ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THU HƢƠNG
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2012
Công trình đƣợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan Hƣơng
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2012
Có thể tìm hiểu luận văn tại
Trung tâm tƣ liệu Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tƣ liệu – Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội
MỤC LỤC
Mục
Nội dung
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
LỜI MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ NỢ QUÁ
HẠN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
6
1.1.
Những vấn đề lý luận về nợ quá hạn và hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại
6
1.1.1.
Khái niệm cho vay và hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
6
1.1.2.
Khái niệm nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng
thương mại
10
1.1.3.
Nguyên nhân nợ quá hạn
15
1.1.3.1.
Nợ quá hạn do những nguyên nhân khách quan
15
1.1.3.2.
Nợ quá hạn do những nguyên nhân chủ quan
18
1.1.4.
Phân loại nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng
thương mại
20
1.1.5.
Sự ảnh hưởng của nợ quá hạn đối với hoạt động cho vay của
Ngân hàng thương mại
22
1.1.6.
Nguyên tắc xử lý nợ quá hạn
24
1.1.7.
Biện pháp xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của Ngân
hàng thương mại
27
1.2.
Khái quát pháp luật về xử lý nợ quá hạn
30
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ QUÁ
HẠN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
34
2.1.
Căn cứ xác định nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại ở Việt Nam
34
2.2.
Quản lý và hạn chế nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại ở Việt Nam
38
2.3.
Biện pháp xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
44
2.4.
Trình tự, thủ tục xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại
46
2.4.1.
Xử lý nợ quá hạn trong một số trường hợp
46
2.4.2.
Các bước khi xử lý tài sản bảo đảm
54
2.5.
Mua nợ quá hạn của Ngân hàng thương mại bởi công ty mua bán nợ
58
2.6.
Quản lý và giám sát về xử lý nợ quá hạn của Ngân hàng nhà nước
65
2.7.
Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý nợ quá
hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
66
2.8.
Kinh nghiệm của một số nước về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động
cho vay của Ngân hàng thương mại và bài học kinh nghiệm đối với
Việt Nam
78
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ HẠN CHẾ VÀ XỬ LÝ
NỢ QUÁ HẠN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
82
3.1.
Tình hình nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng
thương mại ở Việt Nam
82
3.2.
Định hướng hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt
động cho vay của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
84
3.3.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý
nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại Việt Nam
85
3.3.1.
Thực hiện đúng quy trình tín dụng khi cho vay
86
3.3.2.
Kiểm tra giám sát khách hàng vay vốn, theo dõi rủi ro có thể xảy ra
đối với các khoản cho vay
86
3.3.3.
Sửa đổi các quy định về phân loại nợ
86
3.3.4.
Lãi suất nợ quá hạn
87
3.3.5.
Về thời gian gia hạn nợ vay
88
3.3.6.
Về thời hiệu khởi kiện
88
3.3.7.
Sửa đổi các quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay
89
3.3.8.
Xây dựng và hoàn thiện thị trường mua bán nợ
90
3.3.9.
Hoàn thiện pháp luật về công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực
thuộc Ngân hàng thương mại
92
3.3.10.
Quy định bổ sung các biện pháp xử lý nợ quá hạn
93
3.3.11.
Quy định nghĩa vụ bắt buộc bảo hiểm tín dụng
93
KẾT LUẬN CHUNG
96
TÀI LIỆU THAM KHẢO
99
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AMC
Công ty quản lý nợ và khai thác tài
sản trực thuộc ngân hàng thương mại
BHTDXK
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
CIC
Trung tâm thông tin tín dụng
DATC
Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn
đọng doanh nghiệp
DN
Doanh nghiệp
NH
Ngân hàng
NHNN
Ngân hàng nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTƯ
Ngân hàng trung ương
NQH
Nợ quá hạn
TCTD
Tổ chức tín dụng
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Pháp luật về NH có vị trí quan trọng trong lĩnh vực pháp luật kinh tế và
là bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường. Luật các TCTD
2010 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII
kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16-6-2010, có hiệu lực từ ngày 01-01-2010.
