Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Thi hành pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm ở cấp phường trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.24 KB, 87 trang )

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






TRẦN MAI VÂN





THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ VỆ SINH AN TOÀN
THỰC PHẨM Ở CẤP PHƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC











HÀ NỘI – 2013
ii



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





TRẦN MAI VÂN




THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ VỆ SINH AN TOÀN
THỰC PHẨM Ở CẤP PHƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS- TS. NGÔ HUY CƯƠNG






HÀ NỘI - 2013
iii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN



Trần Mai Vân









iv

MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ
AN TOÀN THỰC PHẨM
4
1.1 Khái niệm thi hành pháp luật về an toàn, vệ sinh an toàn thực
phẩm
4
1.1.1 Khái niệm an toàn thực phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm 4
1.1.2 Khái niệm thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm 5
1.2 Sự cần thiết và vai trò của pháp luật về an toàn thực phẩm trong
đời sống xã hội Việt Nam hiện nay
8
1.2.1 Sự cần thiết của pháp luật về an toàn thực phẩm trong đời sống

xã hội Việt Nam hiện nay
8
1.2.2 Vai trò của pháp luật về an toàn thực phẩm trong đời sống xã
hội Việt Nam hiện nay
9
1.3 Các yêu cầu của pháp luật về an toàn thực phẩm 12
1.3.1 Nguyên tắc của pháp luật về an toàn thực phẩm 12
1.3.2 Nội dung chủ yếu của các yêu cầu pháp luật về an toàn thực
phẩm
13
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ AN
TOÀN THỰC PHẨM Ở CẤP PHƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
17
2.1 Tình hình thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm ở cấp
phường trên địa bàn Thành phố Hà Nội
17
2.1.1 Thực trạng an toàn thực phẩm ở cấp phường trên địa bàn Thành
phố Hà Nội
17
v

2.1.2 Nguyên nhân gây mất an toàn thực phẩm 18
2.1.3 Tình hình thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm ở cấp
phường trên địa bàn Thành phố Hà Nội
23
2.2 Những quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh an toàn thực
phẩm
29
2.3 Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về an toàn thực phẩm ở

cấp phường trên địa bàn Thành phố Hà Nội
36
2.3.1 Về thuận lợi trong quá trình áp dụng pháp luật về an toàn thực
phẩm ở cấp phường trên địa bàn Thành phố Hà Nội
36
2.3.2 Những khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật về an toàn
thực phẩm ở cấp phường trên địa bàn Thành phố Hà Nội
38
2.4 Những kết quả đạt được trong quá trình áp dụng pháp luật về an
toàn thực phẩm ở cấp phường trên địa bàn Thành phố Hà Nội
45
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP THI HÀNH PHÁP
LUẬT VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM
53
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về vệ
sinh an toàn thực phẩm
53
3.1.1 Các bất cập trong quy định của pháp luật về vệ sinh an toàn thực
phẩm
53
3.1.2 Hoàn thiện các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm 55
3.2 Giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về an
toàn thực phẩm
59
vi

3.2.1 Đẩy mạnh công tác hoàn thiện các văn bản pháp luật về an toàn
thực phẩm
59
3.2.1.1


Công tác hoàn thiện văn bản pháp luật về an toàn thực phẩm 59
3.2.1.2

Công tác tuyên truyền pháp luật về an toàn thực phẩm 60
3.2.2 Xây dựng chương trình giữa các cơ quan chức năng và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực trong thi hành pháp luật về an toàn
thực phẩm
62
3.2.3 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành
pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm
63
3.2.3.1

Kiểm soát các cơ sở ăn uống và sản xuất thực phẩm 63
3.2.3.2

Kiểm nghiệm chất lượng an toàn thực phẩm 65
3.2.4 Triển khai công tác thi hành pháp luật về vệ sinh an toàn thực
phẩm trong thời gian tới
67

KẾT LUẬN
68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
74













vii


DANH MỤC CÁC BẢNG


TT

Ký hiệu bảng Trang
1
Bảng 2.1. Các nhóm đối tượng hiểu đúng về an toàn thực
phẩm qua các năm
49
2
Bảng 3.1. Tần suất sờ mó của tay với các cơ quan có lông trên
cơ thể
58
1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của nhân dân luôn là mục tiêu của
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. An toàn thực phẩm là một trong những vấn
đề mà các cơ quan nhà nước luôn quan tâm đặc biệt và coi đây là một vấn đề
có ý nghĩa to lớn về kinh tế, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường, sức khỏe nhân
dân và đặc biệt là tiến trình hội nhập của Việt Nam.
Thực tiễn Việt Nam thời gian qua cho thấy, Đảng và Nhà nước ta đã
thường xuyên chỉ đạo và không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản
lý nhà nước về an toàn thực phẩm.
Nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng của công tác bảo đảm an toàn
thực phẩm là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao tầm vóc
và thể chất của người Việt Nam, góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
Ở Việt Nam, mặc dù Luật an toàn thực phẩm được Quốc Hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày
17 tháng 6 năm 2010 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2011;
Nghị định 38/2012/NĐ- CP, ban hành ngày 25 tháng 4 năm 2012 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật an toàn thực phẩm; Nghị định 91/2012/
NĐ-CP, ban hành ngày 08 tháng 11 năm 2012 quy định xử phạt hành chính
về an toàn thực phẩm cùng nhiều văn bản pháp luật khác đã ghi nhận tương
đối toàn diện về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong bảo đảm an
toàn thực phẩm song khả năng áp dụng còn rất nhiều hạn chế, nội dung điều
chỉnh còn mang tính nguyên tắc, khó áp dụng. Hơn nữa, việc đưa các chế tài
mạnh mẽ để xử lý các hành vi vi phạm của mọi tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh thực phẩm còn chưa được chú trọng làm cho pháp luật mất tính
giáo dục, răn đe. Nhiều hành vi đã xác định rõ chế tài xử lý nhưng mức phạt
quá nhẹ khiến cho nhiều cơ sở kinh doanh sẵn sàng nộp phạt để rồi tiếp tục tái
phạm…
2

