Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại Công ty Cổ phần Trung Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (975.32 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




PHAN THỊ TUYẾT HOA




PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN
THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TRUNG NGUYÊN




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


PHAN THỊ TUYẾT HOA




PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN
THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TRUNG NGUYÊN


Chuyên ngành : Luật Kinh tế
 : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

: TS. NGUYỄN AM HIỂU

Hà Nội – 2012

i
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN Error! Bookmark not defined.
MỤC LỤC i
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Đối tƣợng va
̀
phạm vi nghiên cứu 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 2
5. Kết cấu của đề tài 3

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHƢỢNG QUYỀN
THƢƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN
THƢƠNG MẠI 4
1.1. Tổng quan về nhƣợng quyền thƣơng mại 4
1.1.1. Lịch sử phát triển của nhượng quyền thương mại 4
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của nhượng quyền thương
mại 6
1.1.3. Phân biệt nhượng quyền thương mại với một số phương thức kinh
doanh khác 18
1.2. Tổng quan pháp luật về hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại 23
1.2.1. Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại 23
1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng nhượng quyền thương mại 26

ii
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN
THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 29
2.1. Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động nhƣợng quyền
thƣơng mại ở Việt Nam 29
2.2. Chủ thể của hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại 30
2.3. Hình thức hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại 34
2.4. Nội dung của hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại 37
2.4.1. Đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại 39
2.4.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động kinh doanh nhượng
quyền thương mại 40
2.4.3. Phí nhượng quyền 44
2.4.4. Thời hạn, gia hạn hợp đồng 45
2.4.5. Thay đổi hợp đồng 46
2.4.6. Tạm dừng hợp đồng 47
2.4.7. Chấm dứt hợp đồng 47
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN

THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM, ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYÊ
̀
N
THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 50
3.1. Thực tiễn hoạt động nhƣợng quyền tại Việt Nam 50
3.1.1. Thành tựu 50
3.1.2. Hạn chế 50
3.1.3. Một số thương hiệu tiêu biểu 51

iii
3.1.4. Một số mô hình kinh doanh quán cà phê tiêu biểu ở Việt Nam 51
3.2. Thực tiễn hoạt động NQTM tại Công ty Cổ phần Trung Nguyên 54
3.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần Trung Nguyên
54
3.2.2. Thế mạnh của mô hình nhượng quyền Trung Nguyên 58
3.2.3. Những hạn chế trong mô hình nhượng quyền của Trung Nguyên 60
3.2.4. Hệ thống NQTM tại Công ty cổ phần Trung Nguyên 63
3.2.5. Một số tranh chấp liên quan đến NQTM của Công ty cổ phần Trung
Nguyên 71
3.3. Một số đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam
về hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại 77
3.3.1. Về khái niệm NQTM 77
3.3.2. Về quyền và nghĩa vụ các bên chủ thể trong hợp đồng NQTM 79
3.3.3. Một số vấn đề khác liên quan đến hợp đồng nhượng quyền thương mại
80
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhượng quyền thương mại (NQTM) là phương thức kinh doanh đang
phổ biến và lan rộng khắp nơi trên thế giới, được sử dụng trong 60 lĩnh vực
khác nhau, từ kinh doanh thực phẩm, nhà hàng, khách sạn, cho thuê xe, giải
trí đến các dịch vụ giáo dục, y tế, hỗ trợ doanh nghiệp. Theo thống kê năm
2011, tại Mỹ có khoảng 800.000 cơ sở kinh doanh theo phương thức NQTM
với hơn 10 triệu công nhân và 625 tỷ USD doanh số. Tổng doanh thu của các
hệ thống NQTM hiện nay chiếm hơn 1/3 tổng giá trị các giao dịch bán lẻ tại
Mỹ [1] vào năm 2006, Trung quốc có 2.600 hệ thống nhượng quyền với
khoảng 168.000 cửa hàng với tốc độ phát triển trong khoảng 40%-50% [7].
Với đà tăng trưởng 20-25%/năm hiện nay [18], Việt Nam có tiềm năng để
trở thành thị trường hấp dẫn cho NQTM. Để có thể hội nhập thành công một
điều kiện tiên quyết đối với các doanh nghiệp Việt Nam là cần tìm hiểu, nghiên
cứu các thuận lợi và thách thức của hệ thống kinh doanh đặc thù này trước khi
quyết định kí kết hợp đồng để tham gia mô hình kinh doanh nhượng quyền
thương mại. Trong bối cảnh thị trường NQTM ngày càng tăng nhanh ở Việt
Nam, việc nghiên cứu thực trạng kinh doanh NQTM, cũng như thực trạng pháp
luật về NQTM Việt Nam nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng các hợp
đồng nhượng quyền chặt chẽ, đúng luật, là một nhu cầu cấp thiết.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại là hình thức pháp lý thực hiện hoạt
động nhượng quyền thương mại, là căn cứ pháp luật quan trọng nhất và cũng
là căn cứ hợp tác kinh doanh của hai bên, đó là cơ sở làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ các bên đồng thời là căn cứ giải quyết tranh chấp giữa các bên. Mặt
khác đó cũng là cơ sở để nhà nước có thể quản lý hoạt động nhượng quyền

