầu tư cần
được công bố của tổ chức phát hành và của Sở giao dịch/Trung tâm GDCK và của
UBCKNN tạo thành một hệ thống thông tin trên TTCK. Tất cả hệ thống thông tin
đó phải được công bố kịp thời. CBTT trên TTCK là hoạt động của các chủ có thẩm
quyền nhằm công bố các thông tin liên quan đến tổ chức và hoạt động của tổ chức
phát hành, của hoạt động quản lý các GDCK và hoạt động quản lý nhà nước về
TTCK.
b) Đặc điểm của hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán
Một là, CBTT trên TTCK là hoạt động thường xuyên của các chủ thể. Thị
trường luôn biến động không ngừng, theo đó, các quan hệ kinh doanh giữa các chủ
thể cũng phải biến đổi theo cho phù hợp với các yêu cầu của thị trường. Thông qua
hoạt động CBTT, các nhà đầu tư thấy được diễn biến hoạt động của công ty trong
thời gian dài, từ đó họ có thể dễ dàng đưa ra nhận định về xu hướng phát triển của
công ty trong thời gian tới. Đối với Trung tâm/Sở GDCK, hoạt động CBTT thường
xuyên của công ty niêm yết giúp cho nhà đầu tư có điều kiện đối chiếu, so sánh các
thông số kinh tế của công ty và của Trung tâm/Sở GDCK. Là đầu mối tập trung hệ
thống thông tin, UBNCKNN là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng

18
khoán và TTCK, cùng với hệ thống chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm lại hoàn toàn

khách quan và công tâm trong việc phân tích đánh giá hệ thống thông tin thị trường
từ đó đưa ra các khuyến cáo đối với thị trường.
Chỉ khi hoạt động CBTT được tiến hành thường xuyên, tính minh bạch, công
khai, liên tục của TTCK mới được bảo đảm. Điều này càng có ý nghĩa hơn đối với
thị trường mới nổi như TTCK Việt Nam. Nói cách khác, thông tin về doanh nghiệp
được công bố thường xuyên sẽ góp phần rất lớn vào việc tạo lập, củng cố niềm tin
của giới đầu tư và các bên có liên quan vào thị trường vốn; là yếu tố không thể
thiếu đối với sự ổn định và hiệu quả hoạt động của thị trường. Nó ngăn ngừa và
làm giảm được những ửng xử trái đạo đức và hành vi lạm dụng, trái đạo đức, trái
pháp luật gây hại không chỉ quyền lợi của công ty, của cổ đông mà còn cả nền kinh
tế.
Hai là, hoạt động CBTT trên TTCK gắn liền với diễn biến hoạt động của tổ
chức phát hành và của thị trường. Đây là yếu tố sống còn để thị trường hoạt động
có hiệu quả và phát huy được hiệu lực của hoạt động giám sát theo cơ chế thị
trường đối với công ty. Các quy định về giao dịch tư lợi trong Luật Doanh nghiệp sẽ
trở nên vô nghĩa nếu tất các các thông tin liên quan đến hoạt động công ty không
đến được với cổ đông, đến được với thị trường. Thông qua các thông tin được công
bố, các cổ đông có điều kiện thực hiện các quyền chủ sở hữu, thông qua đó bảo vệ
lợi ích của họ ở công ty, nhất là các cổ đông thiểu số.
Pháp luật về CBTT trên TTCK các nước đều yêu cầu việc CBTT của các tổ
chức phát hành tập trung vào các dạng thông tin: thông tin định kỳ, thông tin bất
thường, thông tin theo yêu cầu, quy định này không ngoài mục đích giúp cho nhà
đầu tư, cơ quan quản lý theo sát được diễn biến hoạt động của tổ chức niêm yết, kịp
thời phát hiện các thông tin sai lệch, xử lý kịp thời các hành vi trục lợi/vi phạm
pháp luật về CBTT để tránh các thiệt hại có thể phát sinh. Loại thông tin yêu cầu
phải công khai hoá và mức độ công khai hoá có thể khác nhau giữa các quốc gia và
vùng lãnh thổ. Nhưng nhìn chung, xét về khung quản trị tốt, thì thông tin về các vấn
đề sau đây nên được công khai hoá: i) Thông tin về sứ mạng và mục tiêu của công