Từ những nguyên nhân đã trình bày trên, có thể khẳng định rằng,

việc nghiên cứu đề tài “Thi hành pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm ở
cấp Phường trên địa bàn thành phố Hà Nội” có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn, đặc biệt là trước yêu cầu ở nước ta hiện nay.
1. Tình hình nghiên cứu
Tuy có tầm quan trọng như vậy, song pháp luật về an toàn thực phẩm
ở nước ta mới chỉ được quan tâm đúng mức và bắt đầu có một số nghiên cứu
quy mô trong thời gian gần đây. Điều đáng nói là, các kết quả nghiên cứu thu
được cho đến nay còn hết sức khiêm tốn.
Có thể kể đến các công trình như: Điều tra ngộ độc thực phẩm – Tiến
sĩ Trần Thị Phúc Nguyệt – Đại học Y Hà Nội; Một số bệnh truyền qua thực
phẩm; Điều tra vệ sinh an toàn thực phẩm – PGS.TS. Đỗ Thị Hòa – Giảng
viên chính Viện đào tạo Y học dự phòng và y tế công cộng cục an toàn thực
phẩm; Ngộ độc thức ăn- GS.TS. Nguyễn Thị Dụ; “Pháp luật về kiểm soát vệ
sinh an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam” Luận văn
thạc sĩ – Đặng Công Hiển - năm 2010, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội;
“Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm trong Luật hình sự
Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” Luận văn thạc sĩ – Hoàng Trí
Ngọc, năm 2009, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Hầu hết các công trình trên đều ít nhiều đề cập đến việc đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa
học nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống việc thi hành pháp
luật về an toàn thực phẩm ở cấp Phường trên địa bàn thành phố Hà Nội
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về
việc thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm ở cấp Phường trên địa bàn thành
phố Hà Nội , đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này và từ đó
đề xuất một số định hướng và giải pháp hoàn thiện.
Với mục đích trên, Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
3


- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận nhiệm vụ của chính quyền cấp
Phường trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về pháp luật an
toàn thực phẩm trong việc bảo vệ sức khỏe nhân dân;
- Đưa ra một số định hướng và giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật về
việc thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các văn bản quy định và thực
tiễn việc thi hành pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thi hành pháp luật về an toàn thực
phẩm tại cấp Phường trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau: phương pháp
phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp quy nạp -
diễn dịch, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh, …
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1. Khái quát thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm
Chương 2. Thực trạng thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm ở cấp
Phường trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Chương 3. Kiến nghị và giải pháp thi hành pháp luật về an toàn thực
phẩm
4

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN
THỰC PHẨM
1.1. Khái niệm thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm
1.1.1 Khái niệm an toàn, vệ sinh an toàn thực phẩm
Đất nước ta trong những năm gần đây kinh tế phát triển, cuộc sống của

nhiều người dân đã được cải thiện, người tiêu dùng ngày càng có nhu cầu cao
hơn cả về hình thức, chất lượng cũng như cảm quan đối với thực phẩm.
An toàn thực phẩm hay Vệ sinh an toàn thực phẩm hiểu theo nghĩa
hẹp là một môn khoa học dùng để mô tả việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu
trữ thực phẩm bằng những phương pháp phòng ngừa, phòng chống bệnh tật
do thực phẩm gây ra. An toàn thực phẩm cũng bao gồm một số thói quen,
thao tác trong khâu chế biến cần được thực hiện để tránh các nguy cơ gây ảnh
hưởng xấu tới sức khỏe. An toàn thực phẩm luôn là vấn đề được quan tâm
ngày càng sâu sắc trên toàn cầu bởi vai trò quan trọng bậc nhất đó chính là
sức khỏe, tính mạng con người, sự tồn tại và phát triển giống nòi.