2
trên lãnh thổ Việt Nam, có thể nói hợp đồng nhượng quyền thương mại đóng
vai trò rất quan trọng trong quan hệ nhượng quyên giữa các chủ thể. Chính vì

vậy, việc nghiên cứu n th
 rất cần
thiết và quan trọng, có ý nghĩa sâu sắc về cả mặt lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ về mặt lý luận hoạt động nhượng quyền thương mại nói
chung và pháp luật điều chỉnh hợp đồng nhượng quyền thương mại tại Việt
Nam nói riêng. Phân tích thực trạng pháp luật hợp đồng nhượng quyền
thương mại ở Việt Nam hiện nay cũng như mô hình NQTM đang rất thành
công tại Công ty Cổ phần Trung Nguyên, đánh giá những ưu điểm cũng như
những mặt còn hạn chế, tồn tại trong các quy định pháp luật hiện hành về hợp
đồng nhượng quyền thương mại. Đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi của pháp luật hợp đồng nhượng
quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng va
̀
phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại
nói chung và hợp đồng nhượng quyền thương mại nói riêng, đồng thời nghiên
cứu một số nét cơ bản về hệ thống pháp luật Việt Nam về hợp đồng nhượng
quyền thương mại, kết hợp với việc xem xét thực tiễn áp dụng pháp luật về
nhượng quyền thương mại ở Công ty Cổ phần Trung Nguyên. Trên cơ sở đó
đưa ra một số đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy phạm pháp luật
điều chỉnh hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn lấy phương pháp duy vật Ma
́
c-Lênin làm phương pháp chủ đạo
trong quá trình nghiên cứu đề tài. Ngoài ra Luận văn còn sử dụng một số

3

phương pháp khác không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học pháp lý như
phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp đối chiếu so sánh, phương
pháp liệt kê… các phương pháp này được sử dụng đan xen lẫn nhau để có thể
xem xét một cách toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng
nhượng quyền thương mại.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của
luận văn gồm:
Ch            

Chng m
Nam
Ch



4
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHƢỢNG
QUYỀN THƢƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI

1.1. Tổng quan về nhƣợng quyền thƣơng mại
1.1.1. Lịch sử phát triển của nhƣợng quyền thƣơng mại
Dù Việt Nam mới biết đến NQTM cách đây hơn 20 năm, nhưng khái
niệm này đã trở lên phổ biến và có lịch sử phát triển khá lâu đời trên thế giới.
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, hình thức sơ khai của lối kinh doanh
nhượng quyền đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ 17-18 tại Châu Âu. Tuy nhiên,
nhượng quyền thương mại được chính thức thừa nhận khởi nguồn, phát triển
là tại Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ 19, khi mà Nhà máy Singer (sản xuất máy
khâu) ký kết hợp đồng nhượng quyền kinh doanh đầu tiên cho đối tác của

mình.
Trước thế chiến thư
́
2, NQTM phát triển ồ ạt trong các trạm xăng dầu và
gara buôn bán xe hơi, về thực chất đây chỉ là hình thức nhượng quyền phân
phối sản phẩm. Các đại lý xăng dầu hay gara xe hơi được cấp giấy phép dưới
tên một thương hiệu nào đó, tuy nhiên họ không phải trả khoản phí nhượng
quyền nào. Điều kiện duy nhất để các đại lý được hoạt động là phải mua sản
phẩm độc quyền cung cấp bởi chủ thương hiệu mà thôi.
NQTM thực sự phát triển mạnh, bùng phát kể từ sau năm 1945 (khi Thế
chiến thứ 2 kết thúc), với sự ra đời của hàng loạt hệ thống nhà hàng, khách
sạn và các hệ thống kinh doanh, phân phối theo kiểu bán lẻ, mà sự đồng nhất
về cơ sở hạ tầng, thương hiệu, sự phục vụ là đặc trưng cơ bản để nhận dạng
những hệ thống kinh doanh theo phương thức này. Từ những năm 60, NQTM

5
trở thành phương thức kinh doanh thịnh hành, thành công không chỉ tại Hoa
Kỳ mà còn ở những nước phát triển khác như Anh, Pháp…. Sự lớn mạnh của
những tập đoàn xuyên quốc gia của Hoa Kỳ và một số nước Châu Âu trong
lĩnh vực kinh doanh thức ăn nhanh, khách sạn - nhà hàng đã góp phần "truyền
bá" và phát triển NQTM trên khắp thế giới. Ngày nay, NQTM đã có mặt tại
hơn 150 nước trên thế giới, riêng tại Châu Âu có khoảng 200 ngàn cửa hàng
kinh doanh theo phương thức nhượng quyền.
Nhận thấy lợi ích, hiệu quả của của phương thức kinh doanh này, nhiều
quốc gia đã có các chính sách khuyến khích phát triển NQTM. Hoa Kỳ là
quốc gia đầu tiên luật hoá NQTM và có các chính sách ưu đãi cho những cá
nhân, doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức NQTM. Chính phủ các
nước phát triển khác như Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật… cũng noi gương Hoa
Kỳ, ban hành các chính sách thúc đẩy phát triển hoạt động NQTM, khuyến
khích và hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc NQTM ra nước ngoài. Với

những ưu điểm vượt trội, NQTM trở thành một phương thức kinh doanh
mang lại hiệu quả cao và tạo thành làn sóng kinh doanh mạnh mẽ trên toàn
thế giới.
Ngày nay, nhiều tổ chức phi chính phủ với tôn chỉ thúc đẩy phát triển, hỗ
trợ và quảng bá hoạt động nhượng quyền đã được thành lập. Điển hình là Hội
đồng nhượng quyền Thế giới (World Franchise Council), ra đời vào năm
1994, có thành viên là các hiệp hội nhượng quyền của nhiều quốc gia. Ngoài
ra, một tổ chức uy tín và lâu đời nhất là Hiệp hội nhượng quyền Quốc tế
(International Franchise Association) được thành lập năm 1960 có khoảng
30.000 thành viên bao gồm các doanh nghiệp bán, mua, nhượng quyền.
Khái niệm NQTM mới xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1990 đến nay có
khoảng hơn 200 hệ thống nhượng quyền nhưng hoạt động này đã từng bước

