Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Hoàn thiện pháp luật về sử dụng người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao trong Bộ Luật Lao động Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
--------

GIÀ BÁ LẦU

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGƢỜI
CĨ TRÌNH ĐỘ CHUN MƠN, KỸ THUẬT CAO
TRONG BỘ LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ. Nguyễn Vũ Hoàng

HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................... Error! Bookmark not defined.
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 2
3. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 3
4. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 4
6. Tình hình nghiên cứu về đề tài này tại Việt Nam ........................................ 4
7. Bố cục của Luận văn .................................................................................. 6
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HỒN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGƢỜI CĨ TRÌNH ĐỘ CHUN MƠN, KỸ


THUẬT CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................. 7
1.1. Khái niệm ngƣời có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao ..................... 7
1.1.1. Lịch sử lập pháp về người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao ...... 7
1.1.2. Khái niệm người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao .................. 14
1.2. Cơ sở lí luận về hoàn thiện pháp luật về sử dụng ngƣời có trình
độ chun mơn, kỹ thuật cao ..................................................................... 15
1.2.1. Q trình hình thành, phát triển của pháp luật về sử dụng lao
động và sử dụng lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao .............. 15
1.2.2. Pháp luật về sử dụng lao động có trình độ chun mơn, kỹ thuật
cao có bằng cấp, chứng chỉ ....................................................................... 19
1.2.3. Pháp luật về sử dụng lao động có trình độ chun mơn, kỹ thuật
cao là Nghệ nhân ...................................................................................... 21
1.2.4. Pháp luật về sử dụng lao động có trình độ chun mơn, kỹ thuật
cao có nhiều kinh nghiệm và thâm niên trong nghề nghiệp ...................... 22
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về sử dụng ngƣời có trình độ chun mơn,
kỹ thuật cao ................................................................................................ 25


1.3.1. Chính sách và pháp luật các nước về sử dụng lao động có trình
độ chun mơn, kỹ thuật cao .................................................................... 25
1.4. Đánh giá, nhận xét chính sách và pháp luật các nƣớc về sử dụng
ngƣời có trình độ chun môn, kỹ thuật cao và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam .............................................................................................. 31
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGƢỜI
CĨ TRÌNH ĐỘ CHUN MƠN, KỸ THUẬT CAO TRONG BỘ
LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................... 34
2.1. Thực trạng ngƣời có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao ở Việt
Nam hiện nay .............................................................................................. 34
2.1.1. Thực trạng sử dụng người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao
ở Việt Nam hiện nay ................................................................................ 35

2.2. Xu hƣớng phát triển ngƣời có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao
ở Việt Nam hiện nay ................................................................................... 50
2.3. Thực trạng và phân tích thực trạng pháp luật về sử dụng ngƣời
có trình độ chun môn, kỹ thuật cao ở Việt Nam hiện nay .................... 53
2.3.1. Thực trạng pháp luật về sử dụng người có trình độ chun mơn,
kỹ thuật cao trong Bộ luật Lao động hiện nay .......................................... 53
2.3.2. Thực trạng pháp luật về sử dụng lao động có trình độ chun
mơn, kỹ thuật cao, có bằng cấp, chứng chỉ ............................................... 61
2.3.3. Thực trạng và phân tích thực trạng pháp luật về sử dụng người có
trình độ chun mơn, kỹ thuật cao là Nghệ nhân ...................................... 65
2.3.4. Thực trạng và phân tích thực trạng pháp luật về sử dụng lao động
có trình độ cao có nhiều kinh nghiệm và thâm niên trong nghề nghiệp ..... 80
2.4. Đánh giá tổng quát những kết quả đạt đƣợc và những hạn chế,
yếu kém trong quy định, thực hiện pháp luật về sử dụng lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, nguyên nhân và những bài học
kinh nghiệm ................................................................................................ 87


2.4.1. Những kết quả đã đạt được về quy định, thực thi pháp luật về sử
dụng người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao ở Việt Nam hiện nay ... 87
2.4.2. Những hạn chế, yếu kém và các nhân tố ảnh hưởng đến việc quy định,
thực thi pháp luật về sử dụng người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao..........89
2.4.3. Bài học kinh nghiệm từ những quy định, thực thi pháp luật về sử
dụng người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao .................................... 93
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HỒN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGƢỜI CĨ TRÌNH ĐỘ CHUN MƠN,
KỸ THUẬT CAO TRONG BỘ LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
HIỆN NAY.................................................................................................. 94
3.1. Định hƣớng và mục tiêu hồn thiện pháp luật lao động về sử
dụng ngƣời có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao ................................... 94

3.2. Các giải pháp về lí luận ....................................................................... 96
3.2.1. Cần quan tâm hơn nữa vấn đề sử dụng người có trình độ chuyên
môn, kỹ thuật cao ..................................................................................... 96
3.2.2. Đề xuất khung pháp lý về sử dụng người có trình độ chun
mơn, kỹ thuật cao ....................................................................................97
3.2.3. Để chống chảy máu chất xám cần có những chính sách, giải pháp
cụ thể để giữ chân người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao .............. 108
3.3. Các giải pháp về thực tiễn ................................................................. 110
3.3.1. Tổ chức triển khai thực hiện những quy định của pháp luật về sử
dụng người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao một cách có hiệu quả 110
3.3.2. Bảo đảm việc thực hiện pháp luật về sử dụng người có trình độ
chun mơn, kỹ thuật cao cơng bằng, bình đẳng, nhất quán, nghiêm
minh, công khai và minh bạch ................................................................ 112
KẾT LUẬN ............................................................................................... 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 117


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
ADB
BCC
BHXH
BLLĐ

Tiếng Anh
Asian Development Bank

BLĐ - TB - XH
BNN

CNC
DN
DN FDI

Foreign Direct Investment

Chữ viết đầy đủ tiếng Việt
Ngân hàng phát triển châu Á
Bộ Công Nghiệp
Bảo hiểm xã hội
Bộ luật lao động
Bộ lao động – Thương binh và
Xã hội
Bộ Nông Nghiệp
Công nghệ cao
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp của
nước ngoài.