19

ty; ii) Thông tin về sở hữu và quyền biểu quyết; iii) Thông tin về tình hình tài chính
và kết quả kinh doanh của công ty; iv) Thông tin về Hội đồng quản trị; v) Thông tin
về các giao dịch đối với các bên liên quan [8, tr 15-18].
Ba là, hoạt động CBTT gắn liền với thẩm quyền của các chủ thể nhất định.
Công ty là một thực thể nhân tạo, nên tự nó không thể thực hiện được các hoạt động
mà phải thông qua người đại diện có thẩm quyền. Người đại diện có thẩm quyền sẽ
là người thay mặt cho công ty công bố các thông tin. Phạm vi quyền được công bố
những thông tin nhất định do pháp luật và Điều lệ công ty quy định. Chỉ những
thông tin của người có thẩm quyền công bố mới được coi là nguồn thông tin chính
thức của công ty và công ty chỉ phải chịu trách nhiệm về các thông tin do người có
thẩm quyền của mình công bố.
Đặc điểm này đưa đến một khuyến cáo đối với nhà đầu tư khi tiến hành tìm hiểu
về thông tin được một công ty công bố là xem xét thông tin đó có phải do các chủ
thể có thẩm quyền công bố hay không, nhất là các thông tin về tình hình tài chính,
như bảng cân đối tài sản, quyết toán lỗ và lãi, bảng lưu chuyển dòng tiền và giải
trình về báo cáo tài chính. Vì đây là các thông tin được sử dụng nhiều nhất, là các
thông tin “cứng”, thông tin chuẩn mực cho phép các nhà đầu tư đánh giá giá trị của
công ty theo đúng những gì đã diễn ra trong quá khứ; hoặc cho phép nhà đầu tư ước
tính được giá trị giải thể công ty theo cách các tài sản của công ty được bán một
cách đơn lẻ; tạo điều kiện cho các bên có liên quan có thể giám sát theo có chế thị
trường đối với công ty; đồng thời, đó cũng là cơ sở để xác định trị giá công ty [8,
15-18].
c) Vai trò của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc kiểm soát việc
công bố thông tin trên thị trường chứng khoán
Tổ chức quốc tế của các UBCKNN (International Organization of Securities
Commissions - IOSCO) đã chỉ rõ mục tiêu của hoạt động quản lý TTCK phải bảo
đảm: Bảo vệ người đầu tư; Đảm bảo thị trường công bằng, hiệu quả và minh bạch;
và giảm thiểu rủi ro hệ thống. Thực hiện được mục tiêu này, cơ quan quản lý TTCK
còn rất nhiều việc phải làm và phải nỗ lực trong thời gian dài. Một thị trường mới


