Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THANH HẢI



BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG
TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Huy Cƣơng


Hà nội - 2012


MỤC LỤC
Trang phụ bìa


Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN
LỢI CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG TRONG QUA
́
TRÌNH
CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC 5
1.1. Sự cần thiết phải CP hoá DNNN ở Việt Nam 5
1.1.1. CP hoá DNNN một câu hỏi khách quan của công cuộc đổi mới 5
1.1.2. Tình trạng hoạt ðộng kém hiệu quả của DNNN. 6
1.1.3 Tài chính nghèo nàn của các DNNN làm tăng sự phụ thuộc
của chúng vào ngân sách nhà nước 6
1.1.4. Các DNNN ta rất yếu về khả năng cạnh tranh 7
1.2. Khái niệm và vai trò DNNN 7
1.2.1 Khái niệm DNNN 7
1.2.2 Vai trò của DNNN 8
1.3 CPH và bản chất của việc CP hoá DNNN 10
1.3.1. CPH và mục tiêu của việc CPH 10
1.3.2 Bản chất pháp lý của việc CPH 12
1.4. Những tác động của CPH DNNN đối với NLĐ 14
1.4.1. Những tác động tích cực 14
1.4.2. Những tác động tiêu cực 15
1.4.3. Phương thức bảo vệ NLĐ trong quá trình CPH DNNN 24
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
NAY VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI LAO
ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƢỚC 26
2.1. Quyền mua CP trong DN CPH của NLĐ. 26

2.1.1. Đối tượng được mua CP và số lượng CP, giá ưu đãi được mua 26
2.1.2 Bán, chuyển nhượng CP ưu đãi 32
2.2. Chế độ đối với NLĐ tiếp tục làm việc trong DNNN sau khi CPH. 33
2.2.1 Lương và phụ cấp lương dành cho NLĐ. 33
2.2.2 Thang bảng lương, phụ cấp lương trong các DNNN thực hiện CPH 33
2.2.3 Lương tối thiểu vùng 34
2.2.4. Chế độ bảo hiểm xã hội và một số quyền lợi vật chất khác 42
2.2.5. Thực hiện chế độ dân chủ tại DNNN CPH 43
2.3 Chế độ đối với NLĐ dôi dư khi CPH 48
2.3.1 Chế độ đối với NLĐ trong Công ty TNHH một thành viên do
Nhà nước làm chủ sở hữu hoặc do tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội làm chủ sở hữu (sau đây gọi chung là công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ
sở hữu) thực hiện CPH 48
2.3.2 Chế độ đối với NLĐ trong DNNN khác thực hiện CPH 56
2.3.3 Nguồn kinh phí và trách nhiệm chi trả chế độ cho NLĐ 66
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ ĐỐI VỚI NGƢỜI LAO
ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƢỚC 70
3.1. Những yêu cầu về đảm bảo quyền lợi của NLĐ khi CPH
DNNN trong giai đoạn hiện nay 70
3.1.1 Đảm bảo yếu tố công bằng trong thực hiện chính sách đối với NLĐ 70
3.1.2 Đảm bảo các quy định của pháp luật được thực hiện một các
nghiêm túc 71
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
về đảm bảo quyền lợi cho NLĐ trong quá trình CPH DNNN 72
3.2.1. Phương hướng hoàn thiện chính sách bán CP ưu đã cho NLĐ 72
3.2.2. Phương hướng hoàn thiện chính sách tiền lương 76
3.2.3 Một số đề xuất nhằm phát huy dân chủ tại Công ty CP 80

3.2.4. Phương hướng giải quyết đối với lao động dôi dư 82
3.2.5. Phát huy vai trò của Công đoàn trong vấn đề bảo vệ quyền lợi
của NLĐ trong quá trình CPH 86
KẾT LUẬN 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
DANH MU
̣
C CHƢ
̃
VIÊ
́
T TĂ
́
T

CPH: Cổ phần ha
DNNN: Doanh nghiê
̣
p nha
̀
nươ
́
c
CP: Cổ phần
TW: Trung ương
NLĐ: Ngươ
̀
i lao đô
̣
ng

DN: Doanh nghiê
̣
p





1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ trương cô
̉
phần ha (CPH) các Doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
đã được đề cập đến lần đầu tiên trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2- Ban
chấp hành Trung ương Khoá VII tháng 11/ 1991: Chuyển một số công ty
quốc doanh c điều kiện thành công ty cổ phần (CP) và thành lập một số
Công ty quốc doanh CP mới, phải làm thí điểm, chỉ dạo chặt chẽ, rút kinh
nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp.
Qua hơn 15 năm tiến hành CP hoá công ty nhà nước và phải sau hai
Hội nghị Trung ương (TW) 3 và 9 Khoá IX, tiến trình CP hoá mới từng
bước bắt đầu, các cơ chế về chính sách về CPH ngày càng được hoàn thiện
phù hợp với cơ chế thị trường, đảm bảo hài hòa lợi ích nhà nước, công ty
và người lao động (NLĐ).
Trong quá trình CPH, có rất nhiều vấn đề được đặt ra để giải quyết
trước khi chuyển chuyển sang công ty CP. Ví dụ như vấn đề xử lý tài chính và
xác định giá trị DN, bán CP và quản lý, sử dụng tiền thu từ bán phần vốn nhà
nước tại công ty CP hoá, chính sách đối với NLĐ trong công ty CP và một
số vấn đề khác. Trong đ, vấn đề chính sách đối với NLĐ được đặc biệt coi
trọng bởi mọi cơ chế chính sách của nhà nước để đổi mới DN đều ảnh hưởng

đến NLĐ như: Quyền lợi của NLĐ khi công ty chuyển sang CP, những người
mất việc thôi việc khi công ty chuyển sang CP, vấn đề lao động dôi dư, chế
độ hưu trí đối với NLĐ và những vấn đề khác. Thực tế cho thấy, thời gian
qua hoạt động CPH DNNN đã và đang được thực hiện một cách mạnh mẽ.
Tuy nhiên, quyền lợi của NLĐ tại các DN đang trong quá trình CPH vẫn chưa
được quan tâm một cách đúng mức và đầy đủ.
Chính vì vậy việc nghiên cứu về bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá
trình CP hoá DNNN trong thời điểm hiện nay tuy không phải là mới mẻ