6
khẳng định vai trò của mình đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam [5]. Giờ
đây người tiêu dùng đã quen thuộc với các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới
như KFC, Dimal, Qualitea,… cho đến nay một số thương nhân Việt Nam đã
kinh doanh khá thành công theo mô hình này ( điển hình là cà phê Trung
Nguyên, Phở 24 và Bakerry Kinh Đô), và các doanh nghiệp có tiềm năng
khác cũng đang khẩn trương chuẩn bị để chuyển nhượng quyền thương mại.
Khái niệm này cũng đã được các trường đại học về kinh tế đưa vào giảng dạy
chính thức, nhiều buổi hội thảo do các doanh nghiệp kinh doanh nhượng
quyền đã được tổ chứ hàng năm, mới đây nhất là hội chợ triển lãm về
frachise tổ chức bởi Văn phòng đại diện Cục Xúc tiến thương mại (Viettrade)
tại thành phố Hồ Chí Minh với chủ đề: "Nhượng quyền thương mại - Xu
hướng phát triển mới, cơ hội và tiềm năng" ngày 11/05/2012, Hội thảo
"nhượng quyền thương mại - Bài học từ người trong cuộc" do Báo Doanh
nhân Sài Gòn tổ chức ngày 28/06/2012; … nhằm trao đổi kinh nghiệm giữa
các thương nhân. Mặt khác theo đánh giá của các chuyên gia, hiện nay Việt
Nam đã gia nhập WTO thì NQTM sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bùng nổ,

cũng theo họ để Việt Nam có thể hội nhập kinh tế thế giới một cách nhanh
chóng thì NQTM là con đường tốt nhất và rất phù hợp với hoàn cảnh Việt
Nam hiện nay.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của nhƣợng quyền
thƣơng mại

Tuy có lịch sử phát triển lâu dài nhưng đến nay trên thế giới vẫn chưa có
khái niệm thống nhất về NQTM. Mỗi quốc gia đưa ra khái niệm khác nhau
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và quan điểm lập pháp của nước mình.
Định nghĩa của Uỷ ban thương mại Liên minh Hoa Kỳ nhấn mạnh tới việc

7
bên giao quyền kinh doanh hỗ trợ và kiểm soát bên nhận trong hoạt động kinh
doanh, theo đó hoạt động nhượng quyền thương mại được hiểu như sau:
“NQTM là thoả thuận, theo đó bên nhượng quyền có trách nhiệm hỗ trợ đáng
kể cho bên nhận quyền trong việc điều hành doanh nghiệp và kiểm soát chặt
chẽ phương pháp điều hành doanh nghiệp của bên nhận quyền. Đồng thời
bên nhượng quyền phải lisence nhãn hiệu cho bên nhận quyền để phân phối
sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hoá của bên nhượng và yêu cầu
bên nhận thanh toán một khoản phí tối thiểu" [2].
Theo hiệp hội NQTM quốc tế (IFA) thì: "NQTM là mối quan hệ theo
hợp đồng giữa bên giao và bên nhận, theo đó bên giao đề xuất hoặc phải duy
trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp của bên nhận trên các khía cạnh
như bí quyết kinh doanh, đào tạo nhân viên. Bên nhận quyền hoạt động dưới
nhãn hiệu hàng hoá, phương thức, phương pháp kinh doanh do bên giao sở
hữu hoặc kiểm soát và bên nhận quyền đang và sẽ tiến hành đầu tư đáng kể
vốn vào doanh nghiệp bằng nguồn lực của mình." [2] Theo định nghĩa này vai
trò của bên nhận quyền kinh doanh trong việc đầu tư vốn và điều hành doanh
nghiệp được đặc biệt nhấn mạnh hơn so với trách nhiệm của bên giao quyền.
Liên minh Châu Âu định nghĩa: "NQTM là tập hợp những quyền sở hữu

công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá, tên thương
mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bí quyết hoặc sáng chế
sẽ được khai thác để bán sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng
cuối cùng". [2] Như vậy có thể hiểu cách tiếp cận của Liên minh Châu Âu là
việc nhấn mạnh quyền của bên nhận quyền khi sử dụng tập hợp các quyền sở
hữu trí tuệ.
Định nghĩa của Australia là định nghĩa khá toàn diện về NQTM, ngoài ra
việc chỉ ra các đặc điểm đặc trưng khái quát lên bản chất của NQTM còn chỉ

8
ra được một quy trình khá chi tiết và đầy đủ của hoạt động NQTM. Định
nghĩa đó như sau: “NQTM là thoả thuận một bên (bên nhượng quyền) cấp cho
bên khác (bên nhận quyền) thực hiện hoạt động đề nghị giao kết hợp đồng,
cung cấp hoặc phân phối hàng hoá hoặc dịch vụ trong lãnh thổ Australia
theo hệ thống hoặc kế hoạch kinh doanh mà cơ bản được xác định kiểm soát
hoặc đề xuất bởi bên nhượng quyền, theo đó: Việc tiến hành hoạt động kinh
doanh được chủ yếu gắn liền với thương hiệu, hoạt động quảng cáo hoặc biểu
tượng thương mại của bên nhượng quyền. Trước khi bắt đầu kinh doanh và
trong quá trình kinh doanh, bên nhận quyền phải thanh toán cho bên nhượng
quyền một khoản chi phí NQTM" [2].
Đối với Việt Nam khái niệm nhượng quyền thương mại lần đầu tiên
được đề cập đến trong pháp luật tại Điều 284 Luật thương mại 2005, theo
quan điểm các nhà làm luật thì: "NQTM là hoạt động thương mại theo đó bên
nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau:
1. Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách
thức tổ chức do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng
hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng
kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền.
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền

trong việc điều hành công việc kinh doanh.
Qua các định nghĩa trên ta có thể thấy mặc dù quan điểm của các quốc
gia về nhượng quyền thương mại là khác nhau nhưng tất cả các định nghĩa
trên đều có đặc điểm chung là:

9
• Bên nhận quyền phân phối sản phẩm, cung ứng dịch vụ dưới nhãn hiệu
hàng hoá, các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ và theo quy trình kỹ thuật do
bên nhượng quyền xây dựng và sở hữu
• Bên nhận quyền phải trả một khoản phí và chấp nhận các điều kiện do
bên nhượng quyền quy định (các quy định về tiêu chuẩn hàng hoá, giá sản
phẩm, cách bài trí cửa hàng, cung cách phục vụ của nhân viên)
1.1.2.2. 
NQTM là phương thức kinh doanh đặc biệt, mặc dù rất giống với
lisence, đại lý thương mại và chuyển giao công nghệ nhưng nó không phải là
một trong các phương thức đó, chúng ta có thể nhận biết NQTM qua một số
đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể tham gia hoạt động NQTM gồm bên nhượng quyền và
bên nhận quyền là các pháp nhân độc lập và hoàn toàn không phụ thuộc với
nhau về mặt pháp lý cũng như tài chính. Đây là đặc điểm quan trọng để phân
biệt quan hệ NQTM với quan hệ chi nhánh. [3] Bên nhận quyền mặc dù kinh
doanh dưới thương hiệu của bên nhượng quyền nhưng lại hoàn toàn chủ động
trong việc kinh doanh của mình, việc có lãi hay chịu lỗ không liên quan trực
tiếp đến bên nhượng quyền. Mặt khác các chủ thể hoạt động NQTM đều là
những doanh nghiệp hoàn toàn độc lập về mặt trách nhiệm đối với khách
hàng và đối với đối tác khác trong kinh doanh, vì vậy nó sẽ có địa vị pháp lý
độc lập khi kinh doanh NQTM.
Thứ hai, đối tượng của hoạt động NQTM là vô hình - chính là quyền
thương mại - đó là một thể thống nhất tạo bởi rất nhiều các quyền tài sản khác
nhau như quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp (nhãn

hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, bí quyết kỹ thuật…),
quyền kinh doanh theo hệ thống vận hành với phương thức quản lý, tiếp thị,

10
đào tạo của bên nhượng quyền. Trong quan hệ nhượng quyền thương mại, nội
dung cốt lõi chính là việc bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền sử
dụng quyền thương mại của mình trong kinh doanh.
Thứ ba, là mối quan hệ hỗ trợ mật thiết giữa bên nhượng quyền và bên
nhận quyền. Các bên nhận quyền phải tuân thủ trung thành mô hình NQTM,
phải khai thác bí quyết một cách nhất quán trong mạng lưới NQTM. Bên nhận
quyền dùng nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kinh doanh của bên nhượng quyền
để sản xuất, phân phối hàng hoá và cung ứng dịch vụ, đồng thời còn nhận
được sự giúp đỡ về mặt kỹ thuật, đào tạo của bên nhượng quyền trong quá
trình kinh doanh theo hợp đồng NQTM. Chính vì vậy, bên nhượng quyền
luôn có quyền kiểm soát đối với hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền để
đảm bảo tính đồng bộ cho toàn hệ thống nhượng quyền. Ngược lại, bên nhận
quyền khi tham gia vào mạnh lưới kinh doanh nhượng quyền sẽ phải trả cho
bên nhượng quyền các khoản tiền cho việc sử dụng đối tượng NQTM để kinh
doanh cũng như các khoản tiền cho các công việc đào tạo, hỗ trợ mà mình
nhận được. Đây là một đặc điểm giúp chúng ta tìm thấy sự khác biệt của
nhượng quyền thương mại với các hoạt động thương mại khác. Trong nhượng
quyền thương mại luôn tồn tại mối quan hệ hỗ trợ mật thiết giữa bên nhượng
quyền và bên nhận quyền, nếu không có điều đó, thì đã thiếu đi một điều kiện
tiên quyết để xác định hoạt động đấy có phải là nhượng quyền thương mại
hay không. [4]
Thứ tư, NQTM là hoạt động kinh doanh theo mô hình mạng lưới thống
nhất. [3] Điều này thể hiện ở chỗ: thống nhất về hành động của bên nhượng
quyền và các bên nhận quyền nhằm duy trì hình ảnh đặc trưng và duy trì dịch
vụ đặc trưng, thứ hai là thống nhất về lợi ích của bên nhượng quyền và của
bên nhận quyền. Các bên tham gia vào hệ thống NQTM phải có cùng mục