20
nổi như TTCK Việt Nam còn thiếu nhiều yếu tố; cung cách quản lý, vận hành
TTCK vẫn còn mang nặng tính chất hành chính can thiệp; sức ép của việc thực thi
các cam kết quốc tế về mở của TTCK rất lớn. Do đó, nâng cao vai trò của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc kiểm soát hoạt động CBTT trên TTCK là
vấn đề cấp thiết.
Thông qua hoạt động kiểm soát việc CBTT: i) Cơ quan quản lý nhà nước kiểm
soát được mức độ tuân thủ pháp luật về CBTT của các chủ thể, trên cơ sở đó từng
bước thiết lập được hệ thống thông tin thông suốt của thị trường; ii) Phát hiện và
ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về CBTT; kịp thời có các biện
pháp cùng với doanh nghiệp ứng phó với “sự cố tin đồn” liên quan đến hoạt động
của công ty; iii) Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của pháp luật về CBTT và gián tiếp
nâng cao ý thức pháp luật cho các chủ thể CBTT.
Vai trò của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động CBTT trên
TTCK được thể hiện ở các khía cạnh sau [11]:
Thứ nhất, các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xây dựng hệ thống
thông tin cần công bố qua các thời kỳ phù hợp với đặc điểm phát triển của thị
trường và tuân theo các quy luật đặc thù của thị trường. Thông tin trên thị trường
luôn luôn biến động theo những diễn biến của thị trường. Các thông tin đó ngay lập
tức ảnh hưởng đến hoạt động thị trường, như những biến động của chỉ số giá chứng
khoán, các thông tin liên quan đến người quản trị, các vụ vi phạm pháp luật chứng
khoán, các thông tin liên quan đến cơ chế, chính sách… Do đó, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cần xây dựng hệ thống các thông tin mà các chủ thể cần phải
công bố, nhất là các thông tin có ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư. Các
thông tin phải công bố yêu cầu phải rõ ràng và cụ thể, tránh tình trạng thông tin cần
thì không có mà thông tin không cần thiết lại tràn lan.
Thứ hai, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cùng với các doanh nghiệp xây
dựng hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động CBTT. Hệ thống cơ sở vật chất
phục vụ cho hoạt động CBTT của các chủ thể là rất qua trọng. Chỉ khi xây dựng


21
được hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, đủ sức đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu của
nhà đầu tư thì tạo được tiền đề chi tính minh bạch trên TTCK.
Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, việc xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục
vụ hoạt động công bố thông tin cũng được quan tâm. Việc nâng cấp cơ sở hạ tầng
kỹ thuật và công nghệ kỹ thuật và công nghệ sử dụng trong hệ thống CBTT được
hết sức trú trọng, điển hình là mô hình hệ thống CBTT số hoá tại Sở GDCK Osaka.
Chỉ vài năm trước, các công ty niêm yết (CtyNY) trên SGDCK Osaka nộp thông tin
công bố (ví dụ các báo cáo tài chính cuối năm) cho SGDCK Osaka dưới dạng văn
bản. Đó là do mỗi công ty có cách thức xử lý thông tin số hoá riêng của mình, sử
dụng các công cụ biên tập khác nhau và chỉ duy nhất dưới dạng văn bản là hình
thức chung nhất cho mọi công ty. Tại SGDCK Osaka, thông tin công bố sau đó sẽ
được nhập thủ công vào hệ thống trước khi thực hiện các công việc xử lý dữ liệu
khác (ví dụ lưu trữ, xử lý và phân phối). Đồng thời, những dữ liệu này sau đó cũng
phải kiểm tra, phát hiện lỗi một cách thủ công. Phương pháp này có nhược điểm là:
Kiểm tra lỗi và nhập dữ liệu tốn nhiều nhân lực và công sức; mất nhiều thời giờ mới
có thể công bố ra các phương tiện thông tin đại chúng và cho nhà đầu tư. Vì vậy,
SGDCK Osaka đã xúc tiến áp dụng công nghệ thông tin một cách nhanh chóng và
chủ động với kết quả là việc đưa vào áp dụng hệ thống CBTT số hoá [14].
Thực tiễn ở nước ta, hệ thống công nghệ thông tin chưa đáp ứng được các yêu
cầu của việc cập nhật thông tin cần thiết; hệ thống thông tin đại chúng chưa được
quản lý chặt chẽ, nên các thông tin đến được nhà đầu tư cũng đã bị biến đổi rất
nhiều; các giao dịch nội gián, bán thông tin vẫn còn diễn ra rất phổ biến Do đó,
việc quản lý và nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc CBTT là hết sức cần thiết
để giảm thiểu các rủi ro cho nhà đầu tư và tạo thuận lợi cho việc quản lý nhà nước
về chứng khoán và TTCK.
Thứ ba, thực hiện việc giám sát thị trường thông qua việc xây dựng cơ chế,
chính sách, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về CBTT trên TTCK. Đây là nhiệm
vụ mà chỉ có cơ quan quản lý nhà nước mới có thể thực hiện được. Hệ thống cơ chế
chính sách phù hợp với thị trường góp phần rất lớn vào việc thúc đẩy thị trường