HĐND

Hội đồng nhân dân

KCN-KCX

NĐ – CP

Khu cơng nghiệp – khu chế xuất
Lao động
Nghị định Chính phủ


NNND

Nghệ nhân nhân dân

NIDEC

Nidec Corporation

Tập đoàn Nidec

NNƯT

Nghệ nhân ưu tú

UBND

Uỷ ban nhân dân

UNESCO

United Nations Educational,
Scientific and Cultural
Organization.

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
Văn hoá của Liên Hợp Quốc.

VBQPPL


Văn bản quy phạm pháp luật

SGD

Đô la Singapore

XH

Xã hội

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

WB

World Bank

Ngân hàng thế giới


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, tồn Đảng, tồn dân đang tích cực thực hiện mục tiêu cơng
cuộc, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với các chính sách mở cửa và
hội nhập quốc tế cả về kinh tế lẫn chính trị…cùng với phân cơng lao động
ngày càng sâu sắc và toàn diện giữa nước ta với thế giới, trong môi trường
cạnh tranh nhiều lĩnh vực gay gắt này, Đảng, Nhà nước ta cũng đã xác định
rõ: Phát hiện, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực nói chung, người có trình độ
chun mơn, kỹ thuật cao nói riêng là chính sách cấp thiết, nó mang tầm vóc

mới, là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh, để đưa nước ta đuổi kịp các nước
có nền kinh tế, chính trị phát triển trong khu vực và thế giới, đây vừa là mục
tiêu, vừa là động lực để thực hiện cơng cuộc cách mạng to lớn cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước đối với phát triển xã hội của nước ta.
Để sớm đưa nước ta trở thành nước cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm
thốt khỏi các nước đang phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu,
chúng ta còn nhiều việc phải làm, một trong những công việc quan trọng, cấp
thiết hiện nay là phải có hệ thống chính sách pháp lý trong việc phát hiện, đào
tạo và sử dụng người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao bởi vì đây là nhân
tố quan trọng cho sự thịnh vượng của đất nước, quyết định cho sự thành cơng,
như ơng cha ta từng nói; “đào tạo và sử dụng con người như thế nào thì sẽ có
một đất nước, xã tắc như vậy”.
Như vậy, việc xem xét, nghiên cứu nguồn nhân lực nói chung, người có
trình độ chun mơn, kỹ thuật cao để góp phần thực hiện thành cơng sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển xã hội nước ta là hồn tồn
cần thiết và có ý nghĩa cả khoa học lẫn thực tiễn to lớn.
Bởi những lí do trên, hiện nay, Đảng và Nhà nước đang quan tâm đến

1


vấn đề giáo dục, với mong muốn nước ta sớm có được một nền giáo dục tiên
tiến, đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của đất nước. Thực tế, cho
thấy trong những năm qua nước ta đã đạt được nhiều thành tựu trong giáo dục
và đào tạo, đặc biệt đội ngũ lao động có trình độ cao đã tăng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, chỉ có đội ngũ lao động có trình độ chun mơn, kỹ thuật
cao thì vẫn chưa đủ, vấn đề đặt ra là chính sách sử dụng đội ngũ này như thế
nào cho phù hợp, làm thế nào để phát huy tối đa khả năng của họ.
Hiện nay, quy định của pháp luật về sử dụng người có trình độ chun
mơn, kỹ thuật cao cịn ít, tại Bộ luật lao động năm 1994, đã được sửa đổi, bổ

sung vào các năm 2002, 2006, 2007 và 2012 thì chỉ quy định vọn vẹn hai
Điều Luật, ngồi ra các văn bản về sử dụng người có trình độ chuyên môn, kỹ
thuật cao rất hạn chế, nằm rải rác ở các các Nghị định, Thông Tư, quyết định
của các cấp...Điều này ảnh hưởng đến việc tuyển dụng, sử dụng những người
này ở nước ta, chưa khuyến khích, phát huy trình độ chun mơn của họ phục
vụ đất nước.
Trong khi chưa có quy phạm pháp luật quy định rõ ràng, thống nhất về
vấn đề này, nhưng thực tiễn nhu cầu sử dụng nhóm người này là cấp thiết,
điều này địi hỏi phải có các văn bản quy phạm pháp luật, dưới luật quy định
cho nhóm người này để có khung pháp lý phù hợp, vững chắc, trong việc phát
hiện, đào tạo, tuyển dụng, ưu tiên, khuyến khích, sử dụng người có trình độ
chun mơn, kỹ thuật cao một cách có hiệu quả. Vì vậy, tơi đã chọn đề tài:
Hồn thiện pháp luật về sử dụng người có trình độ chun môn, kỹ thuật
cao trong Bộ luật Lao động Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
a. Mục đích tổng quát
- Mục tiêu tổng quát của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu thực trạng
người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, pháp luật về sử dụng người có

2


trình độ chun mơn, kỹ thuật cao ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất các giải
pháp pháp lý cho việc phát hiện, đào tạo, tuyển dụng và sử dụng người có
trình độ chun mơn, kỹ thuật cao nhằm góp phần việc hồn thiện pháp luật
lao động nói riêng, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và đảm bảo quyền
lợi, lợi ích chính đáng cho người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao.
b. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ nội dung về người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao,
pháp luật về người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao trong Bộ luật lao

động Việt Nam hiện nay.
- Phân tích các vấn đề thực tiễn pháp luật về sử dụng người có trình độ
chun mơn, kỹ thuật cao trong Bộ luật Lao động Việt Nam hiện nay, phân
tích những hạn chế trong Bộ luật Lao động hiện nay và chỉ ra các nguyên
nhân dẫn đến những hạn chế đó.
- Kiến nghị các phương hướng, các biện pháp pháp lý hữu hiệu để giải
quyết tốt các vấn đề về phát hiện, đào tạo, sử dụng người có trình độ chun
mơn, kỹ thuật cao.
- Đề xuất về hồn thiện pháp luật làm cơng cụ để có chính sách phù
hợp cho người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao, bảo đảm việc sử dụng
đúng vị trí, đúng trình độ chun mơn, kỹ thuật cao để phát huy tối đa khả
năng của họ.
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về việc hoàn thiện pháp luật về sử dụng
người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao trong Bộ luật Lao động Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao trong Bộ luật lao động
Việt Nam hiện nay.