2
nhưng lại rất cần thiết. Thông qua việc tìm hiểu nội dung của chính sách CP
hoá và các vấn đề c liên quan, chúng ta sẽ c những đánh giá khách quan
hơn về hiệu quả cũng như những kh khăn hạn chế của CP hoá đối với NLĐ,
từ đ c thể đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những hạn chế đ.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chủ trương CPH các DNNN được triển khai đến nay đã hơn 15 năm.
Vấn đề đảm bảo quyền lợi cho NLĐ trong quá trình CPH DNNN đã được quan
tâm và thể chế dưới các quy định của pháp luật. Cho đến nay, pháp luật CPH
DN hiện hành c các quy định cụ thể ràng buộc DN CPH trong vấn đề sử dụng
lao động. Công ty CP được thành lập trên cơ sở DNNN CPH có trách nhiệm kế
thừa mọi nghĩa vụ đối với NLĐ từ DNNN chuyển sang, có quyền tuyển chọn,
bố trí, sử dụng lao động và phối hợp với các cơ quan liên quan giải quyết chế
độ cho NLĐ theo quy định của pháp luật. Có một số bàu viết đã đề cập đến vấn
đề bảo vệ quyền lợi cho NLĐ trong DNNN CPH như: “Hỏi đáp về chế độ,
chính sách đối với lao động dôi dư và lao động sắp xếp và CPH DNNN” của
Chu Hoàng Anh – Bộ lao động – thương binh và xã hội; “Giải quyết lao động
dôi dư trong quá trình CPH DNNN” của Phạm Tuấn Anh – Học viện hành

chính quốc gia; “Ba nghịch lý trong CPH” của GS.TS Nguyễn Văn Nam –
nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng. Tuy nhiên, các bài viết này
mới đề cập đến một vài khía cạnh về đảm bảo quyền lợi cho NLĐ, chưa c
công trình nào nghiên cứu về việc bảo đảm quyền lợi cho người ao động trong
quá trinh CPH DNNN ở nước ta.
Việc nghiên cứu các quy định về bảo đảm quyền lợi cho NLĐ trong
quá trình CPH DNNN ở nước ta sau đ đối chiếu với các quy định của pháp
luật hiện hành, vấn đề này còn hạn chế, chưa thực sự có công trình nào nghiên
cứu một cách tổng thể, toàn diện về việc đảm bảo quyền lợi của NLĐ trong
quá trình CPH DNNN ở nước ta trong thời gian qua.




3
3. Phạm vi nghiên cứu
Bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN là một vấn đề
khá mới mẻ. Vì vậy trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, không thể giải
quyết được trọn ven tất cả các vấn đề c liên quan đến việc Bảo đảm quyền
lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN.
Với đề tài “Bảo đảm quyền lợi của NLĐ trong quá trình CP hoá
DNNN”, tác giả luận văn chỉ tập trung nghiên cứu và làm rõ những vấn đề
pháp lý liên quan đến quyền lợi của NLĐ tiếp tục làm việc trong Công ty CP
sau khi CPH và quyền lợi của NLĐ bị mất việc làm trong quá trình CPH. Chế
độ pháp lý đối với NLĐ bị mất việc làm sau thời điểm DNNN CPH không
thuộc phạm vi nghiên cứu của Luận văn này.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài thực hiện các mục đích và nhiệm vụ sau:
- Gp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản của việc đảm bảo
quyền lợi NLĐ trong quá trình CPH DNNN. Trên cơ sở đ rút ra những nhận

xét khoa học trong vấn đề này
- Bình luận, đánh giá các quy định pháp luật chung và các văn bản pháp
luật về CPH, về đảm bảo quyền lợi của NLĐ trong quá trình CPH DNNN,
xem xét thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật trong vấn đề trên, thực tế
rút ra những nhận xét khoa học quan trọng về vấn đề này.
- Trên cơ sở các nhận xét, đánh giá những vấn đề c liên quan giữa lý
luận khoa học, luật thực định và thực tiễn bảo vệ quyền lợi của NLĐ trong
quá trình CPH DNHH ở Việt Nam, luận văn sẽ đề xuất các giải pháp cụ thể
nhằm gp phần bảo đảm hài hòa lợi ích Nhà nước – NLĐ – NSDLĐ.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên nền tảng lý luận là các nguyên tắc và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,




4
những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng, phát
triển nền kinh tế. Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả có kết hợp sử
dụng các phương pháp nghiên cứu: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử;
phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp, thống kê, khái quát hoá
để giải quyết nội dung khoa học của đề tài. Đặc biệt, luận văn rất chú trọng
phương pháp so sánh luật; kết hợp giữa lý luận với thực tiễn.
6. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ
và phạm vi nghiên cứu. Ngoài lời ni đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo, kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về bảo đảm quyền lợi của NLĐ
trong quá trình CP hoá DNNN
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về bảo đảm quyền

lợi của NLĐ trong quá trình CP hoá DNNN
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền
lợi của NLĐ trong quá trình CP hoá DNNN











5

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG
TRONG QUA
́
TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC

1.1. Sự cần thiết phải CP hoá DNNN ở Việt Nam
Quá trình CPH DNNN không phải là một quá trình ngẫu nhiên, mà
đằng sau nó là những nguyên nhân khiến cho hầu hết các Chính phủ đều đi
đến các quyết định CP hoá các DNNN. Đối với Việt Nam, CP hoá là giải
pháp tối ưu cho quá trình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả của DNNN. Sự
cần thiết phải CP hoá DNNN là do:
1.1.1. CP hoá DNNN một câu hỏi khách quan của công cuộc đổi mới

Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp do hoàn cảnh lịch
sử đất nước chúng ta là một nước bị chiến tranh tàn phá nền kinh tế nghèo nàn
lạc hậu kinh tế tư nhân chưa c điều kiện phát triển, lúc đ toàn dân đang dồn
sức xây dựng lại đất nước sau chiến tranh. Thời kỳ đ DNNN chỉ hình thành
tồn tại dưới hai hình thức là: Hình thức sở hữu tập thể ( các hợp tác xã) và các
DNNN. Trong thời gian này nhà nước tham gia hoạt động ở tất cả các lĩnh
vực trong nền kinh tế quốc dân mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều do nhà
nước giữ quyền chỉ đạo và chi phối, hai hình thức DNNN này tồn tại và phát
triển trong một thời gian dài, rất thích hợp với nền kinh tế nước ta trong thời
gian này. Nhưng sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, với nhiều thành
phần kinh tế tham gia thì hai hình thức DNNN này không còn hiệu quả và bộc
lé những mặt hạn chế của n do đ cần có sự đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt
động của các DNNN này. Những biện pháp nhằm đổi mới nâng cao hiệu quả
hoạt động của DN bao gồm: Chuyển một số công ty nhà nước đủ điều kiện
thành công ty CP một số sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên,




6
giao bán khoán cho thuê, những công ty không thực hiện được việc chuyển
sang CP trách nhiệm hưu hạn thì giải quyết theo thủ tục giải thể công ty nhà
nước. Còn lại Nhà nước chỉ tham gia vào những lĩnh vực kinh tế then chốt
như vận tải đường không bán buôn thuốc phòng bệnh chữa bệnh, bán buôn
xăng dầu Còn lại giao cho mọi thành phần kinh tế nắm giữ hoạt động theo
cơ chế thị trường chỉ chịu sự điều tiết của nhà nước về pháp luật và thuế.
Nguyên nhân này bắt nguồn từ sự thay đổi về nhận thức, về quan điểm
về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Trước đây, do nhận thức
sai lầm, xem nhẹ các quy luật kinh tế thị trường, coi nó là riêng có của chủ
nghĩa tư bản, quá coi trọng sở hữu toàn dân, dẫn đến tình trạng trì trệ và thiếu

động lực hoạt động của NLĐ cũng như chính DN. Vì vậy vấn đề đa dạng hoá
sở hữu được đặt ra và thực hiện.
1.1.2.Tình trạng hoạt ðộng kém hiệu quả của DNNN.
Đây c lẽ là nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các chính phủ
phải đưa ra quyết định CP hoá. Các DNNN đã không thể hiện và phát huy
được vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường. Mặc dù đã được đầu tư
và ưu đãi nhiều từ phía Nhà nước, sau nhiều lần sắp xếp tổ chức lại và đổi
mới cơ chế, nhưng các DNNN vẫn chưa chứng tỏ được tính hiệu quả của
mình so với khu vực dân doanh, chưa đáp ứng được mong muốn của Đảng
và Nhà nước, chưa tương xứng với tiềm lực và ưu đãi do Nhà nước dành
cho. Trong tất cả các DNNN, chỉ một số ít là làm ăn c lãi, còn lại là thua lỗ
hoặc li không đáng kể.
1.1.3 Tài chính nghèo nàn của các DNNN làm tăng sự phụ thuộc của
chúng vào ngân sách nhà nước
Nguyên nhân này là hệ quả trực tiếp của nguyên nhân trên. DNNN từ
chỗ là đng gp phần lớn cho ngân sách nhà nước giờ lại trở thành gánh nặng.
Đây cũng là nguyên nhân quan trọng thúc đẩy việc tiến hành CP hoá, vì các




7
khoản trợ cấp cho các DN ngày càng lớn, làm giảm nguồn lực để phát triển các
ngành khác.
1.1.4. Các DNNN ta rất yếu về khả năng cạnh tranh
Có nhiều ngành, sản phẩm của DNNN đang được ưu đãi độc quyền
hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ,
miễn thuế…) nhưng các DNNN vẫn chưa chứng tỏ khả năng cạnh tranh của
mình. Khả năng cạnh tranh kém của các DNNN thể hiện ngay trên thị trường
nội địa: ở những ngành có khả năng sinh lợi, thị phần của các DNNN có xu

hướng giảm sút nhường chỗ cho khu vực đầu tư nước ngoài và khu vực tư
nhân… Tình trạng này nếu không được cải thiện sẽ ảnh hưởng không những
đối với DN mà còn là gánh nặng của Nhà nước phải bù lỗ cho các DN này.
CPH chính là giải pháp tối ưu được lựa chọn để giải quyết các vấn đề trên.
1.2. Khái niệm và vai trò DNNN
1.2.1 Khái niệm DNNN
Luật DNNN do Quốc hội thông qua ngày 20/4/1995 đưa ra khái niệm
có tính pháp lý về DNNN như sau: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước
đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước
giao. DNNN c tư cách pháp nhân, c các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu
trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN
quản lý. DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ
Việt Nam”. (Điều 1 Luật DNNN năm 1995).
Định nghĩa trên cho thấy DNNN có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, DNNN là tổ chức kinh tế được Nhà nước thành lập để thực hiện
những mục tiêu do Nhà nước giao.
Hai là, DNNN do Nhà nước đầu tư vốn cho nên tài sản trong DN là
thuộc sở hữu Nhà nước, DN quản lý, sử dụng tài sản theo quy định của chủ sở
hữu là Nhà nước.




8
Ba là, DNNN c tư cách pháp nhân vì c đủ các điều kiện của pháp
nhân theo quy định của pháp luật.
Bốn là, DNNN là DN chịu trách nhiệm hữu hạn, nghĩa là nó tự chịu
trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số tài sản do
DN quản lý.