Việc ban hành Luật các TCTD 2010 là kết quả của tập thể những người có trí
tuệ, tiếp thu từ những bài học thực tiễn, từ những kinh nghiệm hay của các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Chúng ta biết rằng kinh doanh NH mang trong mình rất nhiều rủi ro
tiềm ẩn, rủi ro luôn có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Chấp nhận rủi ro trong kinh
doanh là quy luật tất yếu của các thương nhân từ ngàn xưa, đây là một quy
luật song hành “lợi nhuận càng tăng thì rủi ro càng cao”. Trong kinh tế thị
trường thì rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh khỏi, dưới giác độ là một
tổ chức kinh doanh, NHTM cũng chịu sự tác động và chịu tác động của môi
trường chính yếu và môi trường thứ yếu. Mối quan hệ giữa hai môi trường
này xoay quanh trung tâm hạt nhân “Vận hội và thách thức đối với các tổ
chức kinh tế” hay còn gọi là rủi ro môi trường. Trong môi trường cạnh tranh
toàn cầu, xu hướng hợp nhất khu vực ngày càng phát triển, các vận hội sẽ
xuất hiện, là thời cơ cho các NH lớn mạnh. Song bên cạnh đó cũng tồn tại
song hành các nguy cơ rất lớn từ môi trường kinh tế, xã hội, chính trị, pháp
luật, cạnh tranh ảnh hưởng to lớn đến hoạt động kinh doanh của NH, mà đặc
biệt là rủi ro trong hoạt động kinh doanh NH có phản ứng dây truyền, lây lan
và ngày càng có những biểu hiện phức tạp. Rủi ro trong các hoạt động kinh
doanh của NH nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng là một phạm trù tiềm ẩn,
nó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào và làm sai lệch, đảo lộn kết quả hoạt động kinh
doanh NH. Do vậy hệ thống pháp luật về NH mà đặc biệt là vấn đề xử lý
NQH trong hoạt động kinh doanh NH đóng vai trò quan trọng và là mối quan
2
tâm hàng đầu không chỉ diễn ra trên phương diện lý thuyết mà còn được đặc
biệt chú trọng trong hoạt động thực tiễn của các NHTM.
Hoạt động cho vay luôn luôn tiềm ẩn các rủi ro bởi đây là yếu tố gắn liền
với hoạt động kinh doanh nói chung. Trong các rủi ro này thì rủi ro tín dụng
là nghiêm trọng nhất, bởi nếu NH không kiểm soát được sẽ dẫn đến hậu quả
khôn lường đó là sự đổ vỡ của cả hệ thống NH, gây ảnh hưởng đến cả nền
kinh tế, vì vậy ở đây tác giả chỉ nghiên cứu, phân tích các quy đinh pháp luật
về NQH để hiểu một cách sâu sắc thực trạng này. Từ đó có thể đề ra một số
biện pháp khắc phục nhằm làm cho hệ thống NHTM hoạt động một cách lành
mạnh và hiệu quả hơn, góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế trong điều
kiện kinh tế hội nhập hiện nay.