Trước đây, theo Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm số 12/2003/PL-
UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, vệ sinh an toàn thực phẩm
được hiểu là việc phải thực hiện các điều kiện và biện pháp cần thiết để bảo
đảm cho thực phẩm không gây hại đến sức khỏe và tính mạng con người.
Tuy nhiên để phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế sau khi Việt Nam
chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào 01/01/2007, khái
niệm này đã được đơn giản hóa, ngắn gọn và phù hợp hơn được thể hiện trong
Luật An toàn thực phẩm có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011, an toàn thực
phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng
con người.
Có thể hiểu một cách đơn giản an toàn thực phẩm là toàn bộ những vấn
đề cần xử lý liên quan đến việc đảm bảo vệ sinh đối với thực phẩm nhằm bảo
vệ cho sức khỏe của người tiêu dùng.
5

Thực phẩm là nhu cầu thiết yếu hằng ngày của con người, cung cấp cho
con người nguồn dinh dưỡng, năng lượng để con người sống và phát triển.
Tuy nhiên khi bị nhiễm khuẩn, nhiễm độc an toàn thực phẩm chưa tốt thì
thực phẩm lại là nguồn truyền bệnh nguy hiểm gây ảnh hưởng nghiêm trọng

đến sự phát triển của con người và xã hội.
An toàn thực phẩm có tác động trực tiếp đến sức khỏe và chất lượng
cuộc sống của con người. Công tác quản lý chất lượng an toàn thực phẩm có
vị trí rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay, đây là một vấn đề “nóng”, bao
gồm nhiều hành vi, hành động và các điều kiện phải tuân thủ, thực hiện nhằm
đưa các loại thực phẩm từ nơi sản xuất, gieo trồng, bảo quản, phân phối đến
nơi chế biến sử dụng. Có rất nhiều mức độ khác nhau, hậu quả gây ra cũng
khác nhau từ khó chịu đến tử vong khi sử dụng những thực phẩm bị ô nhiễm

Theo thống kê của Cục an toàn vệ sinh thực phẩm từ năm 2004 -
2009 đã có 1.058 vụ ngộ độc thực phẩm, trung bình có 176,3 vụ ngộ
độc thực phẩm/năm, tính trung bình tỷ lệ người bị ngộ độc thực phẩm
là 7,1 người/100.000 dân. Năm 2011 từ đầu năm đến giữa tháng 9, cả
nước xảy ra 109 vụ ngộ độc thực phẩm với tổng số 3.654 người mắc, tử
vong 18 người, đi viện 2.812 người. Nguyên nhân ngộ độc thực phẩm
năm 2011 được xác định qua lâm sàng và xét nghiệm cho thấy do độc
tố tự nhiên chiếm 30,3% số vụ, hóa chất chiếm 11,0% số vụ, do vi sinh
vật chiếm 30,3 % số vụ, không rõ nguyên nhân chiếm 28,4 % số vụ
[26].
1.1.2. Khái niệm thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm
Có lẽ chưa bao giờ vấn đề an toàn thực phẩm lại được quan tâm đặc
biệt như trong thời gian gần đây. Trên các mặt báo, các phương tiện thông tin
đại chúng liên tục đưa tin về các hiện tượng vi phạm pháp luật về an toàn thực
phẩm. Hệ thống các văn bản pháp luật như: Luật An toàn thực phẩm được
Quốc Hội nước Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6
6

năm 2010 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011; Nghị định 38/2012/ NĐ
- CP ngày 25/4/2012 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật an toàn thực phẩm; Nghị định 91/2012/NĐ- CP của Chính Phủ ngày

08/11/2012 quy định xử phạt hành chính về an toàn thực phẩm đã tạo một
hành lang pháp lý cho công tác đảm bảo an toàn thực phẩm. Tuy nhiên việc
đưa các văn bản này vào cuộc sống lại là một bài toán khó vì đây là việc mà
các cấp, các ngành và mọi tổ chức cá nhân phải thực hiện tốt việc thi hành
pháp luật.
Thi hành pháp luật là một trong bốn hình thức của thực hiện pháp luật
(Thực hiện pháp luật bao gồm : Tuân thủ pháp luật; Thi hành pháp luật; Sử
dụng pháp luật và Áp dụng pháp luật), theo đó Thi hành pháp luật về an toàn
thực phẩm là việc các chủ thể pháp luật về an toàn thực phẩm phải thực hiện
nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực và chủ động.
Các vấn đề liên quan trực tiếp đến sức khoẻ, chất lượng an toàn thực
phẩm luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà chức trách và người tiêu
dùng. Bên cạnh đó, tại các đô thị lớn với phần đông người tiêu dùng đang
phải đối mặt với vô số khó khăn trước những thách thức của xã hội. Một trong
những khó khăn đó là nguồn cung cấp thực phẩm. Các yếu tố: An toàn, cân
bằng dinh dưỡng, hợp khẩu vị, thuận tiện nhằm thoả mãn nhu cầu và phong
cách sống của người tiêu dùng được đặt ra những thách thức cho các nhà quản
lý và cả chính người tiêu dùng.
Trước tình hình này, hơn ai hết các cấp chính quyền ở địa phương là
nơi gần dân nhất cần phải có những động thái tích cực trong việc thi hành
pháp luật về an toàn thực phẩm. Cần nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước
của Ủy ban nhân dân các cấp, đặc biệt là ở cấp xã, phường, cụ thể:
+Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình với Hội đồng nhân dân cùng
cấp, Ủy ban nhân dân cấp trên ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quy
chuẩn kỹ thuật địa phương. Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch vùng,
cơ sở sản xuất thực phẩm an toàn để bảo đảm việc quản lý được thực hiện
7