đích chung là bảo vệ hình ảnh, uy tín cho thương hiệu nên cần tuân thủ mô

11
hình kinh doanh một cách chặt chẽ, trung thành để tránh hậu quả đáng tiếc
cho bên nhượng quyền cũng như bên nhận quyền khác.
Thứ năm, hoạt động của hệ thống NQTM thường dẫn tới hệ quả phân
chia thị trường và có thể gây hạn chế cạnh tranh. Hợp đồng NQTM có thể quy
định vấn đề "phân chia thị trường", bao gồm phân chia lãnh thổ (phân chia
khu vực kinh doanh) và phân chia khách hàng. Điều này rất có thể bị điều
chỉnh bằng luật chống độc quyền. Mỗi một bên nhận quyền đều phải tuân thủ
sự phân chia thị trường theo quyết định của bên nhượng quyền. [3]
Với những đặc trưng như trên, NQTM chỉ thích hợp với loại hàng hoá,
dịch vụ theo quy trình công nghiệp có quy mô lớn. NQTM không thích hợp
với hoạt động nhỏ lẻ, sự khéo tay, những sản phẩm đặc biệt như các ngành
nghề thủ công truyền thống…
Trên đây chủ là một số đặc điểm cơ bản của nhượng quyền thương mại,
tuỳ theo từng hình thức nhượng quyền cụ thể mà qua hệ nhượng quyền
thương mại còn có thể có đặc điểm khác.

Theo thông lệ quốc tế, nếu căn cứ vào phạm vi, tính chất của quan hệ
nhượng quyền thì NQTM sẽ được chia thành nhượng quyền sản xuất, nhượng
quyền phân phối sản phẩm và nhượng quyền phương pháp kinh doanh.
Thứ nhất, nhượng quyền sản xuất: Đây là loại hình NQTM theo đó bên
nhận được sử dụng các nguyên liệu đặc thù và có thể là bí quyết kinh doanh
để thực hiện việc sản xuất và phân phối sản phẩm dưới tên thương mại và
nhãn hiệu của bên giao. Bên giao quyền chỉ cung cấp các nguyên liệu đặc thù,
các bí quyết kỹ thuật và cấp lisence quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí
tuệ cho bên nhận để tiến hành kinh doanh.

12

Thứ hai, nhượng quyền phân phối: Đây là loại hình NQTM đơn giản
nhất, mà mối quan hệ giữa hai bên chủ thể (bên giao và bên nhận quyền) thực
chất là quan hệ giữa nhà cung cấp và nhà phân phối. Theo đó bên nhận quyền
chỉ được thực hiện phân phối các sản phẩm cho bên giao quyền sản xuất, cung
cấp dưới thương hiệu của bên giao quyền mà không nhận được sự giúp đỡ, hỗ
trợ nào từ phía nhượng như các hình thức nhượng quyền kinh doanh khác. Có
chăng chỉ là việc bên nhận quyền được sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ thuộc
sở hữu của bên nhượng quyền như tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá, biển
hiệu cửa hàng để kinh doanh. Chính vì vậy, bên nhận quyền cũng tự do hơn
trong việc kinh doanh của mình, ít chịu sự kiểm tra, giám sát của bên nhượng
quyền trong quá trình kinh doanh. Hình thức nhượng quyền này được áp dụng
rộng rãi vào thời kỳ trước chiến tranh thế giới thứ 2 đến nay vẫn còn phổ biến
ở các nước phương tây trong các lĩnh vực như kinh doanh trong các trạm
xăng, dầu, đại lý bán ô tô.
Thứ ba, nhượng quyền phương pháp kinh doanh (nhượng quyền kinh
doanh): đây là hình thức nhượng quyền phổ biến nhất hiện nay, nó là hình
thức kinh doanh hội tụ tất cả các đặc trưng của phương thức NQTM. Nhượng
quyền kinh doanh không đơn thuần là việc bên giao quyền cho phép bên nhận
quyền sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại và bí quyết kinh doanh của mình để
sản xuất và kinh doanh mà nó còn gồm cả việc chuyển giao kỹ thuật kinh
doanh và công thức điều hành quản lý. Bên nhận quyền được phép sử dụng tất
cả các quyền đối với đối tượng kinh doanh của bên nhượng quyền, đó là các
quyền đối với đối tượng kinh doanh của bên giao quyền, đó là các quyền đối
với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh để kinh doanh.
Trong hình thức này, bên nhượng quyền không thực hiện việc sản xuất và
cung cấp sản phẩm cho bên nhận quyền mà thay vào đó là chuyển giao bí
quyết kỹ thuật, các trang thiết bị, nguyên liệu đặc thù cho bên nhận quyền để

13
sản xuất, kinh doanh dưới thương hiệu của bên nhượng quyền. Không những

vậy, bên nhận quyền còn nhận được sự trợ giúp, hỗ trợ của bên nhượng quyền
trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Đổi lại bên nhận quyền phải trả
cho bên nhượng quyền khoản phí nhượng quyền và các khoản lợi tức được
tính hàng năm trong quá trình hợp đồng NQTM có hiệu lực. Mặt khác bên
nhận quyền còn phải tuân thủ tuỵêt đối các quy định kỹ thuật, chuẩn mực do
bên nhượng quyền đặt ra. Hình thức nhượng quyền kinh doanh được áp dụng
nhiều trong các lĩnh vực khách sạn, nhà hàng, ăn uống.
Có thể nói đây là ba hình thức nhượng quyền cơ bản nhất, từ đây có thể
phát triển thành nhiều hình thức nhượng quyền khác. Phụ thuộc vào điều kiện,
hoàn cảnh của mình mà các bên chọn ra hình thức nhượng quyền thương mại
phù hợp để kinh doanh.
1.1.2.4
Hoạt động NQTM ngày càng phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế
giới là một thực tế cho thấy đó là mô hình kinh doanh rất thành công và được
các thương nhận lựa chọn. Đây là phương thức kinh doanh không chỉ mang
lại lợi ích cho các bên tham gia mà còn có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế
quốc gia cũng như nền kinh tế toàn cầu.
*) Đối với bên nhượng quyền
Lợi ích đầu tiên mà bên nhượng quyền nhận được khi kinh doanh
NQTM là nhân rộng mô hình kinh doanh mà không cần bỏ ra nhiều chi phí.
Đây là điều mà bất kỳ thương nhân nào cũng mong muốn bởi lẽ khi mô hình
kinh doanh được nhân rộng đồng nghĩa với thương hiệu của mình sẽ mạnh
lên, có chỗ đứng trên thị trường và tăng khả năng cạnh tranh với các thương
hiệu khác. Đối với một thương nhân không kinh doanh theo mô hình NQTM
thì điều này rất khó khăn bởi chủ thương hiệu sẽ phải tự bỏ ra các khoản chi