3


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, phương
pháp liệt kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp phân
tích và phương pháp thực chứng để phân tích làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu
và đưa ra các giải pháp hoàn thiện.
Cụ thể, phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác –

Lênin và phương pháp thực chứng được tác giả sử dụng cả ba chương của
Luận văn, từ thực trạng về người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao,
pháp luật quy định cho nhóm người này, phân tích mỗi quan hệ biện
chứng giữa nhu cầu thực tiễn xã hội sử dụng người có trình độ chun
mơn và thực trạng người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao, quy định
của pháp luật về nhóm người này.
Phương pháp liệt kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích và
phương pháp so sánh được tác giả sử dụng ở chương 1 và chương 2, tác giả
đã liệt kê các văn bản quy định về người có trình độ chun mơn, kỹ thuật
cao, liệt kê một số chính sách cho người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao
ở một số nước trên thế giới rồi tổng hợp, phân tích và so sánh với pháp luật
hiện nay ở nước ta, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật về
sử dụng người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao ở Việt Nam hiện nay.
6. Tình hình nghiên cứu về đề tài này tại Việt Nam
Theo tìm hiểu của Tác giả trước và khi Luận văn này được thực hiện đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu về đối tượng người có trình độ nhưng chủ yếu
là nói về nhân lực, nhân tài, cịn riêng về người có trình độ chun mơn, kỹ
thuật cao thì cịn hạn chế, sau đây là một số nghiên cứu về nhân tài, nhân lực,
người có trình độ cao.
1) Nguyễn văn Hậu: “Một số giải pháp nhằm thu hút người có trình độ
cao vào tỉnh Khánh Hòa”, năm 2011, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành kinh tế,
trong luận văn này tác giả đã đưa ra khái niệm về nguồn nhân lực, khái niệm

4


về người có trình độ cao, các chính sách nhằm thu hút người có trình độ cao
vào làm việc tại tỉnh Khánh Hòa.
2) Nguyễn Thanh Trà: “Phát triển nguồn nhân lực Thông tin - Thư viện
của mạng lưới các trường đại học tại Hà Nội” năm 2010: Luận văn ThS. Về

lĩnh vực cơng nghệ thơng tin. Luận văn này tóm tắt vấn đề nhân lực Thông tin
– Thư viện, và tính cất thiết đào tạo, sử dụng người có trình độ cao trong hoạt
động quản lí Thơng tin – Thư viện tại các trường Đại học tại Hà Nội hiện nay.
3) Diệp Văn Sơn: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”. Tạp chí về
Tổ chức nhà nước. Số 9/2011, trong cơng trình nghiên cứu này tác giả nêu
mục tiêu phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020. Đồng thời đưa ra các giải
pháp thực hiện mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, và các giải
pháp góp phần nâng cao nguồn nhân lực chất lượng cao.
4) Nguyễn Minh Phương: “Một số giải pháp phát hiện và sử dụng nhân
tài ở nước ta hiện nay”. Tạp chí về Tổ chức nhà nước. Số 4/2010, trong bài
viết này tác giả nêu vấn đề thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay, tính
cấp thiết phải có các chính sách, biện pháp nhằm phát hiện và sử dụng nhân
tài một cách có hiệu quả nhất.
5) Văn Tất Thu: “Nhân tài và những vấn đề cơ bản trong sử dụng, trọng
dụng nhân tài”. Tạp chí về Tổ chức cán bộ. Số 1/2011. Trong bài viết này, tác
giả có đưa ra khái niệm nhân tài, và những điều cơ bản nhất cần như. Khuyến
khích, ưu đãi trong phát hiện, tuyển dụng và sử dụng nhân tài.
6) Nguyễn Đắc Hưng: “Phát triển nhân tài chấn hưng đất nước”. NXB
Chính trị quốc gia, 2007; Cuốn sách chỉ tập trung giới thiệu về những phẩm
chất cần có của nhân tài; kinh nghiệm đào tạo, sử dụng nhân tài của cha ông ta
và một số quốc gia trên thế giới; những nội dung cơ bản về phát triển nhân tài.
7) Lưu Hải Đăng: “Thu hút và sử dụng nhân tài ở Xin - Ga - Po bài học
nào cho Việt Nam”. Tạp chí Quản lý nhà nước. Học viện Hành Chính – Học
viện chính trị - Hành chính quốc gia. Số 178 (11/2010), bài viết nói về chính

5


sách sử dụng người tài ở Singapo, từ đó tác giả đặt ra vấn đề cho Việt Nam
hiện tại và tương lai về vấn đề đào tạo, tuyển dụng và sử dụng nhân tài.

8) Ngô Thành Can. “Tuyển chọn, bồi dưỡng người tài năng cho cơng
vụ”. Tạp chí Tổ chức nhà nước. Số 11/2010. Bài viết nói về thực tiễn và đưa
ra các giải pháp về nâng cao cách thức tuyển chọn và bồi dưỡng người có tài
năng trong hoạt động của các cơ quan nhà nước trong xu thế hội nhập.
9) Trần Thị Thanh Thuỷ. “Lợi ích của hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi
dưỡng công chức hiện nay”. Tạp chí Tổ chức nhà nước. Số 12/2010. Trong bài
viết này, tác giả đã phân tích về lợi ích lâu dài trong hợp tác quốc tế về đào tạo
– bồi dưỡng cán bộ, công chức hiện nay và xu hướng trong tương lai.
Vậy, các cơng trình trên đã nêu được một số tính cấp thiết trong việc
phát hiện, tuyển dụng, sử dụng người có trình độ, góp phần trong việc quan
tâm, nâng cao nhân thức của xã hội đối với nhóm người này. Nhưng các
nghiên cứu chưa nó nói nhiều về người có trình độ chun mơn, kỹ thuật
cao, Luận văn của Tác giả tập trung vào vấn đề: Hồn thiện pháp luật về sử
dụng người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao trong Bộ luật Lao động
Việt Nam hiện nay.
7. Bố cục của Luận văn
Luận văn của Tác giả bao gồm các phần sau đây:
Phần mở đầu
Chương 1. Những vấn đề lí luận về hồn thiện pháp luật về sử dụng
người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao trong luật Lao động Việt Nam
hiện nay
Chương 2. Thực trạng pháp luật về sử dụng người có trình độ chuyên
môn, kỹ thuật cao trong bộ Luật Lao động Việt Nam hiện nay
Chương 3. Các giải pháp về hoàn thiện pháp luật về sử dụng người có
trình độ chun môn, kỹ thuật cao trong Bộ luật Lao động Việt Nam hiện nay
Kết Luận.