Định nghĩa trên về cơ bản phù hợp với thực tế môi trường và hoạt động
của các DNNN ở Việt Nam, phù hợp với xu thế chung của thế giới trong vấn
đề quan niệm về DNNN.
Năm 2003 khái niệm DNNN được phát triển sâu hơn, cụ thể Điều 1
Luật DNNN năm 2003 định nghĩa: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở
hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc vốn CP, vốn góp chi phối được tổ chức dưới
hình thức công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn”. Định nghĩa này
cùng với các quy định khác của Luật DN năm 2003 chứa đựng một số điểm
mới cơ bản sau:
Thứ nhất, nếu trước đây tiêu chí sở hữu được coi là cơ bản nhất, quyết
định nhất khi xác định DNNN thì tiêu chí bây giờ là quyền kiểm soát và chi
phối DNNN, vì vậy nếu chỉ dựa vào tiêu chí sở hữu nhiều khi khó phân biệt
DNNN với các loại hình DN khác. Định nghĩa đã thừa nhận sự tồn tại bình
đẳng của các hình thức sở hữu trong một DNNN, đây là một bước tiến lớn
trong quan niệm về DNNN, cho thấy sự đa dạng trong sở hữu và sự tự chủ
hơn của DNNN từ đ tạo ra sự đa dạng về hình thức tồn tại của DNNN sẽ làm
sinh động hơn thành phần kinh tế công, tạo sự thích nghi tốt hơn với nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, pháp luật hiện hành thừa nhận chuyển đổi DNNN thành DN
thông thường thông qua cơ chế chuyển nhượng, mua bán CP.
1.2.2 Vai trò của DNNN
DNNN hiện đang được quan tâm đặc biệt vì vai trò và sứ mệnh của




9
chúng trong sự nghiệp phát triển đất nước. Vai trò của DNNN bắt nguồn từ
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang phấn đấu
thực hiện. Đảng nhấn mạnh vai trò kinh tế Nhà nước với bộ phận chủ yếu là

DNNN. Với tư cách là bộ phận nòng cốt của thành phần kinh tế công, DNNN
đương nhiên giữ vị trí trọng yếu của kinh tế Nhà nước, vì thế có thể coi chúng
c ý nghĩa quan trọng trong vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Vai trò của hệ thống DNNN gắn liền với việc tham gia vào hoạt động
kinh tế của Nhà nước. Vai trò này thể hiện trên ba khía cạnh: kinh tế, chính trị
và xã hội. Nội dung của vai trò này được thể hiện như sau:
Thứ nhất, DNNN chi phối sự phát triển trong các lĩnh vực kinh tế có ý
nghĩa đối với sự phát triển ổn định của đất nước. Đảm nhận các lĩnh vực hoạt
động có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: cung ứng các
hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, nhất là trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng (giao thông,
thuỷ lợi, điện, nước, thông tin liên lạc,…), xã hội (giáo dục, y tế,…) và an
ninh quốc phòng.
Thứ hai, DNNN là công cụ tạo ra sức mạnh vật chất để Nhà nước giữ
vững sự ổn định xã hội, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. DNNN là nguồn lực vật chất chủ yếu của Nhà
nước, đng gp quyết định cho ngân sách nhà nước. DNNN là lực lượng xung
kích tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nhanh việc ứng dụng tiến bộ
khoa học – công nghệ nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Mở đường, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển, lôi cuốn
các DN thuộc các thành phần kinh tế khác vào quỹ đạo đi lên chủ nghĩa xã
hội, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ ba, DNNN góp phần quan trọng khắc phục những khiếm khuyết
của cơ chế thị trường: những lĩnh vực mới, các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, công
trình công cộng,… rủi ro cao, đòi hỏi vốn lớn, thu hồi chậm, lợi nhuận thấp là




10
những ngành cần thiết và tạo điều kiện cho phát triển sản xuất, nhưng các

thành phần kinh tế khác không muốn đầu tư, hoặc không có khả năng đầu tư
thì DNNN cần phải đi đầu mở đường, tạo điều kiện cho các thành phần kinh
tế khác phát triển.
Thứ tư, DNNN là lực lượng đối trọng trong cạnh tranh trên thị trường
trong và ngoài nước, chống sự lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế trong điều
kiện mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới.
Thứ năm, DNNN mẫu mực trong việc thực hiện các chính sách xã hội,
trợ cấp xã hội như tạo việc làm cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương; ở
những khu vực kh khăn, kém phát triển, như biên giới, hải đảo, miền núi,…
1.3 CPH và bản chất của việc CP hoá DNNN
1.3.1. CPH và mục tiêu của việc CPH
a) Định nghĩa CPH
Thuật ngữ CPH xuất hiện ở Việt Nam cuối những năm 1980 đầu những
năm 1990, gắn với công cuộc cải cách DNNN.
Do tình hình kinh tế – xã hội có nhiều kh khăn trong những năm 1980
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã phát triển công cuộc đổi mới trên nhiều mặt
đời sống xã hôi, nhất là kinh tế. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lấn thứ VI Việt
Nam bắt đầu tiến hành đường lối đổi mới và dần dần chuyển sang nền kinh tế
văn ha nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Khu vực DNNN (DNNN) là một
bộ phận trọng yếu của nền kinh tế quốc dân, đã bộc lộ nhiều yếu kém, cụ thể là:
Cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, thiếu vốn, cơ chế quản lý còn nhiều lúng túng,
hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy không đáp ứng sản xuất. Không những thế còn
là vật cản sự phát huy vai trò chủ đạo kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế nhiều
thành phần. Một thời gian dài thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung và duy
trì chế độ quan liêu, bao cấp làm cho các DNNN vừa thiếu tính năng động sáng