14
phí để xây dựng hệ thống cửa hàng của mình, phải tìm hiểu phong tục tập
quán địa phương nơi mình định đặt cửa hàng để có hướng kinh doanh phù
hợp, phải tổ chức quản lý một cách đồng bộ hệ thống kinh doanh nhượng

quyền. Tuy nhiên với những thương nhân kinh doanh NQTM thì những vấn
đề trên không còn là trở ngại, đây chính là lợi ích lớn nhất mà nên nhượng
quyền nhận được khi kinh doanh theo phương thức này.
Khi thực hiện NQTM bên nhượng quyền sẽ nhận được các khoản phí từ
bên nhận quyền, các khoản phí này bao gồm phí nhượng quyền ban đầu, phí
hàng tháng và các loại phí khác, đây là một nguồn thu rất lớn đối với bên
nhượng quyền, thương hiệu càng mạnh thì các khoản phí này càng cao. Như
vậy, ngoài doanh thu từ hoạt động kinh doanh của mình bên nhượng quyền
còn được hưởng một khoản tiền lớn mà chỉ khi kinh doanh NQTM mới có,
hay nói cách khác kinh doanh NQTM giúp bên nhượng quyền tăng doanh thu
của mình một cách đáng kể.
Lợi ích tiếp theo mà bên nhượng quyền nhận được chính là việc tiết
giảm các chi phí như quảng cáo, tiếp thị, các khoản chi mua nguyên liệu đặc
trưng. Đối với các nguyên liệu đặc thù bên nhận quyền phải mua với số lượng
lớn được phân phối cho cả hệ thống cửa hàng nhượng quyền từ phía nhượng
quyền, với số lượng lớn như vậy bên nhượng quyền sẽ mua được nguyên liệu
với giá thấp hơn so với giá thông thường của hàng hoá đó. Các chi phí về
quảng cáo, tiếp thị cũng được tiết giảm nhờ ưu thế chia nhỏ ra cho nhiều đơn
vị hàng cùng mang một nhãn hiệu chia sẻ với nhau thông qua phí hàng hàng
của bên nhận quyền.
*) Đối với bên nhận quyền
Theo con số thống kê ở Mỹ, trung bình chỉ có khoảng 23% doanh nghiệp
nhỏ kinh doanh độc lập có thể tồn tại sau 5 năm kinh doanh, trong khí đó con

15
số này là 92% đối với các doanh nghiệp kinh doanh NQTM. Điều đó cho thấy
tỷ lệ thành công của mô hình kinh doanh này cao hơn nhiều so với các mô
hình khác. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi bên nhận quyền sản xuất, phân phối
hàng hoá và cung ứng dịch vụ dưới nhãn hiệu, thương hiệu của bên nhượng
quyền - thường là những thương hiệu lớn và có sức cạnh tranh trên thị trường.

Bên nhận quyền chỉ cần bỏ ra một khoản tiền và đáp ứng các điều kiện của
bên nhượng quyền là có thể kinh doanh mà không phải tự xây dựng và phát
triển thương hiệu. Đây có thể được coi là khoản đầu tư an toàn và khôn ngoan
của bên nhận quyền vì khi kinh doanh dưới thương hiệu mạnh thì vấn đề hồi
vốn và thu lợi nhuận chỉ trong thời gian ngắn. Điều này chứng minh sức mạnh
của thương hiệu trong quyết định mua hàng của khách hàng, hay nói cách
khác, khi mua nhượng quyền của một sản phẩm đã có thương hiệu thì khá an
tâm vì coi như họ đã chắc chắn có một lượng khách hàng nhất định.
Khi kinh doanh NQTM bên nhận quyền sẽ giảm thiểu được nhiều rủi ro
trong kinh doanh. Bên nhận quyền sẽ nhận được sự giúp đỡ từ bên nhượng
quyền không chỉ trước mà cả sau khi cửa hàng nhượng quyền được khai
trương về các vấn đề như quảng cáo, tiếp thị, đào tạo nhân viên. Mặt khác các
thương hiệu được chuyển nhượng thường đã được bảo hộ sẵn, như vậy bên
nhận quyền không phải mất phí bảo hộ (một khoản phí không nhỏ) như các
thương nhân kinh doanh độc lập khác và cũng không lo bị khiếu kiện liên
quan đến vấn đề bảo hộ. Không chỉ vậy, bên nhận quyền còn được học hỏi
kinh nghiệm quản lý, được tiếp nhận các thiết bị khoa học kỹ thuật tiên tiến từ
bên nhượng quyền. So với các thương nhân kinh doanh độc lập thì đây là
những nguồn lợi rất lớn của thương nhân kinh doanh NQTM.
*) Đối với người tiêu dùng
Hình thức nhượng quyền là hình thức kinh doanh của niền tin và sự cam
kết, làm cho hệ thống được vận hành đúng và quy chuẩn dù ở bất cứ nơi đâu và