Tác giả chọn đề tài này nghiên cứu với mong muốn nghiên cứu môt cách
có hệ thống các quy định của pháp luật NH, đặc biệt là về thực tiễn xử lý
NQH tại các NHTM Việt Nam, từ đó rút ra những mặt tích cực cũng như
những hạn chế đồng thời có thể đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn
thiện các quy định pháp luật hiện hành. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế
đất nước và song song với việc hội nhập nền kinh tế quốc tế, nhất là khi
chúng ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì vấn đề tiếp tục
hoàn thiện môi trường kinh doanh, các quy định pháp lý là một vấn đề hết sức
quan trọng. Nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần thực hiện mục tiêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu và ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài
Hiện nay ở nước ta có nhiều công trình nghiên cứu như các đề tài cấp
bộ, cấp sở và các cơ quan chức năng đã tổ chức những hội thảo đề cập hoặc
nghiên cứu một số khía cạnh của pháp luật về giải quyết NQH cũng như tình
hình xử lý giải quyết đối với các khoản nợ trên, mỗi nhà khoa học có cách
tiếp cận đề tài này ở nhiều góc độ khác nhau. Ví dụ như bài “Trao đổi về giải
pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam” của TS. Lê Quốc Lý, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư. “Giải quyết nợ xấu và ngăn chặn nợ xấu phát sinh” của
Trần Đình Định, phó Tổng giám đốc NH Nông nghiệp và phát triển nông
3
nghiệp nông thôn Việt Nam; “Cần gắn việc xử lý nợ tồn đọng trong quá trình
tái cơ cấu NHTM Việt Nam với tổng thể xử lý công nợ dây dưa của nền kinh
tế quốc dân” của TS. Nguyễn Viết Hồng, Giám đốc công ty AMC-NH Đầu tư
và Phát triển Việt Nam. Tuy nhiên công trình nghiên cứu đó chỉ khảo sát,
bình luận, nghiên cứu về mặt lý luận chứ chưa có công trình nào về đi sâu về
các khía cạnh luật pháp giúp nâng cao hiệu quả giải quyết NQH ở NHTM, do
đó đề tài này phần nào đáp ứng tính cần thiết của việc nghiên cứu trong tình
hình hiện nay, khi mà các quy định về giải quyết NQH đang bộc lộ nhiều bất
cập, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung ở góc độ luật pháp. Việc nghiên cứu một
cách có hệ thống vấn đề này mang ý nghĩa lý luận thực tiễn sâu sắc.
Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng những quy phạm pháp
luật đầy đủ, phù hợp với đòi hỏi thực tiễn, những kiến nghị của đề tài hy vọng
sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp
luật Việt Nam. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên
cứu sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị nhất định.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung, các văn bản hướng dẫn thi
hành. Trong đó có các Thông tư, các quyết định của NHNN, hướng dẫn các
vấn đề liên quan của các bộ. Trong nội dung trình bày tác giả sẽ đưa ra những
nhận xét, đánh giá xu hướng của việc áp dụng các quy định của pháp luật về
giải quyết NQH, qua đó nêu lên những kiến nghị có thể áp dụng cho Việt
Nam trong việc hoàn thiện pháp luật đối với lĩnh vực NH đặc biệt trong giai
đoạn hội nhập kinh tế, quốc tế.
Với mục đích trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm sáng tỏ về mặt lý luận các khái niệm về NQH
- Nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành
về xử lý NQH, những kết quả đã đạt được và những bất cập trong việc xử
lý NQH của các NHTM trong những năm qua.
4
- Từ kinh nghiệm xử lý NQH của một số nước trên thế giới và thực tế
tình hình ở Việt Nam đưa ra nhưng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử
lý NQH ở các NHTM.
4. Đối tƣợng, phạm vi, phƣơng pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xử lý NQH ở một số NHTM tại Việt
Nam là: Các NHTM nhà nước như NH Ngoại thương Việt Nam; NH Công
thương Việt Nam; NH Nông nghiệp và phát triển Nông thông Việt Nam…Và
một số NHTM Cổ phần khác như: NH TMCP Á Châu; NHTM Cổ phần Quân
đội…vv
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận
của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật,
đồng thời vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong
sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa.
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, so sánh các quy định của pháp
luật NH và thực tiễn giải quyết NQH ở các NHTM hiện nay; kết hợp với khảo
sát thực tiễn, phỏng vấn, tổng hợp trên cơ sở đó rồi rút ra những bất cập trong
các quy định của pháp luật NH, thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra một số kiến
nghị về xử lý NQH đóng góp vào việc nâng cao hiệu quả, phần nào giúp việc
thu hồi NQH.