11
tạo vừa mang tính độc quyền cao. Quá trình đổi mới nền kinh tế quốc dân phải
lấy điểm đột phá từ việc cải cách toàn diện DNNN.
Thực hiện đổi mới toàn diện để phát triển đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế được Đại hội Đảng VI (1986) khởi xướng - phương thức mà chính phủ
áp dụng mạnh hiện nay là CPH DNNN. Xuất phát điểm của chủ trương này là
việc phải làm sao để những DNNN c “chủ thực sự”, gắn chặt quyền và lợi ích
hợp pháp của NLĐ với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN (DN),
Chính phủ chủ trương thực hiện chuyển đổi các DN thuộc sở hữu 100% của
nhà nước sang hình thức công ty CP thông qua việc chia nhỏ giá trị của DN
thành các phần bằng nhau và bán lại cho các nhà đầu tư dưới hình thức phát
hành cổ phiếu
Như vậy, CPH DNNN chính là quá trình chuyển DN thuộc sở hữu Nhà
nước sang hình thức công ty CP thông qua quá trình chào bán các cổ phiếu
chứng nhận quyền sở hữu DN cho các cổ đông. Hay có thể hiểu là thông qua
quá trình CPH DNNN mà DN trước đây thuộc sở hữu 100% của Nhà nước
được chuyển sang 1 loại hình DN có nhiều chủ sở hữu, trong đ Nhà nước có
thể là 1 cổ đông thậm chí Nhà nước có thể không còn là cổ đông trong DN đ.
Có thể nói, quan niệm về CPH DNNN đã được thể hiện chính thức, đầu tiên
trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng “Đổi mới tổ
chức quản lý DNNN, phát huy cao độ quyền tự chủ của DN trong việc thực
hiện nhiệm vụ được giao. Thực hiện tốt chủ chương CPH 1 bộ phận DNNN
để huy động thêm vốn, tạo động lực thúc đẩy DN làm ăn c hiệu quả, làm cho
tài sản thuộc sở hữu Nhà nước ngày càng tăng lên”.
Từ quan điểm đ, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện sắp xếp
và đổi mới DNNN. Hàng loạt giải pháp quan trọng được tiến hành như chuyển
một số DNNN thành công ty CP, giao, bán, khoán, cho thuê DNNN. Giải pháp
CPH đáp ứng những nhu cầu bức thiết của công cuộc cải cách DNNN.





12
CPH DNNN là việc chuyển một phần sở hữu DNNN sang sở hữu của
cổ đông nhằm mục đích huy động mọi nguồn vốn từ tất cả các thành phần
phát triển, phát huy tính tự chủ của NLĐ để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Thực chất của CPH là quá trình thực hiện xã hội hóa sở hữu DNNN,
chuyển thành DN thuộc quyền sở hữu nhà nước thành DN có nhiều chủ sở
hữu với mục tiêu đảm bảo cho sự tồn tại vững chắc và sự phát triển không
ngừng của DN theo sự phát triển của nền kinh tế – xã hội. CPH DNNN là
phương thức xã hội hóa sở hữu chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu
Nhà nước là duy nhất trong DN thành công ty CP với nhiều chủ sở hữu.
b) Mục tiêu của CP hoá DNNN ở Việt Nam
Thứ nhất, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quá trình tiếp tục đổi
mới phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao
tính năng động, sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế nói chung, của khu
vực DNNN nói riêng.
Thứ hai, huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm các cá nhân các tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước, để đầu tư đổi mới công
nghệ, phát triển DN, nâng cao sức mạnh, hiệu quả của DN trên thị trường, tạo
thêm việc làm, tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước.
Thứ ba, thay đổi cơ cấu DNNN và kinh tế nhà nước, đổi mới căn bản
quản lý Nhà nước đối với DNNN và phương thức hoạt động của DN nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh của từng DN cũng như toàn bộ nền
kinh tế, tăng tài sản nhà nước, tạo điều kiện để khu vực kinh tế nhà nước thực
hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường.
Thứ tư, tạo điều kiện để NLĐ trong DNNN CP hóa CP, tạo động lực
làm việc, nâng cao vai trò làm chủ thực sự của họ
1.3.2 Bản chất pháp lý của việc CPH
Để xác định thực chất CPH DNNN, trước hết phải phân biệt hai quá





13
trình: CPH và tư nhân ha. Trong đời sống kinh tế ở nhiều nước đã đề ra quá
trình tăng cương vai trò khu vực tư nhân bằng cách giảm thiểu khu vực Nhà
nước thông qua chương trình tư nhân ha. Hiện nay các nước có nền kinh tế
chuyển đổi như Liên Xô cũ, Đông Âu… đã diễn ra các quá trình:
- Tự do hóa một phần chế độ sở hữu của Xí nghiệp, chuyển một phần
sở hữu Nhà nước sang sở hữu tư nhân.
- Tự do hóa việc tham gia những hoạt động mà trước đây chỉ dành cho
khu vực Nhà nước.
- Ủy quyền kinh doanh hoặc cho phép tư nhân ký hợp đông thực hiện
những dịch vụ công cộng hoặc khu vực tư nhân thê các tài sản công cộng.
Như vậy, có thể hiểu “tư nhân ha là sự biến đổi tương quan nhà nước
và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước theo hướng ưu tiên thị
trường”. Quan niệm này cho ta thấy toàn bộ những chính sách, luật lệ, thể chế
nhằm khuyến kích mở rộng và phát triển khu vực kinh tế tư nhân hay các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của Nhà
nước vào các hoạt động kinh doanh của DN. Dành cho thị trường và vai trò
điều tiết đáng kể qua tự do hóa giá cả. Thực chất quan niệm nêu trên mong
muốn giảm bớt vai trò của DNNN, mở rộng khu vực tư nhân, đồng thời làm
cho các DNNN phải chịu sức ép lớn của thị trường. Đây cũng là vấn đề cạnh
tranh và chống độc quyền của các DNNN như hiện nay. Vì độc quyền làm trì
trệ DN không phát triển được nếu thiếu sực cạnh tranh. Việc giảm bớt vai trò
của Nhà nước có thể thực hiện bằng nhiều cách, trong đ c biện pháp bán
DNNN dưới hình thức bán CP cho NLĐ trong và ngoài DN hay còn gọi là
CPH DNNN. Sau khi trở thành công ty CP chủ sở hữu không chỉ còn của nhà
nước mà trở thành một tập thể cổ đông. Chuyển DNNN từ chỗ chỉ là một chủ

sở hữu Nhà nước thành công ty CP có nhiều chủ sở hữu đ là quá trình CPH
DNNN. Nghĩa là CPH không chỉ diễn ra tại các DN tư nhân, công ty trách