6



CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
SỬ DỤNG NGƢỜI CĨ TRÌNH ĐỘ CHUN MƠN, KỸ THUẬT CAO
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm ngƣời có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao
1.1.1. Lịch sử lập pháp về người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao
Sau khi nước ta giành độc lập, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều
văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh chế độ còn non yếu lúc bấy giờ,
trong đó quan trọng nhất là Hiến pháp năm 1946, đây là bản hiến pháp đầu
tiên của nước ta, trong đó quy định các thể chế chính trị, kinh tế, xã hội, các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó, có chế định về quyền lao
động. Đây được coi là văn bản làm tiền đề cho tất cả các ngành Luật nước ta
sau này nói chung và Luật lao động nói riêng.
Trong khoảng thời gian này đã có nhiều văn bản quy định về tuyển
dụng, sử dụng lao động, tuy nhiên, chưa nói đến lao động là người có trình độ
cao, đến năm 1994 khi Bộ luật Lao động ra đời thì người lao động có trình độ
chuyên môn, kỹ thuật cao mới lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật.
- Thuật ngữ về người lao động có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao
Trước khi Bộ luật Lao động năm 1994 được ban hành, thì chưa có một
thuật ngữ trong văn bản pháp luật về người có trình độ chun mơn, kỹ thuật
cao, khi Bộ luật được ban hành thì thuật ngữ người có trình độ chuyên môn,
kỹ thuật cao lần đầu tiên được quy định tại Điều 129 và 130, tuy nhiên, Điều
luật cũng khơng đưa ra một khái niệm nào cho nhóm người người này, mà chỉ
quy định các quyền, nghĩa vụ trong hợp đồng lao động...
- Quan niệm về người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao
Thực tế, đã có một số nghiên cứu nói về nhân lực, nhân tài, về người

7



trình độ cao, tri thức. Tuy nhiên, tiêu chí để xác định người thế nào thì được
gọi là nhân tài, trí thức thì mỗi người đưa ra các quan niệm khác nhau, sau
đây là một số quan niệm.
Quan niệm về nhân tài, theo nhà thơ Lê Đạt thì, “nhân tài là những người
xuất sắc có khả năng bứt phá những đòi hỏi cụ thể và đa dạng của xã hội”.
Theo Nguyễn Văn Hậu, trong Luận văn về “Một số giải pháp nhằm thu
hút người có trình độ cao về làm việc tại tỉnh Khánh Hòa”.Tác giả đưa ra khái
niệm cho nguồn nhân lực như sau. “Nguồn nhân lực là người lao động đang
có việc làm và người lao động trong độ tuổi lao động có nhu cầu nhưng chưa
có việc làm”[37].
Quan điểm về trí thức, theo Từ điển Triết học thì, “Trí thức là tập đồn
người gồm những người làm nghề lao động trí óc”. Giới trí thức bao gồm kỹ
sư, kỹ thuật viên, thầy thuốc, luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo và người làm công tác
khoa học, một bộ phận lớn viên chức”[26] [tr. 598].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiêu chí đầu tiên của người trí thức là
người đó phải có trình độ cử nhân “Một người học xong đại học có thể gọi là
có trí thức” nhưng điều này chưa đủ, mà “muốn thành một người trí thức hồn
tồn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”. Có nghĩa rằng, học
vấn đại học mới chỉ là điều kiện cần, quan trọng là phải sử dụng có hiệu quả
tri thức trong đời sống xã hội, phục vụ dân sinh.
Theo Nghị quyết số 27 - NQ/T.Ư "Về xây dựng đội ngũ trí thức trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Đảng ta quan
niệm rằng “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao
về lĩnh vực chun mơn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo,
truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có
giá trị đối với xã hội” trên là một số quan niệm về trí thức [27].
Theo Quyết định số 532 QĐ/TWĐTN ngày 04/3/2009 của Ban Bí thư

8



Trung ương Đồn thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện dự án Truyền thông
về nâng cao nhận thức của thanh niên và xã hội về học nghề, lập nghiệp thì
người lao động có trình độ chun mơn kỹ thuật cao là “các nhà quản lí, các
chuyên gia, các doanh nhân, các công nhân kỹ thuật bậc cao..”[28].
Theo Nguyễn Văn Hậu, trong Luận văn về “Một số giải pháp nhằm thu
hút người có trình độ cao về làm việc tại tỉnh Khánh Hòa”, tác giả cũng đưa
ra khái niệm về nguồn lao động có trình độ cao như sau.
“ Nguồn lao động có trình độ cao bao gồm những lao động qua đào tạo,
được cấp bằng, chứng chỉ của các bậc đào tạo, có chun mơn kỹ thuật cao;
có kỹ năng lao động giỏi và có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi
nhanh chóng của cơng nghệ sản xuất; đáp ứng những yêu cầu phức tạp của
công việc tương ứng với trình độ được đạo tạo (trừ một số trường hợp đặc
biệt khơng qua đào tạo); có sức khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng vận dụng
sáng tạo những tri thức, những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao
động, sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, có những
đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng và phát triển của mỗi đơn vị nói riêng
và tồn xã hội nói chung”[37].
Từ những quan niệm, quan điểm và những phân tích trên, có nên
hiểu nhân tài, người có trình độ cao, người có chun mơn cao và tri thức
là người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao khơng? hay khác nhau?
Theo tác giả, nhân lực , nhân tài là khái niệm rộng, có thể hiểu nguồn nhân
lực, nhân tài bao gồm cả những người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao
và những người khác như; người lao động bình thường...cịn người có trình
độ chun mơn, kỹ thuật cao phải là người có trình độ chun mơn, kỹ
thuật về một lĩnh vực nhất định.
Trước khi đi làm rõ về khái niệm người có trình độ chun mơn, kỹ
thuật cao, chúng ta cần làm rõ một số vấn đề sau:

9



Một là, Phân biệt trình độ và trình độ chuyên mơn, trình độ và trình độ
kỹ thuật
Trình độ là một mức học vấn nhất định như trình độ trung cấp, trình độ
cao đẳng, trình độ đại học...cịn trình độ chun mơn, trình độ kỹ thuật là trình
độ của một chun ngành nào đó mà người đó đã theo học. Theo luật dạy
nghề năm 2006 thì dạy nghề có ba trình độ đào tạo là sơ cấp nghề, trung cấp
nghề, cao đẳng nghề. Dạy nghề bao gồm dạy nghề chính quy và dạy nghề
thường xuyên [2]. Từ đó giúp ta hiểu được trình độ của một người, đó là
trình độ theo cấp đào tạo, tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng nhiều người chỉ
học qua trung cấp, cao đẳng, nghĩa là họ chưa có bằng đại học nhưng họ vẫn
được gọi là người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao, như cơng nhân 7/7.
Ví dụ, Trình độ học là Đại học Luật nhưng người đó học chuyên ngành
Luật kinh tế, thì trình độ chun mơn của người này là Luật kinh tế, trình độ
là Đại học giao thơng vận tải nhưng người đó học chun ngành kỹ sư cầu
đường thì trình độ kỹ thuật người này là kỹ sư cầu đường...
Hai là, Phân biệt nhân tài và người có trình độ cao
Như đã nói ở trên, có nhiều quan niệm về nhân tài, và nhân tài là một
khái niệm rộng, có thể hiểu nhân tài bao gồm cả người có trình độ cao, nhân
tài khơng nhất thiết phải có bằng cấp, chứng chỉ...miễn là họ có năng lực vượt
trội về một lĩnh vực nhất định, cịn người có trình độ cao là người gửi cho
chúng ta cảm giác về trình độ học vấn, bằng cấp, chứng chỉ cao hoặc những
sản phẩm cao cấp mà người bình thường khơng làm được...
Ví dụ, Một người nơng dân có thể sáng chế được máy cày, máy bơm
nước...trong khi người nơng dân đó khơng hề có bằng cấp; người có trình độ
cao như người học xong đại học đủ điều kiện thi lên Tiến sĩ và học xong tiến
sĩ mặc dù thực thế người này chưa có sản phẩm từ hoạt động thực tế, mà hiện
tại chỉ là bằng tiến sĩ.


10


Ba là, Phân biệt người có trình độ chun mơn và người có trình độ
kỹ thuật
Nhìn chung, giữa trình độ chun mơn, và trình độ kỹ thuật là khơng
khác nhau. Tuy nhiên, tùy theo tính chất của các ngành nghề đào tạo, loại
hình đào tạo mà dùng hai thuật ngữ đó khác nhau.
Ví dụ, Cùng học trường Đại học nhưng người học ngành kiến trúc, khi
tốt nghiệp họ được bằng kiến trúc sư (kỹ sư), kỹ sư điện, kỹ sư cơng nghệ
thơng tin...và người này được gọi là người có trình độ kỹ thuật, cịn người học
ngành tốn và sau khi tốt nghiệp ở lại làm giảng viên người này được gọi là
có trình độ chun mơn là Giảng viên tốn...
Bốn là, Phân biệt giữa trình độ chun mơn, kỹ thuật và trình độ
chun mơn, kỹ thuật cao
Như đã phân tích ở trên, trình độ chun mơn, kỹ thuật là trình độ
chun ngành sâu về một lĩnh vực nào đó, từ đó chúng ta hiểu trình độ
chun mơn, kỹ thuật cao là trình độ chun mơn, kỹ thuật chun sâu hơn
nữa về lĩnh vực đó, nghĩa là một người nào đó được gọi là có chun mơn,
kỹ thuật cao thì người đó phải có trình độ chun mơn, kỹ thuật chuyên sâu
vào một lĩnh vực nào đó thể hiện bằng năng lực thực tế, với bằng cấp hoặc
kinh nghiệm.
Hiện nay, quy định về người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao cịn
hạn chế, có thể thấy ở một số văn bản sau.
Theo Nghị định số 34/2008/NĐ – CP của Chính phủ quy định về tuyển
dụng và quản lí người nước ngồi làm việc tại Việt Nam thì người nước ngồi
có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao là người có trình độ về dịch vụ, kỹ
thuật, gồm kỹ sư hoặc tương đương kỹ sư, nghệ nhân, người có kinh nghiệm
trong nghề nghiệp [9]...để hướng dẫn Nghị định 34 này, Thơng Tư số
08/2008/TT-BLĐTBXH đã được ban hành, theo đó thì “giấy chứng nhận