5. Đóng góp của luận văn
Thời gian gần đây có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề xử
lý NQH nhưng chủ yếu nghiên cứu về nghiệp vụ của ngành, chưa đi sâu vào
nghiên cứu về các quy định của pháp luật. Luận văn “Pháp luật về xử lý NQH
trong hoạt động cho vay của NHTM ở Việt Nam” nghiên cứu vấn đề xử lý
NQH một cách toàn diện về lý luận cũng như về thực tiễn; Từ việc tìm hiểu,
nghiên cứu về NQH, xử lý NQH, các phương án cũng như kết quả xử lý
NQH. Từ đó đề ra một số giải pháp hoàn thiện để nâng cao chất lượng và hiệu
5
quả của hoạt động xử lý NQH ở NHTM nhà ở Việt Nam. Hơn nữa luận văn
còn góp phần nâng cao nhận thức của việc xử lý tốt các vấn đề liên quan đến
NQH đặc biệt trong giai đoạn hội nhấp kinh tế quốc tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Nội dung của luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về NQH và pháp luật về xử lý NQH trong
hoạt động cho vay ở NHTM
Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý NQH trong hoạt động cho vay của
NHTM ở Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị về hạn chế và xử lý NQH trong hoạt động cho
vay của NHTM
6
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN VÀ
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO
VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI.
1.1. Những vấn đề lý luận về nợ quá hạn và xử lý nợ quá hạn trong
hoạt động cho vay của Ngân hàng thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm cho vay và hoạt động cho vay của Ngân hàng
thƣơng mại.
“Vay” được định nghĩa trong từ điển Tiếng Việt là “Nhận tiền hay vật
của người khác để sử dụng với điều kiện trả lại bằng cái cùng loại ít nhất có
số lượng hoặc giá trị tương đương” [36, tr 364]. Như vậy, theo khái niệm này
thì “vay” bao gồm cả việc nhận “tiền” hoặc “vật” để sử dụng và sẽ trả lại tại
một thời gian trong tương lai bằng chính cái cùng loại.
Tại Khoản 3 - Điều 6 - Luật Quản lý nợ công năm 2009, có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2010 “vay” được hiểu là “Quá trình tạo ra nghĩa vụ trả
nợ thông qua việc ký kết và thực hiện hiệp định, hợp đồng, thoả thuận vay (sau
đây gọi chung là thoả thuận vay) hoặc phát hành công cụ nợ” [29, tr 1]. So với
khái niệm vay trong Từ điển Tiếng Việt thì phạm vi của thuật ngữ này đã bị thu
hẹp lại chỉ là quá trình tạo ra nghĩa vụ trả nợ thông qua thỏa thuận vay.
Khái niệm cho vay của NHTM được hiểu theo nghĩa hẹp hơn và được
quy định tại Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của
Thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với
khách hàng thì “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó TCTD giao
cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất
định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.[11, tr 1]
Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM để tạo ra lợi nhuận,
doanh thu từ hoạt động cho vay mới bù đắp nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự
trù, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại
và các chi phí rủi ro đầu tư khác.
7
Cho vay của NHTM, nói rộng ra là tín dụng NHTM là một lĩnh vực phức
tạp và thường xuyên bị ảnh hưởng theo những biến chuyển của môi trường
kinh tế. Cho vay khác với các hình thức cấp tín dụng khác của các TCTD
như: Chiết khấu các chứng từ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính. Trong
nghiệp vụ cho vay, TCTD giao một khoản tiền nhất định trong một thời hạn
nhất định cho bên đi vay, để dùng vào một mục đích nhất định và bên đi vay
phải hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Điều này có nghĩa là đối với hình thức
cho vay thì khoản tiền vay được chuyển giao trực tiếp hoặc nhập vào tài
khoản của bên đi vay.
Khác với cho vay, hoạt động cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu
các giấy tờ có giá của các TCTD là một hình thức tín dụng hợp đồng, dựa trên
thỏa thuận giữa TCTD và người thụ hưởng về việc TCTD sẽ mua hối phiếu
và các giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng, trước khi đến hạn thanh toán
(Điều 57 luật các TCTD 2010) [19, tr.8-9]. Có thể thấy nét đặc trưng của việc
chiết khấu là TCTD khấu trừ ngay lãi suất chiết khấu và chỉ cấp cho khách
hàng phần tiền còn lại, phần lãi suất chiết khấu và các khoản hoa hồng khác
có liên quan chính là phần lãi của các TCTD. Còn đối với hình thức cho thuê
tài chính thì khoản tiền vay chính là khoản tiền mà TCTD dùng để mua tài sản
để cho thuê, đây là một hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn của TCTD.