trong toàn bộ chuỗi cung cấp thực phẩm. Chính quyền cơ sở phải là người
chủ trì trong các hoạt động nâng cao chất lượng an toàn thực phẩm gắn với

phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
+Nâng cao trách nhiệm quản lý an toàn thực phẩm trên địa bàn thông
qua công tác quản lý điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm đối với các cơ sở
sản xuất, kinh doanh thực phẩm, cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, thức ăn
đường phố, an toàn thực phẩm tại các chợ, đặc biệt là các chợ cóc, chợ tạm
trên địa bàn.
+Báo cáo với cơ quan cấp trên định kỳ và đột xuất về công tác quản lý
an toàn thực phẩm trên địa bàn để có hướng chỉ đạo giải quyết tích cực nhằm
đảm bảo dân sinh.
+Bố trí nguồn lực, nâng cao chất lượng nhân lực cho công tác bảo đảm
an toàn thực phẩm trên địa bàn
+Huy động sự quan tâm, phối kết hợp của các ban ngành đoàn thể
trong các biện pháp giáo dục, tuyên truyền về an toàn thực phẩm nhằm nâng
cao về nhận thức và thực hành của người sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng
thực phẩm. Các trạm Y tế phải thể hiện vai trò tham mưu tích cực
+Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch và đột xuất. Xử
phạt các hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm theo đúng quy định
của pháp luật.
Để làm tốt công tác quản lý về an toàn thực phẩm tại địa phương vấn
đề then chốt là làm thế nào để đưa các quy định của pháp luật về an toàn thực
phẩm gắn kết với đời sống, phù hợp với điều kiện thực tế để từng bước nâng
cao chất lượng thực phẩm, bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng, đóng góp
tích cực vào phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Công tác đảm bảo an toàn thực phẩm để thực hiện tốt cần những nỗ lực
rất lớn của chính phủ, các bộ ngành và của toàn xã hội. Việc đưa Luật An
toàn thực phẩm vào cuộc sống có ý nghĩa quyết định với kết quả của công tác
này. Để phù hợp với xu hướng quốc tế khi tham gia vào WTO một số khái
8

niệm về an toàn thực phẩm đã thay đổi được quy định cụ thể tại Điều 2 Luật

An toàn thực phẩm số 55/2010/QH12.
Các khái niệm này đã thể hiện sự khác biệt với Pháp lệnh vệ sinh an
toàn thực phẩm năm 2003 được thể hiện rõ nét hơn, chi tiết hơn, là công cụ để
góp phần bảo vệ tốt hơn sức khỏe, tính mạng của nhân dân, góp phần phát
triển kinh tế- xã hội của đất nước.
1.2. Sự cần thiết và vai trò của pháp luật về an toàn thực phẩm
trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay
1.2.1. Sự cần thiết của pháp luật về an toàn thực phẩm trong đời
sống xã hội Việt Nam hiện nay
Từ ngày 01/01/2007, Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO) nên phải từng bước tuân thủ các hiệp định
của Tổ chức này. Theo đó trong điều kiện hội nhập, cần thiết phải có cơ chế
pháp lý về việc thừa nhận tiêu chuẩn lẫn nhau giữa Việt Nam và các quốc gia
trong khu vực cũng như thế giới. Việt Nam cần phải nội luật hóa các quy định
của Quốc tế về an toàn thực phẩm để có cơ sở pháp lý thực hiện, đặc biệt là
việc áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến trong quản lý thực phẩm.
Ở Việt Nam vấn đề an toàn thực phẩm vẫn đang diễn biến hết sức phức
tạp. Thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin về các vụ
ngộ độc, có nơi số lượng lên tới vài trăm người.
Theo thống kê của Bộ Y tế trong những năm gần đây, hàng năm
có 200-600 vụ ngộ độc thức ăn, khoảng 5000- 7000 người mắc bệnh,
trong đó có vài chục người chết. Khoảng 20-30 % là ngộ độc do hóa
chất (chủ yếu là thuốc bảo vệ thực vật, khoảng 50% là do vi sinh vật,
14-20% do thức ăn có độc… [43].
Tâm lý thích dùng hàng ngoại đã đi sâu vào tiềm thức tiêu dùng của
người dân, tuy nhiên một trong những vấn đề mà người Việt đáng lo ngại là
hạn sử dụng của đồ “Tây”:
9