14
nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh mà nó diễn ra tại các DNNN. CPH là quá
trình thực hiện xã hội hóa sở hữu tại DN.
Như vậy, CPH DNNN chính là quá trình chuyển DN thuộc sở hữu Nhà
nước sang hình thức CP thông qua quá trình chào bán các cổ phiếu chứng
nhận quyền sở hữu DN cho các cổ đông. Hay c thể hiểu là thông qua quá
tình CPH DNNN mà DN trước đây thuộc sở hữu 100% của Nhà nước được
chuyển sang một loại hình DN có nhiều chủ sở hữu, trong đ Nhà nước có thể
là một cổ đông.
1.4. Những tác động của CPH DNNN đối với NLĐ
1.4.1. Những tác động tích cực
CPH DNNN là việc chuyển mình mạnh mẽ của DNNN từ hoạt động có
sự bảo đảm của Nhà nước sang hoạt động một cách độc lập, tự chủ và tự chịu
trách nhiệm về chính quyết định của mình. DNNN khi được bảo đảm hoạt
động bởi Nhà nước đã thể hiện sự trì trệ, yếu kém, làm ăn thua lỗ dẫn đến
quyền lợi của NLĐ không được bảo đảm. Một thực tế là, đa số DNNN sau khi
chuyển đổi đã từ các DN thường xuyên liên tục thua lỗ trở thành các DN làm
ăn c lãi. Qua đ, quyền lợi của NLĐ được bảo đảm, đời sống của NLĐ được
nâng cao, từng bước được cải thiện.
Thu nhập của NLĐ là một thực tế rõ ràng nhất minh chứng cho hiệu
quả của hoạt động CPH DNNN đồng thời qua nâng cao thu nhập đã đảm bảo
được quyền lợi cho NLĐ. Khi các DNNN CPH, những lao động làm việc có
hiệu quả được nâng lương, được đề bạt, cất nhắc một cách nhanh chóng, qua
đ kích thích tinh thần hăng say lao động, làm việc và cống hiến của NLĐ.

Đời sống của NLĐ cũng được đảm bảo hơn khi bảo hiểm xã hội được
đng cao hơn. Khi lương của NLĐ được tăng cao thì cũng c nghĩa là mức
đng bảo hiểm xã hội của NLĐ cũng tăng cao. Đng góp cao vào bảo hiểm xã
hội chính là tiền đề để họ có những mức bảo hiểm xã hội cao hơn so với các




15
DNNN trước đây. Đ chính là một bảo đảm cho NLĐ khi họ rơi vào các
trường hợp bảo hiểm, qua đ mà quyền lợi của NLĐ được bảo đảm.
NLĐ cũng c cơ hội làm việc ở môi trường năng động, hiện đại hơn.
Nghiên cứu của nhiều nước trên thế giới cho thấy, môi trường làm việc chính
là một động lực của NLĐ. Theo đ, NLĐ sẵn sàng làm việc ở một môi trường
làm việc thân thiện, c cơ hội thăng tiến mà lương thấp hơn là ngược lại. Khi
CPH DNNN thì Hội đồng quản trị cũng như Ban giám đốc buộc phải tổ chức
DN một cách hiệu quả nhất cũng như cố gắng tạo môi trường làm việc tốt
nhằm thu hút lao động lành nghề, lao động có chất lượng cao. Qua đ, thực
hiện tốt mục tiêu kinh doanh mà hơn hết là mục tiêu tăng thu nhập cho chính
mình. Việc gắn lợi ích của DN vào lợi ích của từng thành viên trong DN đã
thực sự nâng cao hiệu quả lao động khi mà NLĐ cũng như Ban giám đốc đều
thấy việc kinh doanh của DN ảnh hưởng chính đến thu nhập thực tế của mình.
Hoạt động CPH DNNN đã thực sự tạo nên chuyển biến khi mà chuyển từ tình
trạng “cha chung không ai khc” sang “của đau con st”. Thực tế đ đã làm
cho NLĐ cố gắng hơn, đội ngũ lãnh đọa DN cẩn thận hơn, và làm cho DN
hoạt động hiệu quả hơn.
1.4.2. Những tác động tiêu cực
Tuy CPH DNNN mang lại những lợi ích nhất định nhưng cũng không
c nghĩa là hoạt động này chỉ mang lại lợi ích. Thực tế cho thấy, hoạt động
CPH DNNN cũng mang lại những tác động tiêu cực.

Một thực trạng c thể thấy là, để đảm bảo các yêu cầu trên, hầu hết các
DN sau CPH đều đầu tư công nghệ mới, lựa chọn lao động giỏi, dẫn đến phải
sắp xếp lại lao động. Quá trình CPH DNNN, ngoài việc sắp xếp, bố trí lại
vốn, tài sản, đồng thời cũng là quá trình tổ chức, sắp xếp lại lực lượng lao
động, giảm bớt số lao động không đáp ứng được yêu cầu, không c nhu cầu
sử dụng, nên hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực tốt, gp phần nâng cao hiệu