Trong trường hợp bảo lãnh NH, Điều 58 Luật các TCTD quy định “Bảo lãnh
NH là cam kết của NH dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ
tài chính thay cho khách hàng của NH khi khách hàng không thực hiện đúng
cam kết” [19,tr 8-9] khoản tiền vay mà bên đi vay nhận được chính, là khoản
tiền mà TCTD phải chi trả cho bên có quyền trong trường hợp bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. NH có thể thực
hiện bảo lãnh dưới các hình thức cơ bản như: phát hành thư bảo hành, mở tín
dụng thư, ký hối phiếu nhận nợ…
Hiện nay một số NHTM đã lập ra các phòng cho thuê hoặc các công ty
cho thuê tài chính để thực hiện hoạt động cho thuê, điểm khác biệt với hoạt
8
động cho vay là bên thuê không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng thuê cho
đến khi hết thời hạn thuê, bên thuê được quyền ưu tiên mua hoặc thuê lại tài
sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận.
Hoạt động cho vay của các NHTM là một trong số các hoạt động cơ bản
và mang lại nguồn thu chủ yếu khoảng 70% lợi nhuận hàng năm, thông qua
việc cho vay các NHTM đã thực hiện việc điều hòa nguồn vốn nhàn rỗi, tạm
thời, nguồn vốn mà NH có được thông qua việc huy động vốn từ công chúng
để đáp ứng nhu cầu về vốn của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Chủ thể tham gia quan hệ cho vay là bên cho vay (TCTD) và bên đi vay
(khách hàng vay). Hình thức pháp lý của quan hệ cho vay giữa TCTD và
khách hàng là hợp đồng tín dụng NH.
Khi nền kinh tế càng phát triển, doanh thu từ hoạt động cho vay của các
NHTM càng tăng nhanh và loại hình cho vay càng trở nên vô cùng đa dạng ở
hầu hết các nước phát triển hàng đầu thế giới, cho vay của các NHTM đã
chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn, ngược lại ở hầu hết các
nước đang phát triển, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay
dài hạn, xuất phát từ chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn (trong đó
có những tác nhân chủ yếu như tình hình tăng trưởng, lạm phát…)
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, bên cho vay thông thường là các
TCTD được thành lập và thực hiện nghiệp vụ cho vay theo quy định của Luật
các TCTD. Ngoài ra các TCTD khác không phải là TCTD nếu được NHNN
Việt Nam cho phép thực hiện hoạt động tín dụng thì cũng có thể là bên cho
vay trong hợp đồng tín dụng cũng phải thỏa mãn điều kiện nhất định theo quy
định của pháp luật như khách hàng vay vốn của TCTD, phải sử dụng vốn vay
đúng mục đích như đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và phải hoàn trả cả
gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Còn
bên đi vay có thể là cá nhân, pháp nhân Việt Nam hoặc cá nhân, pháp nhân
nước ngoài (sau đây gọi chung là khách hàng vay) có quan hệ tín dụng với
TCTD cũng phải thoả mãn điều kiện nhất định của TCTD như: phải có năng
9
lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, phải chịu trách nhiệm dân sự theo
quy định của pháp luật, mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp, có khả
năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết; Có dự án đầu tư,
phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; Thực hiện
quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của chính phủ và NH nhà nước
Việt Nam, Luật các TCTD năm 2010 có quy định TCTD và khách hàng vay
phải thỏa mãn điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật thì mới trở
thành chủ thể cho vay và chủ thể được vay.