11


người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao của người nước ngoài là bản sao
bằng đại học, thạc sĩ, tiến sĩ...’’[16].
Từ tinh thần của ba văn bản trên chúng ta hiểu người có trình độ
chun mơn, kỹ thuật cao theo hai khía cạnh.
Thứ nhất: Những người này phải có bằng cấp (kỹ sư hoặc người có
trình độ tương đương kỹ sư trở lên) nghĩa là phải có trình độ học vấn từ đại
học trở lên.
Thứ hai: Những người này khơng cần có bằng cấp “nghệ nhân những
ngành nghề truyền thống và người có nhiều kinh nghiệm trong nghề nghiệp,
trong điều hành sản xuất, kinh doanh và những công việc quản lí” họ cũng có
thể được coi là người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao.
Ví dụ; Luật doanh nghiệp quy định, tại Điều 57 về tiêu chuẩn và điều
kiện làm Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, ngoài các tiêu chuẩn khác thì người
đó “là cá nhân phải sở hữu 10% tổng số vốn điều lệ của công ty hoặc người
đó khơng phải là thành viên, có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế
trong quản trị kinh doanh hoặc trong các ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của
công ty hoặc tiêu chuẩn, điều kiện khác quy định tại Điều lệ công ty”.
Cùng với xu hướng phát triển của thời đại, các mối quan hệ cũng thay
đổi nên các quy phạm pháp luật cũng cần thay đổi cho phù hợp, bởi vậy
Nghị định số 46/2011/NĐ-CP của Chính phủ: Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 34/2008/NĐ-CP về tuyển dụng và quản lý người nước
ngoài làm việc tại Việt Nam đã được ban hành, theo Nghị định sửa đổi, bổ
sung này thì, chứng nhận về trình độ chun mơn, kỹ thuật cao của người
nước ngồi đối với một số nghề, cơng việc có thể thay thế bằng các giấy tờ
sau như “ giấy công nhận là nghệ nhân do cơ quan nước ngoài cấp, bản xác
nhận hoặc giấy phép lao động hoặc hợp đồng lao động xác định có ít nhất 5

năm kinh nghiệm...’’[13].

12


Theo tinh thần của văn bản này về việc công nhận trình độ chun
mơn, kỹ thuật cao, chúng ta ngầm hiểu là người có trình độ chun mơn, kỹ
thuật cao khơng nhất thiết phải có bằng cấp mà chỉ cần chỉ cần chứng từ
chứng nhận là người đó có kinh nghiệm, có khả năng về một lĩnh vực nào đó.
Theo Thông tư liên tịch số 41/2002/TTLT/BNN-BLĐTBXH-BVHTT
của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ lao động – Thương binh và
xã hội, Bộ văn hóa – Thơng tin hướng dẫn tiêu chuẩn, thủ tục xét công
nhận danh hiệu và một số chính sách đối với Nghệ nhân. Thì một trong
nhưng tiêu chuẩn để được xét công nhận là Nghệ nhân là “Là người thợ
giỏi, có trình độ kỹ năng, kỷ xảo; Có tác phẩm đạt trình độ nghệ thuật cao,
đoạt huy chương vàng, huy chương bạc trong các cuộc thi, triển lãm quốc
gia hoặc quốc tế”[17].
Theo tinh thần của một số văn bản trên, một số Tỉnh thành đã ra một số
văn bản quy định, quy chế đối với các Nghệ nhân ở địa phương
Cụ thể, Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Bắc Ninh đã ra Quyết định 82/2009/QĐ
– UBND về ban hành quy chế về tiêu chuẩn, thợ giỏi, Nghệ nhân...thì thợ giỏi
“Là thợ lành nghề, có trình độ kỹ thuật, kỹ xảo nghề nghiệp giỏi, có khả năng
sáng tác mẫu mã đạt trình độ cao mà người thợ bình thường không làm được,
những mẫu mã sản phẩm này được áp dụng rộng rãi trong sản xuất, được thị
trường chấp nhận”[21]...
Theo tác giả Luận văn, thì thợ giỏi cũng phải được gọi là người có trình
độ chun mơn, kỹ thuật cao, có thể họ đã được đào tạo qua trường qua lớp
hoặc chưa qua đào tạo nhưng những sản phẩm của họ không phải ai cũng làm
được và những sản phẩm đó cũng được áp dụng rộng rãi trong cộng đồng.
Căn cứ vào các quy định trên, chúng ta thấy rằng, một người được coi

là có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao khơng có nghĩa là họ có trình độ học
vấn cao, có bằng cấp... mà trong một số trường hợp chỉ cần họ có kinh
nghiệm, có một chuyên mơn đặc biệt nào đó thì cũng có thể được gọi là người
có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao.

13


1.1.2. Khái niệm người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao
Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra quan niệm của mình về người
có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao như sau: Người có trình độ chun
mơn, kỹ thuật cao là người có những kiến thức tổng hợp, kiến thức chuyên
môn kỹ thuật, kiến thức đặc thù cần thiết để họ đảm đương các chức vụ
quản lí, sản xuất, kinh doanh và có sự sáng tạo nhằm đem lại hiệu quả cao
cho xã hội.
Với khái niệm trên cho thấy, một người có trình độ chun mơn, kỹ
thuật cao phải hội tụ đủ nhiều điều kiện, ngoài các điều kiện như sức khỏe,
tuổi tác, tuân thủ chính sách của Đảng, Nhà nước...thì người đó phải có các
điều kiện như; có kiến thức tổng hợp, có kiến thức chuyên mơn kỹ thuật, có
kiến thức đặc thù cần thiết để hồn thành nhiệm vụ.
Như vậy, chúng ta có thể thấy, các đối tượng là người có trình độ
chun mơn, kỹ thuật cao nó sẽ bao gồm cả những người làm trong cơ quan
nhà nước, làm ngồi nhà nước, có thể họ là người lao động hoặc không phải
người lao động...
Người có kiến thức tổng hợp (tổng quát) là kiến thức mà người đó học
tập được từ nhà trường, từ gia đình và xã hội.
Ví dụ, Việt Nam phấn đấu đến năm 2020 để cơ bản trành nước cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa.
- Kiến thức chun mơn của một người là kiến thức chuyên sâu về
một vài lĩnh vực nào đó. Ngày nay, giữa một biển kiến thức đòi hỏi mỗi

người phải lựa chọn cho mình một hướng đi trong nghề nghiệp nhất định,
các kiến thức thu được phải xoay quanh định hướng nghề nghiệp đó.
Người ta nói biết nhiều nghề khơng bằng giỏi một nghề là vì như thế.
Kiến thức chuyên môn sẽ giúp chúng ta giải quyết các vấn đề, giúp ta có
những ý tưởng mới trong nghề nghiệp.