16
quả sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy, sau khi chuyển thành công ty CP,
nhiều DN đã giảm tới 15% – 20% số lao động so với trước (Tạp chí cộng sản
số 105 - 2006). Tình trạng suy thoái kinh tế mấy năm qua khiến Nhà nước
phải thắt chặt vốn đầu tư để kiềm chế lạm phát, lãi suất ngân hàng quá cao
khiến nhiều DN làm ăn thua lỗ phải thu hẹp sản xuất, hoạt động cầm chừng.
Nhiều công ty sau CPH hoạt động kém hiệu quả, dẫn đến phá sản. Hệ lụy của
quá trình này là một bộ phận NLĐ bị mất việc làm.
Hơn nữa, khi được giao quyền tự chủ trong việc quản lý nên nhiều nơi
đã xuất hiện tình trạng tùy tiện xây dựng thang bảng lương riêng, không thực
hiện nâng lương nâng bậc cho NLĐ; lách luật bằng cách chỉ trả lương tối thiểu,
phần còn lại biến báo dưới nhiều hình thức để trốn đng bảo hiểm xã hội. Điều
này gây thiệt thòi lớn cho NLĐ sau khi về hưu. Trong khi đ, do được giao
quyền quá cao, Nhà nước lại chỉ quy định mức lương tối thiểu mà không quy
định mức lương tối đa, khiến nhiều DN lợi dụng xây dựng mức lương cho lãnh
đạo tới hàng trăm triệu đồng/người/tháng, trong khi NLĐ được hưởng thấp, chỉ
được 6- 7 triệu đồng, c nơi còn thấp hơn đã gây bức xúc cho NLĐ. Nhiều nơi
không công khai doanh số, doanh thu của DN và tiền lương từng người, khiến
tổ chức công đoàn kh xây dựng thỏa ước lao động.
Thậm chí, nhiều DN sau khi CPH c vốn đầu tư nước ngoài đã cố tình

hiểu sai quy định về mức lương tối thiểu. Họ tưởng rằng, chỉ cần trả lương
cho NLĐ cao hơn lương tối thiểu mà không biết phải tùy thời gian để nâng
bậc, nâng lương đã gây ra tình trạng đình công, bãi công trong nhiều DN ở
Việt Nam.
CPH có tác dụng trong việc xã hội ha tư liệu sản xuất trong DN thuộc
sở hữu một chủ. Như vậy, các thực thể kinh tế vĩ mô cũng trở nên đa sở hữu
như bản thân nền kinh tế vĩ mô, điều này tạo ra tương thích nhất định của các
giải pháp quản lý vĩ mô là vi mô. CPH tạo cho những NLĐ c cơ hội thực sự




17
làm chủ DN nếu họ muốn bằng việc chủ sở hữu CP (hay góp vốn) trong DN.
Họ góp phần hình thành nên các cơ quan quản lý DN, quyết định các vấn đề
trọng đại của n. Điều này c ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao tính chủ
động, tích cực của người kinh doanh không chỉ đối với các vấn đề của DN mà
cả đối với các vấn đề của nền kinh tế xã hội đất nước.
Những tác động to lớn mang tính phổ biến của CPH đương nhiên đúng
với giải pháp CPH DNNN mà Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành. Trong
bối cảnh Việt Nam những tác động này của CPH còn phát huy tác dụng lớn
hơn, vì thực trạng của DNNN Việt nam đang đòi hỏi phải cải cách triệt để,
trong lúc nhiệm vị đặt ra là không làm mất đi vai trò chủ đạo của chúng.
Tác động xã hội đáng chú ý khác của CPH là sự tiềm ẩn trong nó khả
năng phân ha xã hội và gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Tuy ảnh hưởng
này của CPH không lớn như của tư nhân ha song trong những nền kinh tế
mà tệ nạn tham những diễn ra phổ biến thì đây là nguy cơ cần tính đến. Nguy
cơ phân ha giàu nghèo với tư cách là ảnh hưởng của CPH thể hiện ở một số
khía cạnh sau:
Thứ nhất, việc CPH DNNN nhằm đạt tới mục tiêu đưa DN phát triển

hiệu quả và bền vững. Trong đ c sự thay đổi cơ chế quản lý điều hành của
DN, bố trí hợp lý bộ máy tổ chức, tinh giản lao động gián tiếp, quyền của DN
được mở rộng và chủ động hơn, đáp ứng kịp thời cơ chế thị trường, nâng cao
ý thức trách nhiệm của NLĐ và cán bộ quản lý Thông qua đ, DN được tổ
chức một cách hiệu quả, đồng thời mang lại những lợi ích cho NLĐ. Để đảm
bảo các yêu cầu trên, hầu hết các DN sau CPH đều đầu tư công nghệ mới, lựa
chọn lao động giỏi, dẫn đến phải sắp xếp lại lao động. Tình trạng suy thoái
kinh tế mấy năm qua khiến Nhà nước phải thắt chặt vốn đầu tư để kiềm chế
lạm phát, lãi suất ngân hàng quá cao khiến nhiều DN làm ăn thua lỗ phải thu
hẹp sản xuất, hoạt động cầm chừng. Nhiều công ty sau CPH hoạt động kém




18
hiệu quả, dẫn đến phá sản. Hệ lụy của quá trình này là một bộ phận NLĐ bị
mất việc làm. Do vậy, một bộ phận lớn NLĐ trước đây làm việc trong các
DNNN với những chế độ bắt nguồn từ bao cấp của nhà nước, cuộc sống của
họ vốn dựa vào DN. Khi DN CPH, những lao động phổ thông chưa qua đào
tạo sẽ bị mất việc làm trong DN CPH. Dĩ nhiên, cơ hội tìm việc của họ là
mong manh vì ngay cả nơi họ đã từng làm việc cũng đã không c việc làm
cho họ, không kiếm được việc làm cần thiết dễ đẩy những NLĐ đến cảnh đi
nghèo và những tiêu cực xã hội.
Thứ hai, CPH sẽ chuyển những tài sản của Nhà nước thành tài sản cho
một bộ phận nhỏ của người mua CP khi đánh giá không đúng giá trị tài sản
của DN. Vì vậy, CPH có khả năng biến những người có quyền trong DN và
trong bộ máy nhà nước trực tiếp quản lý DNNN thành những tỷ phú. Việc
đánh giá không đúng tài sản của DNNN khi CPH, và tiếp đ là cơ chế bán CP
không rõ ràng làm cho tài sản của nhà nước trở thành tài sản của một nhóm
người. Họ thường là những quan chức trong các cơ quan công quyền, hoặc bộ

trong bộ máy DNNN. Lợi dụng quyền lực và ảnh hưởng của mình, những
người này xác định giá trị DN có lợi cho bản thân, thông đồng, móc ngoặc với
nhau để thâu tóm CP hoặc tìm cách lũng đoạn công ty. Trong thực tế, có
những DNNN được định giá 3 tỷ, 5 tỷ, song giá trị thực của nó lớn hơn hàng
chục lần. CP được bán một cách thiếu công bằng nên chỉ tập trung vào một số
ít người trong DNNN.
Như vậy, khi giá trị của DNNN được thị trường hóa, những cổ đông
của DNNN trở thành các tỷ phú một cách hợp pháp. Những đối tượng như
vậy nếu có kinh nghiệm và kiến thức sẽ làm giàu cho bản thân họ nhanh
chóng nhờ vốn “đầu tư” của nhà nước qua CPH. Chính tình trạng như vậy sẽ
ảnh hưởng đến vai trò của NLĐ trong DN CPH, NLĐ không phát huy được
khả năng làm chủ thực sự của mình.