Ở nước ta, vấn đề rủi ro trong kinh doanh NH và vấn đề quản lý
không còn mới mẻ. Với sự non yếu về nghiệp vụ NH đồng thời hoạt động
trong môi trường đầy rủi ro, vấn đề nhận thức rủi ro đặc thù và quản lý nó
đang là vấn đề cấp bách trong hệ thống NH cả nước. Bộ máy quản lý NH
kém năng động, rủi ro càng dễ phát sinh khiến nó không thể hiện được hết
khả năng vốn có của mình gây thiệt hại cho nền kinh tế.
Rủi ro NH không những là nỗi ám ảnh của hệ thống NH một nước mà
còn là nỗi ám ảnh chung của hệ thống NH trên thế giới. Ngay cả đối với các
NH có đội ngũ nhân sự giỏi nhất, nhiều kinh nghiệm nhất cũng khó lường
trước được hết mọi rủi ro. Vì thế nhận thức được rủi ro trong cho vay là
những vấn đề "thời sự” cho hệ thống NH.
Trong số các rủi ro tín dụng thì rủi ro trong hoạt động cho vay của
NHTM luôn tiềm ẩn lớn nhất. Điều này xuất phát từ tâm lý của người đi vay,
việc trả nợ hay không trả nợ vay, hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức của khách
hàng vay, các NH trong trường hợp này hoàn toàn lâm vào tình trạng bị động,
rủi ro xảy đến là rất lớn. Tuy nhiên, mặc dù nhận thấy được những rủi ro và
đã có nhiều biện pháp khắc phục, phòng ngừa nhưng nguy cơ NQH vẫn luôn
đe dọa các NHTM với các món nợ khổng lồ đang chờ họ giải quyết và đẩy họ
đứng trước bờ vực của phá sản, giải thể hoặc sát nhập với các NH khác để tồn
tại.
10
1.1.2. Khái niệm nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của Ngân
hàngThƣơng mại.
Theo quy định tại Từ điển tiếng việt của Trung tâm từ điển thuộc Viện
ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2006, “Nợ” được hiểu là: “Cái vay
phải trả mà chưa trả” [36, tr 278]. Tại Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN
ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động NH của TCTD, nhà làm luật đã liệt kê nợ bao
gồm các khoản cho vay ứng trước thấu chi và cho thuê tài chính, các khoản
chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, các khoản bao
thanh toán, các hình thức tín dụng khác.[17, tr1]
Theo Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 3/2/2005 về việc sửa đổi
bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban
hành kèm theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của
Thống đốc NHNN nêu rõ: NQH trong kinh doanh của NH là hiện tượng của
khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn mà đã cam kết trong khế ước
vay trước đây. Nếu không được điều chỉnh kỳ hạn nợ, giãn nợ hay được gia
hạn nợ thì số nợ đến hạn phải chuyển sang NQH và khách hàng phải chịu lãi
suất NQH đối với số tiền chậm trả. [19,tr 1]
Ta biết rằng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài
nguồn vốn tự có của mình, các DN phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác
nhau trong đó có nguồn vốn vay của các NHTM, đây là nguồn vốn rất cần
thiết đảm bảo cho các DN thực hiện tốt hiệu quả sản xuất kinh doanh của
mình. Còn về phía NHTM đây là nghiệp vụ kinh doanh của NH theo nguyên
tắc “đi vay” để “cho vay”. Như vậy, phát sinh việc nhu cầu vay vốn NH của
các DN và vấn đề cho vay vốn của các NH là một yếu tố khách quan, diễn ra
thường xuyên trong quá trình thực hiện mọi hoạt động kinh doanh cả phía DN
và NHTM. DN vay vốn NH và được NH cho vay thực hiện bằng những cam
kết theo nội dung thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật, mỗi khoản
vay đều ấn định thời hạn trả nợ, thời hạn trả nợ bao lâu, nhanh hay chậm là do
11
đặc điểm của vốn vay tham gia vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn
của DN. Về nguyên tắc, trong phạm vi thời hạn quy định đến hạn trả nợ, DN,
người vay vốn phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi cho NHTM. Nếu
thực hiện đúng nguyên tắc này thì cả phía đi vay và bên cho vay đều được coi
như là thực hiện đúng cam kết, vốn vay của NHTM được thu hồi để sử dụng
vòng luân chuyển khác. DN trả nợ NH và thực sự nguồn vốn mà NH cho vay
đã giúp họ hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, nhìn chung là có lợi cho
các bên, cả NH, DN, người vay và cả nền kinh tế. Nhưng thực tế không diễn
ra suôn sẻ như vậy, có nhiều DN không trả được nợ và lãi cho NH khi đến
hạn trả, trong trường hợp này NH không thu hồi được vốn và lãi, đó chính là
NQH. Như vậy NQH được hiểu một cách tổng quát là một khoản nợ mà
người đi vay đến hạn phải trả cho NHTM cả vốn và lãi theo cam kết nhưng họ
lại không trả được cho NH và khoản NQH đó tác động xấu đến hoạt động
kinh doanh của NHTM cũng như hoạt động sản xuất của DN.