16
bất cứ lúc nào. Thành công của hệ thống nhượng quyền không thể được đo
trong ngắn hạn (từ 1 đến 2 năm) mà được đánh giá trong dài hạn. Do vậy, dù ở
bất cứ đâu trên thế giới, người tiêu dùng vẫn có thể thưởng thức những sản
phẩm hay dịch vụ yêu thích của mình tại một trong những cửa hàng được
nhượng quyền mà vẫn giữ nguyên được hương vị hoặc phong cách phục vụ
như nhau. Bản thân các sản phẩm hoặc dịch vụ được nhượng quyền đều đã

được thị trường kiểm chứng và có uy tín đối với người tiêu dùng trong một thời
gian nhất định, nên người tiêu dùng hoàn toàn yên tâm vào chất lượng cũng
như đội ngũ phục vụ. Nhượng quyền thương mại sẽ cung cấp một hệ thống
nhất quán trong quá trình hoạt động, nhờ vậy mà người tiêu dùng sẽ được nhận
chất lượng và giá trị sử dụng đồng đều ở tất cả các điểm nhượng quyền.
Kinh doanh theo hình thức nhượng quyền sẽ khuyến khích việc đa dạng
hoá phục vụ các phân đoạn thị trường, vì vậy có thể đáp ứng tối đa nhu cầu
tiêu dùng của khách hàng tại những thị trường khác nhau. Ví dụ như đối với
sản phẩm thức ăn nhanh, một hãng thức ăn nhanh hoạt động ở những thị
trường của các quốc gia khác nhau thì có thay đổi một phần thực đơn của
mình để phù hợp với khẩu vị của khách hàng.
Sự mở rộng của hoạt động kinh doanh nhượng quyền đưa ra cho người
tiêu dùng khả năng lựa chọn lớn nhất, sự tin tưởng và sự thuận tiện. Người
tiêu dùng có thể lựa chọn cho mình những sản phẩm, những dịch vụ mang
đến cho họ những ích lợi tối đa nhất với sự tin tưởng tuỵêt đối về giá thành,
về chất lượng…
Bên cạnh đó người tiêu dùng được tiếp cận chất lượng đồng nhất của các
sản phẩm và dịch vụ của hệ thống. Một nhà hàng kinh doanh nhượng quyền
bao giờ cũng phải đặt chất lượng lên hàng đầu và tiêu chuẩn chất lượng đó
phải mang tính đồng bộ, thống nhất trên toàn hệ thống. Vì vậy khi tiêu dùng

17
sản phẩm người tiêu dùng có thể tiếp cận được với những sản phẩm, dịch vụ
đảm bảo chất lượng một cách đồng nhất, chất lượng cao của sản phẩm dịch vụ
làm giảm rủi ro và tính không ổn định cho người tiêu dùng.
Mặt khác người tiêu dùng sẽ có được phương thức mua hàng hoá và dịch
vụ có uy tín, thương hiệu đẳng cấp theo một cách dễ dàng và đáng tin cậy.
Không có gì tiện lợi bằng khi mà một người Việt Nam có thể thưởng thức
cùng một loại bánh McDonald's, loại gà ran KFC, loại trà Dilmahs… như hầu
hết mọi người ở Âu, Mỹ, Nhật, mà chất lượng, kiểu dáng, mùi vị không có

sự khác biệt, thì đó chính là lợi ích mà nhượng quyền thương mại đem đến
cho khách hàng.
*) Đối với nền kinh tế
NQTM là phương thức kinh doanh không chỉ có ý nghĩa đối với các bên
chủ thể mà còn tác động rất lớn đến nền kinh tế. Ngay từ khi hình thành,
NQTM đã chứng minh vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy mạnh sản
xuất, tăng nguồn thu cho nền kinh tế, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá hội nhập
kinh tế quốc tế trên thế giới.
Theo ước tính, doanh thu từ kinh doanh NQTM trên thế giới năm 2002
là 1.000 tỷ USD với khoảng 32.000 doanh nghiệp từ 75 ngành khác nhau và
kinh doanh này là một trong những hoạt động tăng trưởng nhanh nhất của nền
kinh tế, hoạt động này cũng thu hút lượng đông đảo lao động, giúp giải quyết
tình trạng thất nghiệp trong xã hội.
Albert Kong - diễn giả quốc tế về NQTM trong một cuộc hội thảo đã ví
NQTM như là hình thức "nhân bản vô tính" trong kinh doanh, cách so sánh
này xuất phát từ đặc tính nổi bật của mô hình kinh doanh NQTM là sự đồng
bộ. Chính đặc điểm này làm cho NQTM trở thành phương thức kinh doanh có
lợi cho người tiêu dùng. Thông qua NQTM khách hàng có thể tiếp cận một