Tháng 6 /2012 đội quản lý thị trường số 26 Hà Nội đã phối hợp

với cảnh sát môi trường phát hiện một lô hàng bánh kẹo ngoại vận
chuyển lên Hòa Bình có dấu hiệu sửa hạn sử dụng. Tại kho của công ty
nhập khẩu ở Thanh Xuân, Hà Nội, cơ quan quản lý đã mất nhiều giờ
đồng hồ kiểm đếm một kho lớn chứa đến 8 tấn bánh kẹo đều đã cận hạn
hoặc hết hạn dùng, được tẩy hạn cũ và dập hạn mới sang đến năm 2013
[28].
Các vụ việc vi phạm đến an toàn thực phẩm diễn ra thường xuyên và có
chiều hướng phức tạp gia tăng:
6 tháng đầu năm 2012, Cục quản lý thị trường đã có 13 văn bản
chỉ đạo triển khai kiểm tra, kiểm soát thị trường thực phẩm, lực lượng
quản lý thị trường đã phát hiện xử lý 4.607 vụ vi phạm về vệ sinh an
toàn thực phẩm với số tiền xử phạt vi phạm hành chính 17.516.804
triệu đồng. Trị giá hàng vi phạm 4.546.474 triệu đồng. Một số mặt
hàng vi phạm đã bị xử lý, tiêu hủy 67.000 hộp thực phẩm; 77.124 con
gia cầm; 75 tấn sản phẩm gia súc, gia cầm, 2.156.240 quả trứng gia
cầm; 75 tấn sản phẩm gia súc, gia cầm; 1.500 kg nầm động vật; 1.140
chai mắm tôm… [28].
Đã đến lúc toàn xã hội tiến lên một nấc thang mới trong việc bảo vệ
cuộc sống, sức khỏe của mình và điều quan trọng nhất là tôn trọng và chấp
hành các quy định về an toàn thực phẩm.
1.2.2. Vai trò của pháp luật về an toàn thực phẩm trong đời sống xã
hội Việt Nam hiện nay:
Hiện nay các vấn đề liên quan trực tiếp đến sức khoẻ, chất lượng an
toàn thực phẩm là mối quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng. Nhất là cuộc
sống đô thị luôn gấp gáp khiến người tiêu dùng luôn đòi hỏi các yếu tố: An
toàn, cân bằng dinh dưỡng, hợp khẩu vị, thuận tiện nhằm thoả mãn nhu cầu
thay đổi phong cách sống của người tiêu dùng.
10

Vấn đề an toàn thực phẩm hiện nay ở nước ta còn nhiều tồn tại. Các vụ

ngộ độc thực phẩm cấp tính vẫn thường xuyên xảy ra ở các thành phố cũng
như ở nông thôn và có chiều hướng tăng năm sau cao hơn năm trước. Đó là
chưa kể đến sự ngộ độc do sự tích luỹ độc chất trong cơ thể và phát sinh
những căn bệnh hiểm nghèo như ung thư.
Nguồn gốc nguyên nhân gây ngộ độc là do môi trường sản xuất nông
nghiệp gồm đất, nước tưới tiêu không đảm bảo; kỹ thuật canh tác trong trồng
trọt và chăn nuôi còn nhiều bất cập như lạm dụng phân bón, hoá chất bảo vệ
thực vật, thuốc kháng sinh, hormone sinh trưởng ; công nghệ sau thu hoạch
như hoá chất sử dụng trong bảo quản, kỹ thuật bảo quản cũng như thiết bị bảo
quản, việc chế biến thực phẩm (dùng chất phụ gia, chất bảo quản, thiết bị chế
biến) chưa tuân thủ các quy định hiện hành.
Đối với bất kỳ loại thực phẩm nào khi đưa ra thị trường cần được xác
định rõ về xuất xứ, ghi rõ những hàm lượng, chất lượng và chỉ dẫn rõ ràng để
tiện dụng cho người tiêu dùng. Muốn vậy, ngay từ bây giờ chúng ta phải xây
dựng cơ chế quản lý chuỗi thực phẩm một cách hệ thống, nhằm bảo đảm mỗi
loại thực phẩm đều có "lý lịch" rõ ràng, an toàn. Đây cũng là yêu cầu bắt buộc
để từ đó cơ quan chức năng có thể truy cứu trách nhiệm khi có sự cố, tổn thất
đối với người tiêu dùng. Rất cần có các dụng cụ để kiểm tra nhanh các kim
loại nặng, các vi sinh vật gây bệnh với giá thành thật rẻ, tiện lợi để bất kỳ
người tiêu dùng nào cũng có thể sử dụng được.
Việc quảng cáo những thực phẩm có hàm lượng chất béo, chất đường
và muối cao đã ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ em, làm cho chúng thích ăn những
loại đồ ăn trên và dẫn tới béo phì. Ở Việt Nam, với việc đời sống được cải
thiện, nhiều trẻ em ở thành thị đang bị béo phì, dẫn đến nguy cơ gặp nhiều
vấn đề về sức khỏe trong tương lai do đó rất cần phải đấu tranh ngăn chặn
việc tiếp thị những thực phẩm có hại cho sức khoẻ trẻ em. Cụ thể: cấm quảng
cáo những loại thực phẩm không có lợi cho sức khoẻ trong trường học; không
bán các loại thực phẩm có kèm tặng phẩm, đồ chơi, các bộ sưu tập để dụ dỗ
11