19
Thứ ba, một tác động nữa của CPH là tinh trạng gia tăng áp lực việc
làm. Lực lượng dôi dư trong quá trình CPH DNNN sẽ tham gia vào đội quân
thất nghiệp. Điều này làm gia tăng sức ép lên thị trường lao động vốn đã rất
căng thẳng do tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu. Số lao động này nếu
không được quản lý tốt cùng với sự quan tâm định hướng nghề nghiệp của
nhà nước thì sẽ tiềm ẩn nguy cơ làm bùng nổ các tệ nạn xã hội. Khi đ, Nhà
nước sẽ phải chi những khoản tiền không nhỏ để giải quyết những hậu quả về
mặt xã hội. Tuy nhiên tác động này chỉ là khả năng, nếu xử lý tốt việc CPH
thì hậu quả đ c thể không xảy ra. Công ty CP Khánh Hội là một ví dụ.
Cuối năm 2005, một khách hàng của Công ty CP Khánh Hội xây dựng
nhà máy ở huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương và thành lập Công ty TNHH Osco.
Công ty Khánh Hội chuyển toàn bộ lao động của xí nghiệp giày khoảng gần
2.000 người đến Công ty Osco làm việc và thông báo: Nếu ai đến Công ty

Osco thì được Osco chi tiền thưởng Tết, ai không đi thì làm đơn xin nghỉ việc.
Với thông báo này, một số công nhân rất hoang mang nên phải theo
Osco ra Bình Dương làm việc. Số lao động không đi được vì nơi làm việc quá
xa, phải xin nghỉ việc. Anh Nguyễn Thế Tuyển, công nhân Xí nghiệp Giày
Khánh Hội, cho biết: “Chúng tôi làm việc từ trước khi c ban giám đốc hiện
nay, thế mà sau khi CP, chúng tôi được gì? Trong khi chỉ riêng người nhà của
giám đốc, năm 2004 đã c hơn 5% CP”. Chỉ hơn 10 ngày sau khi NLĐ
chuyển sang làm việc ở Bình Dương, Công ty CP Khánh Hội công bố mức lãi
của năm 2005 là 17,3 tỉ đồng, cổ tức được chia 24%.
Theo báo cáo của Sở LĐ-TB-XH TPHCM, từ tháng 5-2003 đến nay,
toàn TP đã CPH được 149 DN. Tổng số lao động của 149 DN này trước khi
CPH là 43.803 người. Sau CPH, c 3.169 lao động dôi dư. Tổng cộng kinh
phí hỗ trợ cho lao động dôi dư gần 89,5 tỉ đồng. Đây là con số được thống kê
theo kế hoạch CPH của DN, còn thực tế sau CP, số liệu NLĐ nghỉ việc không




20
kiểm soát được. Đặc biệt, các DN chuyển mục đích kinh doanh từ sản xuất
sang dịch vụ – thương mại, gần như toàn bộ NLĐ phải nghỉ việc. [57]
Khi thực hiện CPH, lao động dôi dư sẽ xuất hiện, bao gồm lao động dôi
dư thực tế và lao động dôi dư tiềm tàng.
Lao động dôi dư thực tế là bộ phận lao động mất việc làm do DN giải
thể, phá sản hoặc thu hẹp phạm vi sản xuất.
Trong quá trình mở cửa để hội nhập với khu vực và trên thế giới có rất
nhiều các DN mà đặc biệt là các DNNN không có những chuyển biến tích cực
thích ứng với những đòi hỏi của cơ chế thị trường như trình độ công nghệ lạc
hậu, đội ngò cán bộ quản lý yếu kém, thiếu sự năng động, sáng tạo trong sản
xuất kinh doanh, thái độ ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp, bù lỗ của Chính phủ.

Vì vậy, Đảng và Nhà nước phải cân nhắc, xem xét rất kỹ về tầm quan trọng
và xu hướng phát triển trong tương lai của hàng loạt các DN kiểu này để đưa
ra quyết định giữ lại hay giải thể, phá sản hay di chuyển, đổi hình thức sở hữu
từ chỗ DN một chủ sở hữu là Nhà nước sang hình thức nhiều chủ sở hữu
trong đ Nhà nước giữ hoặc không giữ một phần vốn nhỏ trong DN.
Các loại hình đổi mới DNNN ni trên đều tạo ra một lực lượng dư thừa
lớn. Lực lượng lao động này bị đẩy ra ngoài xã hội, họ phải tự thân vận động
để kiếm việc làm mới, để trang trải cuộc sống trong một nền kinh tế vốn dĩ
đang còn nằm trong tình trạng kém phát triển. Vì vậy, sự quan tâm, giúp đỡ của
Đảng, Nhà nước là một việc làm quan trọng nhằm tạo cho lực lượng lao động
này tìm được việc làm ở những đơn vị mới, hoặc đối với những người thực sự
không thể bố trí, sắp xếp được nơi làm việc thì cũng giải quyết cho họ chế độ
hưu trí, mất sức hay trợ cấp hàng tháng … Để giúp họ vượt qua giai đoạn khó
khăn trước mắt, dần dần ổn định cuộc sống và công việc trong tương lai.
Lao động dôi dư tiềm tàng là số lao động thực tế có việc làm nhưng c
thể giảm mà không ảnh hưởng đến kinh doanh. Đây là hiện trạng khá phổ

×