18
cách dễ dàng, nhanh chóng những sản phẩm chính hãng của các thương hiệu
nổi tiếng khắp mọi nơi trên thế giới, người tiêu dùng có thể yên tâm sử dụng
tiền của mình vào các sản phẩm này mà không lo sợ mua phải hàng nhái,
hàng giả và hàng kém chất lượng.
Đối với các thương nhân lần đầu tiên kinh doanh, NQTM là một cách
học rất hay và thiết thực. Thông qua cửa hàng nhượng quyền, doanh nghiệp
mới vào nghề có cơ hội học hỏi kinh nghiệm điều hành từ một hệ thống bài
bản và đã được chứng minh thành công của chủ thương hiệu. Sau khi được
trang bị kiến thức và khả năng thực tế, bên nhận quyền sẽ tự tin hơn nếu
muốn bắt đầu xây dựng mô hình kinh doanh mới, nền kinh tế nói chung sẽ bớt

thiệt hại gây ra bởi những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ do thiếu kinh nghiệm.
Mặt khác, NQTM sẽ làm cho các nền kinh tế trên thế giới xích lại gần
nhau hơn, từ đó có sự giao lưu giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới về
cả kinh tế, văn hoá, chính trị. Vì vậy có thể nói NQTM là một trong các
phương thức giúp thúc đẩy quá trình hội nhập toàn cầu.
Với những ý nghĩa to lớn như vậy, NQTM đang là phương thức kinh
doanh được các doanh nghiệp tin tưởng và lựa chọn, không những thế nó
cũng là mô hình kinh doanh được các quốc gia trên thế giới đánh giá cao
trong việc đưa nền kinh tế phát triển và hội nhập với kinh tế thế giới.
1.1.3. Phân biệt hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại với một số
phƣơng thức kinh doanh khác
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hoạt động chuyển giao công
nghệ và hoạt động li - xăng được hiểu như sau:
- Chuyển giao công nghệ là hình thức mua và bán công nghệ trên cơ sở
hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được thoả thuận phù hợp với các quy
định của pháp luật. Bên bán có nghĩa vụ chuyển giao các kiến thức tổng hợp

19
của công nghệ hoặc cung cấp các máy móc, thiết bị, dịch vụ, đào tạo… kèm
theo các kiến thức công nghệ cho bên mua và bên mua có nghĩa vụ thanh toán
cho bên bán để tiếp thu, sử dụng các kiến thức công nghệ đó theo các điều
kiện đã thoả thuận và ghi nhận trong hợp đồng chuyển giao công nghệ.
- Hoạt động li-xăng là hoạt động chuyển giao quyền sử dụng các đối
tượng của quyền sở hữu công nghiệp.
- Đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và
bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng
hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách
hàng để hưởng thù lao.
1.1.3.1. Nhsence 









Có thể thấy NQTM và lisence giống nhau ở điểm cả hai đều có hoạt
động chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng SHTT, tuy nhiên đây là hai
hoạt động kinh doanh hoàn toàn khác nhau, mà dựa vào các tiêu chí sau ta có
thể phân biệt chúng:
Điểm khác nhau đầu tiên là, đối tượng hợp đồng NQTM rộng hơn so với
hợp đồng lisence. Nếu như hoạt động lisence chỉ dừng lại ở việc chuyển giao
quyền sử dụng các đối tượng SHCN thì ở nhượng quyền thương mại, quyền
sử dụng các đối tượng SHCN chỉ là một phần của việc chuyển giao, bên cạnh
đó, còn là sự chuyển giao về cách thức, bí quyết tiến hành kinh doanh, khẩu
hiệu kinh doanh…
Thứ hai, bên nhận chuyển giao lisence ngoài việc sử dụng đối tượng
SHTT của bên giao thì không còn mối quan hệ nào với chủ thể giao lisence.
Ngược lại, trong hợp đồng NQTM mối quan hệ giữa các chủ thê
̉
rất chặt chẽ,
bên nhận quyền phải tuân theo các quy định tiêu chuẩn kỹ thuật do bên
nhượng quyền đặt ra, đồng thời phải chịu sự kiểm soát của bên nhượng

20
quyền, đổi lại bên nhượng quyền có nghĩa vụ giúp đỡ, hỗ trợ cho bên nhận
quyền trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng.
Thứ ba, về vấn đề phí: phí trong thời gian hợp đồng lisence là phí trả cho
từng đối tượng liscene cụ thể, còn phí trong hợp đồng NQTM chính là khoản

tiền trả cho việc sử dụng tổng hợp mọi quyền SHTT được giao bởi bên
nhượng quyền.
Điểm khác biệt nữa là trong hợp đồng NQTM bên nhượng quyền cho
phép bên nhận quyền được tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh theo
những cách thức của bên nhượng quyền để sản xuất, kinh doanh. Nhưng với
hợp đồng lisence bên nhận chuyển giao chỉ được quyền sử dụng các đối tượng
SHTT để tiến hành kinh doanh và không nhận được sự trợ giúp nào từ bên
chuyển giao lisence, nếu có thì cũng chỉ là sự hỗ trợ ban đầu khi chuyển giao
các đối tượng SHCN. [4]
1.3.1.2. Nh
Chuyển giao công nghệ là việc chuyên giao quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công
nghệ sang bên nhận công nghệ. Như vậy giữa NQTM và chuyển giao công
nghệ có đặc điểm chung chính là ở nội dung chuyển giao quy trình kỹ thuật
và bí quyết kinh doanh, vì thế giữa hai phương thức này nhiều khi vẫn có sự
nhầm lẫn. Tuy nhiên đây là hai hình thức kinh doanh khác nhau về bản chất.
Trước hết, về mặt tính chất của hoạt động, nếu như nhượng quyền
thương mại là phương thức mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thông qua
việc cho phép một doanh nghiệp khác được sản xuất kinh doanh trên cơ sở uy
tín, tên thương mại, công nghệ v.v… của bên nhượng quyền, thì chuyển giao
công nghệ lại chỉ đơn thuần là việc chuyển giao các công nghệ để ứng dụng
nó vào trong quá trình sản xuất. Khi tham gia quan hệ chuyển giao công nghệ,

×