trẻ em tiêu dùng thực phẩm không có lợi cho sức khoẻ; không lợi dụng các
thần tượng, tổ chức các cuộc thi, tranh hoạt hình để tiếp thị thực phẩm không
có lợi cho sức khoẻ
Quyền lợi của người tiêu dùng nước ta bị xâm hại nghiêm trọng. Hiện
chưa có số liệu chính xác nào về tổn thất vật chất, nhưng những thiệt hại về
sức khỏe, thậm chí đe dọa tính mạng người tiêu dùng, thì đã rõ và được đề
cập liên tục trên phương tiện thông tin đại chúng. Điều đó phản ánh hệ thống
pháp luật, chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng ở Việt Nam thời gian qua còn lỏng lẻo và thiếu tính răn đe.
An toàn thực phẩm trong cả nước nói chung và của Thành phố Hà Nội
nói riêng đang tạo nhiều lo lắng cho người dân. Trên thực tế, nhiều sự kiện
như việc tiếp tục sử dụng những hoá chất cấm dùng trong nuôi trồng, chế biến
nông thủy sản, thực phẩm, việc sản xuất một số sản phẩm kém chất lượng
hoặc do quy trình chế biến hoặc do nhiễm độc từ môi trường, đang gây ảnh
hưởng xấu đến xuất khẩu và tiêu dùng. Các vụ ngộ độc thực phẩm do một số
bếp ăn tập thể cung cấp, nhiều thông tin liên tục về tình hình an toàn thực
phẩm ở một vài nước trên thế giới, cộng thêm dịch cúm gia cầm tái phát, bệnh
heo tai xanh ở một số nơi trên đất nước càng làm bùng lên sự lo âu của cộng
đồng.
Gần đây một số vấn đề liên quan đến quản lý an toàn vệ sinh thực
phẩm, sự khác biệt giữa các kết quả phân tích kiểm tra chất lượng sản phẩm
vừa gây không ít khó khăn cho người sản xuất vừa tạo thêm lo lắng cho người
tiêu dùng trong khi chúng ta đang cố gắng tạo những ưu thế về nhiều mặt để
có nhiều lợi thế nhất với cương vị một thành viên bình đẳng của WTO.
Vấn đề then chốt là làm thế nào quản lý được tốt chất lượng an toàn
thực phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, bảo đảm an toàn
cho người tiêu dùng, đóng góp được phần quan trọng vào phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước.
12


1.3. Các yêu cầu của pháp luật về an toàn thực phẩm
1.3.1. Nguyên tắc của pháp luật về an toàn thực phẩm
Tại Điều 3 của Luật An toàn thực phẩm số 55/2010/QH12 quy định:
1. Bảo đảm an toàn thực phẩm là trách nhiệm của mọi tổ chức,
cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
2. Sản xuất, kinh doanh thực phẩm là hoạt động có điều kiện; tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm phải chịu trách nhiệm
về an toàn đối với thực phẩm do mình sản xuất, kinh doanh.
3. Quản lý an toàn thực phẩm phải trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật
tương ứng, quy định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và
tiêu chuẩn do tổ chức, cá nhân sản xuất công bố áp dụng.
4. Quản lý an toàn thực phẩm phải được thực hiện trong suốt
quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên cơ sở phân tích nguy cơ
đối với an toàn thực phẩm.
5. Quản lý an toàn thực phẩm phải bảo đảm phân công, phân
cấp rõ ràng và phối hợp liên ngành.
6. Quản lý an toàn thực phẩm phải đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. [51].
Quản lý Nhà nước về an toàn thực phẩm là vấn đề rộng lớn, bao gồm
nhiều ngành cùng tham gia trong đó ngành y tế là đầu mối. Trong những năm
gần đây do đổi mới chính sách kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
chuyển sang kinh tế thị trường nhiều thành phần. Công tác quản lý về an toàn
thực phẩm cần đáp ứng kịp sự phát triển của kinh tế xã hội ở Việt Nam và liên
tục được cải cách:
13

Công tác thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm dựa trên một
tam giác hạ tầng vững chắc:











Nguyên tắc thực hiện:
- Chính quyền cơ sở phải là người chủ trì trong các hoạt động vì
chất lượng vệ sinh thực phẩm gắn với phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương.
- Y tế: Phải làm được vai trò tham mưu thông minh
- Giáo dục - tuyên truyền tới các đối tượng
- Huy động các ngành, tổ chức tham gia
- Cam kết của chủ hộ, chủ cơ sở về việc thực hiện đầy đủ tiêu
chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Duy trì giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý kịp thời. [32]
1.3.2. Nội dung chủ yếu của các yêu cầu pháp luật về an toàn
thực phẩm
Thức ăn khi bị nhiễm khuẩn, nhiễm độc, an toàn thực phẩm chưa tốt là
hiện tượng phổ biến đã gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người, ảnh
hưởng đến lao động sản xuất và chất lượng cuộc sống.
Sự nhiễm phân, nhiễm bẩn có thể từ những dụng cụ chế biến, bao gói,
từ tay người bán hàng, từ nguồn nước, từ cống rãnh, rác thải gần nơi bày bán
Luật thực phẩm
(Bao hàm cả các văn
bản pháp quy, tiêu
chuẩn, chính
sách)