14


Ví dụ, Kiến thức đặc trưng về tài chính, kế tốn, kỹ sư điện...
- Người có kiến thức đặc thù. Kiến thức đặc thù của một người là
những kiến thức người đó phải có để đảm đương cơng việc nhất định đây là
những kiến thức đặc trưng mà người đó đã tham gia hoặc được đào tạo.
- Đảm đương công việc nhất định đó là những cơng việc nhất định
trong thực tiễn mà các u cầu người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao
phải đảm đương, hồn thành nhiệm vụ.
Ví dụ, Cơng việc về thiết kế cơng trình thủy điện, giám đốc điều hành
cơng ty...
- Có tính sáng tạo đem lại hiệu quả cao cho xã hội.
Ví dụ, Nghệ nhân sáng tác các bài hát, sáng tạo các Lễ hội cho phù hợp
với thời đại, có sản phẩm thực tế...
Qua các quy định của pháp luật hiện hành về người có trình độ chun
mơn, kỹ thuật cao, tác giả chia người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao
thành ba nhóm.
Nhóm thứ nhất, Người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao có bằng
cấp, chứng chỉ.
Nhóm thứ hai, Người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao là Nghệ nhân
Nhóm thứ ba, Người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao có nhiều
kinh nghiệm, thâm niên cơng tác trong nghề. Ba nhóm này sẽ được tác giả
làm rõ trong các phần sau.

1.2. Cơ sở lí luận về hồn thiện pháp luật về sử dụng ngƣời có trình độ
chun mơn, kỹ thuật cao
1.2.1. Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về sử dụng lao động
và sử dụng lao động có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao
a. Q trình hình thành và pháp triển Luật lao động Việt Nam
Cách mạng tháng Tám thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân

15


tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên độc lập tự do, nhân dân làm chủ đất nước, là
mốc đánh dấu bước phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước
Việt Nam.Trong hồn cảnh vơ vàn khó khăn, nhiều công việc phải làm nhưng
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ Tịch Hồ Chí Minh, ngay sau đó Quốc hội
nước Việt Nam dân chủ cơng Hịa đã ra đời để thực hiện trọng trách củng cố
nền độc lập, xây dựng đất nước...Quốc hội đã nhanh chóng thơng qua Hiến
Pháp 1946, và nhiều Luật trong đó có Dự án Luật lao động 1946, đây là dự án
Luật làm tiền đề cho các văn bản luật lao động sau này. Cũng trong thời gian
này Chủ tịch nước đã ra Sắc lệnh thành lập Bộ lao động 1946. Đây là cơ quan
có thẩm quyền ban hành, đề xuất ban hành các thông tư về lao động.
Trong khoảng thời gian từ năm 1946 đến năm 1994, đã có nhiều văn
bản quy định về người lao động như: Nghị định Chính Phủ số 195/1946/NĐ –
CP, ban hành điều lệ về kỷ luật lao động trong các xí nghiệp cơ quan nhà
nước, trong Nghị định quy định các Điều lệ cụ thể kỷ luật lao động ở các xí
nghiệp cơ quan nhà nước, theo đó mọi cơng nhân, viên chức nhà nước phải
nghiêm chỉnh chấp hành, không được vi phạm, các thủ trưởng các xí nghiệp,
cơ quan cần lấy điều lệ này làm cơ sở để giáo dục công nhân, viên chức thuộc
quyền mình. Cũng trong thời gian này, Thơng Tư của Bộ lao động – Nội vụ
số 13-LB/TT năm 1966 giải thích và hướng dẫn thi hành Điều lệ về kỷ luật
lao động trong các xí nghiệp, cơ quan nhà nước, trong Thông tư này quy định

rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cơng dân làm việc tại các xí
nghiệp, cơ quan nhà nước. Đến năm 1977, Thông tư số 12-LĐ/TT/ 1977 về
củng cố và tăng cường kỷ luật lao động trong các xí nghiệp, cơ quan nhà
nước, theo văn bản này cũng quy định việc củng cố và tăng cường kỷ luật
trong các xí nghiệp nhà nước. Nhìn chung, trong thời gian này, các văn bản về
luật lao động chủ yếu tập trung vào vấn đề bảo vệ các xí nghiệp nhà nước, cơ
quan nhà nước.

16


Đến 1994 với việc kế thừa và phát triển pháp luật lao động của nước ta
từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Bộ luật lao động của Nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra đời.Từ ngày Bộ luật Lao động (BLLĐ)
có hiệu lực (01/01/1995), một mơi trường pháp lý mới về lao động đã được
thiết lập. Hệ thống các văn bản pháp luật lao động ngày càng được bổ sung,
hồn thiện đã góp phần quan trọng vào việc định hướng chính sách, hướng
dẫn hành động và từng bước thiết lập kỷ cương trên thị trường lao động cũng
như trong hoạt động quản lý nhân lực, đồng thời là những căn cứ pháp lý chủ
yếu để áp dụng giải quyết các tranh chấp lao động, những phát sinh trong quá
trình lao động.
Bộ luật lao động thể chế hoá đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam và cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 về lao động, về sử dụng và quản lý lao động.
Bộ luật lao động bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của
người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng lao động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hồ và ổn
định, góp phần phát huy trí sáng tạo và tài năng của người lao động trí óc và
lao động chân tay, của người quản lý lao động, nhằm đạt năng suất, chất
lượng và tiến bộ xã hội trong lao động, sản xuất, dịch vụ, hiệu quả trong sử

dụng và quản lý lao động, góp phần cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước vì
sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Trải qua 18 năm thực hiện, để thích ứng với những thay đổi của quá
trình phát triển quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, BLLĐ bộc nhiều vấn đề hạn
chế, khơng cịn phù hợp với thời thế, trước tình hình đó để bảo đảm việc điều
chỉnh các quan hệ lao động, cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam, Bộ luật Lao động năm 1994 đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm
2002, 2006, 2007 và 2012.