Như vậy, bản chất của NQH trong kinh doanh tín dụng là hiện tượng
đến thời hạn thanh toán khoản nợ, người đi vay không có khả năng thực hiện
ngay nghĩa vụ của mình đối với người cho vay. Hay nói cách khác thì NQH là
kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo.
Ta có:
Tỉ lệ NQH (%)
=
Tổng NQH
x
100
Tổng dư nợ
Ý nghĩa: Tỉ lệ NQH phản ánh: Cứ 100 đồng cho vay thì có bao nhiêu
đồng NQH. Trong đó:
- Tổng NQH bao gồm: NQH, nợ chờ xử lý, nợ khoanh.
- Tổng dư nợ cho vay, cho thuê phải xem xét đến các yếu tố:
+ NQH < 180 ngày, 180 ngày < NQH < 360 ngày;
+ Các khoản nợ chờ xử lý;
+ Nợ cho vay được khoanh.
12
Theo quy định của NHNN thì tỉ lệ NQH so với tổng dư nợ cho vay, cho
thuê ở mức nhỏ hơn hoặc bằng 5% và NQH khó đòi chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng
NQH thì NH đó mới được đánh giá là có hoạt động tín dụng hiệu quả. Để xem
xét về thực trạng NQH người ta quan tâm nhiều đến rủi ro mang tính thời hạn.
Ta có:
Tỷ lệ NQH theo
thời gian (%)
=
Số nợ gốc chưa trả của tất cả các khoản
vay quá hạn từ 1,31,61,91…360 ngày
x
100
Tổng dư nợ cho vay, cho thuê
Dựa vào cách tính cụ thể này, các NHTM biết một cách chính xác hơn về tình
hình NQH của NH mình trong từng thời điểm, so sánh với mức quy định chung, để từ
đó có các biện pháp điều chỉnh và quản lý tín dụng tốt hơn.
Theo đó tại Điều 6 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định số
18/2007/QĐ-NHNN quy định về phân loại NQH như sau:
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong thời hạn mà các tổ chức đánh giá là có đủ khả
năng thu hồi cả gốc và lãi đúng thời hạn.
- Các khoản NQH dưới 10 ngày và TCTD đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn
còn lại.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại
Khoản 2 điều này.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản NQH từ 10- 90 ngày
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là
DN, tổ chức thì TCTD phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ
đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu)
13
- Các khoản nợ đã được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản
3 điều này.
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản NQH từ 91-180 ngày
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều
chỉnh kỳ hạn lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại điểm b khoản này.
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả
năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3
điều này.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản NQH từ 181-360 ngày
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu
- Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3
điều này.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản NQH trên 360 ngày
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở
lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời điểm trả nợ lần thứ 2 quá hạn theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ 2
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời điểm trả nợ lần thứ ba trở lên kể cả chưa
bị quá hạn hoặc đã quá hạn.