Thanh tra thực phẩm
(Bao hàm cả các văn
bản pháp quy, tiêu
chuẩn, chính
sách)

Kiểm nghiệm thực
phẩm
14

thực phẩm không che chắn ruồi, nhặng, kiến, gián, có thể do thức ăn chưa
chín kỹ, khâu bảo quản, chế biến không đảm bảo, ý thức của người bán hàng
coi nhẹ việc khám sức khỏe đúng quy trình, thực phẩm không rõ nguồn gốc.
Đáng nói hơn cả là sự nhận thức hiểu biết của người dân, người mua, người
bán về vệ sinh an toàn thực phẩm còn thấp, thói quen dễ dãi với ăn uống …
tiềm ẩn nguy cơ cao về ngộ độc thực phẩm.
Để giải quyết những vấn đề trên và cải thiện sức khỏe cộng đồng, các
văn bản pháp luật về an toàn thực phẩm đã mang lại nền tảng pháp lý, niềm
tin cho người tiêu dùng, có tính răn đe các hành vi vi phạm pháp luật về an
toàn thực phẩm. Các hành vi bị cấm đã được nêu ra khá cụ thể để người tiêu
dùng có thể nhận diện được như:
1. Sử dụng nguyên liệu không thuộc loại dùng cho thực phẩm để
chế biến thực phẩm.
2. Sử dụng nguyên liệu thực phẩm đã quá thời hạn sử dụng,
không rõ nguồn gốc, xuất xứ hoặc không bảo đảm an toàn để sản xuất,
chế biến thực phẩm.
3. Sử dụng phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm
đã quá thời hạn sử dụng, ngoài danh mục được phép sử dụng hoặc
trong danh mục được phép sử dụng nhưng vượt quá giới hạn cho phép;
sử dụng hóa chất không rõ nguồn gốc, hóa chất bị cấm sử dụng trong

hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
4. Sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc chết không rõ
nguyên nhân, bị tiêu hủy để sản xuất, kinh doanh thực phẩm. [51]
Hiện nay, trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh không ít trường
hợp đạo đức, ý thức của người kinh doanh kém dẫn đến những sai
phạm nghiêm trọng gây ảnh hưởng đến lòng tin của người tiêu dùng
như:
a) Thực phẩm vi phạm quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa;
b) Thực phẩm không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật tương ứng;
15

c) Thực phẩm bị biến chất;
d) Thực phẩm có chứa chất độc hại hoặc nhiễm chất độc, tác
nhân gây ô nhiễm vượt quá giới hạn cho phép;
đ) Thực phẩm có bao gói, đồ chứa đựng không bảo đảm an toàn
hoặc bị vỡ, rách, biến dạng trong quá trình vận chuyển gây ô nhiễm
thực phẩm;
e) Thịt hoặc sản phẩm được chế biến từ thịt chưa qua kiểm tra
thú y hoặc đã qua kiểm tra nhưng không đạt yêu cầu;
g) Thực phẩm không được phép sản xuất, kinh doanh để phòng,
chống dịch bệnh;
h) Thực phẩm chưa được đăng ký bản công bố hợp quy tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp thực phẩm đó thuộc
diện phải được đăng ký công bố hợp quy;
i) Thực phẩm không rõ nguồn gốc, xuất xứ hoặc quá thời hạn
sử dụng.
6. Sử dụng phương tiện gây ô nhiễm thực phẩm, phương tiện đã
vận chuyển chất độc hại chưa được tẩy rửa sạch để vận chuyển nguyên
liệu thực phẩm, thực phẩm.
7. Cung cấp sai hoặc giả mạo kết quả kiểm nghiệm thực phẩm.

8. Che dấu, làm sai lệch, xóa bỏ hiện trường, bằng chứng về sự
cố an toàn thực phẩm hoặc các hành vi cố ý khác cản trở việc phát
hiện, khắc phục sự cố về an toàn thực phẩm.
9. Người mắc bệnh truyền nhiễm tham gia sản xuất, kinh doanh
thực phẩm.
10. Sản xuất, kinh doanh thực phẩm tại cơ sở không có giấy
chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm theo quy định của
pháp luật.
11. Quảng cáo thực phẩm sai sự thật, gây nhầm lẫn đối với
người tiêu dùng.
16