22
phát triển và ngược lại. Một thị trường mới nổi như Việt Nam ngoài những đặc
điểm chung như các thị trường khác thì bản thân nó cũng có những điểm đặc thù,
như thường xuyên biến động, dễ bị tổn thương trước các thông tin thị trường, luôn
trong quá trình tự hoàn thiện… Tất cả các đặc thù đó tác động trực tiếp đến việc
điều chỉnh pháp luật trên TTCK cũng như việc xây dựng pháp luật về TTCK. Việc
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về CBTT trên TTCK một mặt có tác dụng răn
đe đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật; mặt khác thông qua việc xử lý
nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về CBTT trên TTCK giúp cho thị
trường và nhà đầu tư “lưu ý” đối với các công ty thường xuyên vi phạm pháp luật
về CBTT.
1.1.2. Nguồn thông tin và chất lƣợng thông tin trên thị trƣờng chứng khoán
1.1.2.1. Nguồn thông tin trên thị trường chứng khoán
Hệ thống thông tin của TTCK là những chỉ tiêu, tư liệu phản ánh bức tranh của
TTCK và tình hình kinh tế, chính trị, xã hội liên quan tại những thời điểm hoặc thời
kỳ khác nhau. Hệ thống thông tin của TTCK rất đa dạng, phong phú và có nhiều
cách thức khác nhau để phân loại nguồn thông tin trên TTCK [3, tr 442-444]. Thông
tin trên TTCK rất đa dạng, do nhiều chủ thể khác nhau công bố. Mỗi loại thông tin
do các chủ thể công bố có ưu điểm, nhược điểm nhất định.
a) Thông tin từ tổ chức niêm yết
Đây là nguồn thông tin cơ bản, quan trọng nhất đối với TTCK. Là các tổ chức
có chứng khoán đăng ký giao dịch tại Trung tâm/Sở GDCK, các tổ chức này phải
thực hiện việc CBTT theo quy định của pháp luật. Các thông tin của tổ chức niêm
yết phải do đại diện có thẩm quyền công bố.
Thông tin của tổ chức niêm yết có những ưu điểm cơ bản sau đây:
Một là, những thông tin này phản ánh chính xác diễn biến tình hình hoạt động
của tổ chức niêm yết, nhất là các thông tin liên quan đến tình hình tài chính của tổ
chức này. Thông qua các thông tin của tổ chức này, nhà đầu tư cũng như cơ quan
quản lý thấy được tình hình hoạt động thực tiễn của tổ chức niêm yết để đưa ra

quyết định quản lý hay quyết định đầu tư;