17


Đi kèm theo BLLĐ trên Chính phủ, Bộ Lao động -Thương binh và Xã
hội, các bộ, ngành hữu quan đã ban hành nhiều Nghị định, Thông tư hướng
dẫn thi hành Bộ luật Lao động, điều này một mặt tạo điều kiện cho việc áp
dụng Bộ luật Lao động vào thực tiễn, mặt khác tạo nên một hệ thống văn bản
pháp luật về lao động cồng kềnh, phức tạp. Điều này xuất phát từ bản thân hệ
thống pháp luật lao động, tuy đã có những văn bản pháp luật có hiệu lực cao
nhưng khơng cụ thể, chi tiết để có thể áp dụng chúng một cách trực tiếp, độc
lập. Ngay BLLĐ đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhưng tính chất “luật
khung” vẫn còn khá rõ nét.
Các văn bản hướng dẫn BLLĐ được giao cho nhiều cơ quan khác nhau
ban hành, lại được ban hành ở những thời điểm khác nhau tạo nên một tổng
thể quy phạm pháp luật (QPPL) về lao động tản mạn, chồng chéo, khó tra
cứu, khó áp dụng đúng trong mối tương quan với cả hệ thống pháp luật.
Như vậy, một thách thức không nhỏ đặt ra hiện nay là hệ thống pháp
luật Việt Nam nói chung và hệ thống pháp luật lao động nói riêng đang tồn tại
rất phức tạp, nhiều tầng nấc, nhiều văn bản có giá trị pháp lý khác nhau. Sự
phức tạp của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) về lao động

khiến cho các nhà lập pháp, các cơ quan thi hành pháp luật lao động, khi
chuẩn bị sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành một văn bản mới, bên cạnh việc đề
xuất, phân tích chính sách cịn phải quan tâm đến việc xây dựng mơ hình văn
bản pháp luật về lao động sao cho thực sự khoa học, hợp lý, hạn chế được
những bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn đang hiện hữu.
b. Pháp luật về người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao theo luật
Lao động Việt Nam
Khi Bộ luật Lao động năm 1994, được ban hành thì pháp luật về sử
dụng người có trình độ chun môn, kỹ thuật cao mới được quy định, tuy
nhiên, cho đến nay các văn bản hướng dẫn quy định này rất hạn chế.

18


Năm 2003 Nghị định 105/2003/NĐ- CP quy định chi tiết thực hiện một
số Điều của Bộ luật lao đông Việt nam về tuyển dụng và quản lí lao động
nước ngồi làm việc tại Việt Nam được ban hành, đến 2008, được thay đổi
bằng Nghị định 34/2008/NĐ – CP, văn bản này cũng được sửa đổi, bổ sung
năm 2011, nhưng đó chỉ là văn bản dưới luật quy định cho người nước ngồi
làm việc tại Việt nam, ngồi ra các Thơng tư của các Bộ, liên Bộ và các quyết
định của các UBND các Tỉnh chỉ quy định chi tiết cho các Nghệ nhân, Nghệ
nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú, chưa có văn bản nào hướng dẫn thống nhất
về nhóm người này, chính vì vậy gây khó khăn trong việc xác định người có
trình độ chun mơn, kỹ thuật cao, ảnh hưởng đến công tác áp dụng vào điều
kiện thực tế.
1.2.2. Pháp luật về sử dụng lao động có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao
có bằng cấp, chứng chỉ
Căn cứ theo Nghị định 34/2008/NĐ – CP của Chính phủ, quy định về
tuyển dụng và quản lí người nước ngồi làm việc tại Việt Nam, thì người
nước ngồi có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao được quy định như sau.

Chun gia là người nước ngồi có trình độ chun môn, kỹ thuật
cao về dịch vụ, thiết bị nghiên cứu, kỹ thuật hay quản lý (bao gồm kỹ sư
hoặc người có trình độ tương đương kỹ sư trở lên) [9]. Từ đó, chúng ta
hiểu người có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao phải có bằng kỹ sư và
tương đương trở lên. Hướng dẫn thực hiện Nghị Định này, Thông Tư số
08/2008/TT-BLĐTBXH được ban hành, theo văn bản này, giấy chứng
nhận về trình độ chun mơn, kỹ thuật cao của người nước ngoài làm việc
tại Việt Nam như sau.
- Bản sao chứng nhận về trình độ chun mơn, kỹ thuật cao của người
nước ngoài bao gồm bằng tốt nghiệp đại học, thạc sĩ, tiến sĩ phù hợp với
chuyên môn, công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động [16].

19


Để thuận tiện cho việc áp dụng luật, sử dụng người nước ngồi có trình
chun mơn, kỹ thuật cao làm việc tại Việt Nam, Nghị Định 46/2011/NĐ- CP
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2008/NĐ-CP của Chính
phủ về tuyển dụng và quản lý người nước ngồi làm việc tại Việt Nam cũng
được ban hành, theo văn bản này thì chứng nhận đối với một số nghề, cơng
việc, việc chứng nhận về trình độ chun mơn, kỹ thuật cao của người nước
ngồi có thể thay thế bằng các giấy tờ sau đây:
- Giấy công nhận là nghệ nhân những ngành nghề truyền thống do cơ
quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp đối với người nước ngoài là nghệ
nhân những ngành nghề truyền thống.
- Bằng lái máy bay vận tải hàng khơng do cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam cấp đối với phi cơng nước ngồi.
- Giấy phép bảo dưỡng tàu bay do cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam cấp đối với người nước ngoài làm công việc bảo dưỡng tàu bay [13]...
Trong việc áp dụng các văn bản trên gặp nhiều khó khăn về việc xác

định đối tượng là người nước ngồi có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao,
vì vậy, Thơng Tư 31/2011/TT-BLĐTBXH được ban hành nhằm hướng dẫn
thi hành một số điều của Nghị định số 34/2008/NĐ-CP và Nghị định số
46/2011/NĐ-CP quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm
việc tại Việt Nam, theo văn bản này thì chứng nhận về trình độ chun
mơn, kỹ thuật cao của người nước ngoài, bao gồm: “Bằng hoặc giấy chứng
nhận tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học phù hợp với vị trí cơng việc mà
người nước ngồi dự kiến sẽ đảm nhận” [18]. Ngồi ra cịn có những người
có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao khơng có bằng cấp, chứng chỉ mà
được gọi là Nghệ Nhân.

20


×