12. Đăng tải, công bố thông tin sai lệch về an toàn thực phẩm
gây bức xúc cho xã hội hoặc thiệt hại cho sản xuất, kinh doanh.
13. Sử dụng trái phép lòng đường, vỉa hè, hành lang, sân chung,
lối đi chung, diện tích phụ chung để chế biến, sản xuất, kinh doanh
thức ăn đường phố. [51]
Để góp phần triển khai có hiệu quả vấn đề an toàn thực phẩm trong tình
hình mới, ngày 04/01/2012 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
20/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược quốc gia an toàn thực phẩm giai đoạn 2011
- 2020 và tầm nhìn 2030:
a) Bảo đảm an toàn thực phẩm chính là bảo đảm quyền lợi
người tiêu dùng và sức khỏe nhân dân, là một nhiệm vụ thường xuyên
cần tập trung chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, là trách
nhiệm và quyền lợi của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
thực phẩm và mỗi người dân.
b) Tổ chức thực hiện đồng bộ các quy định pháp luật về an
toàn thực phẩm, chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, đẩy mạnh
việc áp dụng các biện pháp tiên tiền trong quản lý an toàn thực phẩm.
c) Tăng cường công tác thông tin, truyền thông nhằm tạo sự

chuyển biến sâu sắc trong nhận thức của người sản xuất, người tiêu
dùng và toàn xã hội về giữ gìn vệ sinh, bảo đảm an toàn thực phẩm. [58]
17

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN
THỰC PHẨM Ở CẤP PHƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Tình hình thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm ở cấp
phường trên địa bàn Thành phố Hà Nội
2.1.1. Thực trạng an toàn thực phẩm ở cấp phường trên địa bàn
Thành phố Hà Nội
Đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn (gọi là đơn vị hành chính cơ
sở) có vai trò rất quan trọng, đó chính là nơi diễn ra các hoạt động của xã hội.
Các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước muốn đi vào
đời sống xã hội đều cần phải đến tận cơ sở để mọi người thực hiện.
Ở đơn vị hành chính cơ sở, chính quyền nhà nước được cấu tạo bằng 2
cơ quan: Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn với tư cách là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, cơ quan đại biểu nhân dân địa phương; Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân,
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước ở cơ sở, Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn chịu trách nhiệm quản lý hành chính nhà nước ở địa
phương, chịu trách nhiệm về việc thi hành Hiến pháp, pháp luật và các văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên tại địa phương; báo cáo công tác với Ủy
ban nhân dân cấp trên trực tiếp; báo cáo công tác với Hội đồng nhân dân cấp
cơ sở và chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp là cơ quan quyền
lực nhà nước ở cơ sở.
Nghị định 38/2012/NĐ- CP ngày 25/4/2012 quy định chi tiết một số
điều của Luật an toàn thực phẩm quy định tại điều 23:
Ủy ban nhân dân xã, phường chịu trách nhiệm trước Ủy ban
nhân dân quận, huyện về an toàn thực phẩm trên phạm vi địa bàn.

a, Tổ chức, điều hành Ban chỉ đạo liên ngành về vệ sinh an toàn
thực phẩm xã, phường;
18

b, Thực hiện các quy định của Chính phủ, các Bộ, ngành và Ủy
ban nhân dân cấp trên về an toàn thực phẩm;
c, Chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân Quận, huyện về
quản lý các hoạt động kinh doanh thức ăn đường phố, nhà hàng, khách
sạn trên địa bàn xã, phường theo phân cấp [20].
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ
quan hành chính nhà nước có trách nhiệm thực hiện việc quản lý nhà nước
trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội tại địa phương theo pháp luật. Việc bảo đảm
an toàn thực phẩm cho nhân dân trên địa bàn là một nhiệm vụ trọng tâm trong
những năm gần đây, với tình hình diễn biến hết sức phức tạp:
Vừa qua, quản lý thị trường Hà Nội đã phát hiện những kho
chứa tới 20 tấn thịt và phụ phẩm gia cầm đã qua chế biến sẵn, tình
trạng nhập giống gia cầm từ Trung Quốc với giá rẻ 2.000-2.500 đ / con
vào đến trại sản xuất giống ở Hà Nội thành 8.000 đ/ con do chưa được
kiểm dịch nguy cơ lây nhiễm bệnh từ thực phẩm chế biến sẵn hoặc
giống gia cầm nhập lậu này là rất lớn. Do diễn biến mới của dịch cúm
A/ H7N9 việc đối mặt với nguy cơ dịch chồng dịch là rất lớn khi Hà
Nội hiện có hơn 1,5 triệu học sinh từ mầm non đến Trung học phổ
thông và Cao đẳng [54].
2.1.2. Nguyên nhân gây mất vệ sinh an toàn thực phẩm
Con đường gây ô nhiễm vào thực phẩm có thể ngay từ quá trình sản
xuất nông sản, thực phẩm, thủy hải sản ngay trên cánh đồng, trong chuồng
trại, tại sông hồ, ao, biển cho đến quá trình sản xuất chế biến, bảo quản, vận
chuyển và sử dụng thực phẩm.
An toàn thực phẩm của một loại sản phẩm được quyết định tại tất cả
các công đoạn của chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ thực phẩm, từ nhà sản xuất,

nhà sơ chế đóng gói, nhà vận chuyển đến người tiêu dùng. Từ chuỗi sản xuất
này, ai cũng biết muốn đảm bảo an toàn thực phẩm phải quản lý từ gốc sản
xuất, từ đồng ruộng. Nhưng đa phần là nông dân nghèo, tự do làm, nhỏ lẻ lại

×