23
Hai là, thông tin của tổ chức niêm yết rõ ràng, chi tiết và có độ tin cậy cao. Báo
cáo tài chính của tổ chức niêm yết đã được tổ chức kiểm toán độc lập tiến hành
kiểm toán và tổ chức kiểm toán phải chịu trách nhiệm trước kết luận kiểm toán của
mình. Khi chuẩn bị niêm yết chứng khoán, tổ chức niêm yết phải công bố bản cáo
bạch, trong đó phản ánh rất nhiều các thông tin liên quan đến tổ chức phát hành;
Ba là, thông tin của tổ chức niêm yết có thể cập nhật nhanh các diễn biến của tổ
chức niêm yết, nhất là các diễn biến liên quan đến hoạt động của tổ chức này. Hệ
thống thông tin của tổ chức niêm yết nếu không được công bố thì sẽ vẫn chỉ là
“thông tin nội bộ”. Tuy vậy, để kiểm soát tình trạng lạm quyền của người quản trị,
pháp luật yêu cầu tổ chức niêm yết phải CBTT một cách kịp thời, nhất là các thông
tin bất thường, thông tin liên quan đến các giao dịch của cổ đông lớn. Khi các thông
tin được tổ chức niêm yết công bố các nguồn thông tin các mới có điều kiện tiếp cận
và phân tích thông tin do tổ chức niêm yết công bố.
Tuy nhiên, nguồn thông tin từ tổ chức niêm yết có hạn chế là:
- Nhà đầu tư khó tiếp cận được ngay các thông tin;
- Dễ làm lộ bí mật kinh doanh của tổ chức niêm yết;
- Nhà quản trị thường lạm dụng quyền của mình để cản trở việc CBTT ra các
phương tiện thông tin đại chúng.
b) Thông tin từ tổ chức kinh doanh chứng khoán
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các tổ chức kinh doanh chứng khoán
bao gồm: Công ty chứng khoán và các Quỹ đầu tư chứng khoán. Để thực hiện được
các hoạt động kinh doanh, tổ chức kinh doanh chứng khoán cũng phải công bố các
thông tin có liên quan đến hoạt động của mình, như số tài khoản được mở; số dư
chứng khoán và tiền mặt; tình hình giao dịch của các tài khoản; các giao dịch lô lớn,
tình hình mua bán, ký quỹ chứng khoán… Nếu do nhu cầu quản lý thì cơ quan quản
lý như Trung tâm/Sở GDCK, UBCKNN có thể yêu cầu các đơn vị này báo cáo chi
tiết hơn ở một số ngày giao dịch, hoặc tình hình giao dịch, số dư tài khoản của một

số khách hàng [3, tr 446].

24
Như vậy, ưu điểm của thông tin do tổ chức kinh doanh chứng khoán cung cấp
là:
- Giúp cho những người có liên quan thấy được diễn biến trên TTCK qua các
giai đoạn, phục vụ tốt cho việc quản lý, phân tích đánh giá và đầu tư chứng khoán;
- Thông tin do các tổ chức này cung cấp có tính hệ thống, logic và có thể tiếp
cận theo từng nội dung mà mình quan tâm, và trong những trường hợp cần thiết có
thể được cung cấp dịch vụ tư vấn theo yêu cầu;
- Thông qua hệ thống thông tin của các tổ chức kinh doanh chứng khoán, có thể
thấy được số lượng nhà đầu tư tham gia kinh doanh chứng khoán và tình hình thực
hiện các GDCK. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nhà quản lý nhằm
kiểm soát các giao dịch của các chủ thể tham gia TTCK.
Mặc dù vậy, thông tin của tổ chức kinh doanh chứng khoán có hạn chế là:
- Việc cung cấp thông tin bị chi phối bởi yếu tố lợi ích là rất lớn. Nếu cung cấp
thông tin đầy đủ thì có nguy cơ xâm phạm đến quyền lợi của nhà đầu tư và quyền
lợi khách hàng;
- Yêu cầu giữ bí mật về các thông tin liên đến nhà đầu tư (trừ các thông tin phải
công bố theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) nên các tổ chức này
thường rất thận trọng trong việc CBTT, nhất là các thông tin về khối lượng giao
dịch của khách hàng.
c) Thông tin từ thực tiễn giao dịch trên thị trường
Thông tin thị trường do Trung tâm/Sở GDCK cung cấp, bao gồm các thông tin
về loại chứng khoán, thông tin về GDCK, thông tin về quản lý giao dịch và quy chế,
nguyên tắc GDCK. Thông tin này thường xuyên thay đổi và thường xuyên được cập
nhật và thường được công bố trên tờ thông tin chứng khoán [3, tr 446-447].
Các thông tin này theo sát diễn biến hoạt động của thị trường, đây là nguồn
đáng tin cậy cho các nhà đầu tư chứng khoán. Do theo sát được các diễn biến của
thị trường, nên Trung tâm/Sở GDCK có thể đưa ra những khuyến cáo cho nhà đầu

tư về những diễn biến bất lợi, hoặc cảnh báo nhà đầu tư cần lưu ý những gì liên
quan đến các thông tin được công bố.

×