- Các khoản nợ khoanh nợ cần xử lý
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3
điều này.[17, tr 2-3]
14
Như vậy tất cả các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5 đều được gọi là
NQH. Sự khác biệt của NQH so với nợ xấu ở chỗ: NQH được hiểu là quá thời
hạn thỏa thuận theo hợp đồng mà khách hàng không thanh toán thì khoản nợ
đó bị coi là NQH còn nợ xấu là khoản NQH mà người đi vay không trả được
cho NH, các NH coi đây là khoản nợ không sinh lời cần theo dõi và xử lý. Tại
Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 4 năm 2007 của NHNN về
việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NH của TCTD ban
hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN. Theo phương pháp “định
lượng” thì “Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (dưới
chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (có khả năng mất vốn). Còn theo
phương pháp “định tính” tại điều 7 quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NH của TCTD ban
hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN thì nợ xấu gồm 3 nhóm:
• Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD
đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản
nợ này được TCTD đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
• Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được TCTD đánh giá
là khả năng tổn thất cao.
• Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được
TCTD đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Như vậy, không phải mọi khoản NQH đều bị coi là nợ xấu mà phải căn
cứ vào thời hạn và bản chất của khoản NQH để xác định khoản nợ đó là NQH
hay nợ xấu để có biện pháp xử lý phù hợp. Nợ xấu về cơ bản được xác định
dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ, cụ
thể: Nợ xấu: là các khoản NQH có thời gian cơ cấu lại hơn 90 ngày hoặc là
các khoản nợ vẫn còn trong thời hạn cam kết, nhưng khách hàng vay bị mất
khả năng thanh toán, hoặc NH có những bằng chứng xác thực chứng minh
được mức độ rủi ro tăng cao cho khoản tín dụng, hoặc các khoản phải thanh
15
toán đã quá hạn dưới 90 ngày, nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả
năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ. Dù vậy ta vẫn phải thừa nhận rằng
việc phân biệt rạch ròi giữa NQH và nợ xấu hay bản thân nợ xấu là bao nhiêu
cũng là không đơn giản.
1.1.3. Nguyên nhân nợ quá hạn
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến NQH đó có thể là những nguyên
nhân chủ quan hay nguyên nhân khách quan, hoặc các nguyên nhân khác.
Biết được nguyên nhân phát sinh NQH thì các NHTM mới có thể khắc phục
được từ đó hạn chế NQH nói chung và nợ khó đòi nói riêng
1.1.3.1. Nợ quá hạn do những nguyên nhân khách quan
Những nguyên nhân bất khả kháng dẫn đến không thanh toán được các
khoản NQH như thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, khủng bố… là những
nguyên nhân thường gặp nhưng lại vượt ngoài tầm kiểm soát của con người.
Bên cạnh đó các chính sách của nhà nước có nhiều thay đổi gây ra cho người
đi vay những gánh nặng không đáng có. Trong thực tế, các DN trong giai
đoạn hiện nay gặp rất nhiều khó khăn do phải cạnh tranh với các DN nước
ngoài, dẫn đến mất thị trường tiêu thụ, biến động giá cả gây khó khăn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh, tác động xấu đến thu hồi công nợ của NH.
Chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình
đổi mới và hoàn thiện, nên thường có sự điều chỉnh thay đổi, nhiều DN không
theo kịp, không dự báo chính xác được nhu cầu của thị trường, khiến cho việc
làm ăn thua lỗ, kế hoạch kinh doanh của DN vay vốn NH bị đảo lộn đã trực
tiếp tạo ra các khoản NQH cho NH. Đặc biệt trong thời gian gần đây, lãi suất
huy động vốn giảm, lãi suất cho vay cũng được điều chỉnh giảm theo nên
người đi vay chấp nhận chịu lãi suất NQH còn hơn là trả nợ NH rồi thì không
vay được nữa hoặc nếu phải vay ngoài hay vay của các tổ chức khác thì lãi
suất vẫn cao hơn. Như vậy, trong lúc nền kinh tế của chúng ta đang chuyển
mình thay đổi bên cạnh sự tích cực mà các chính sách đem lại thì hệ quả tất
yếu đó là sự rủi ro cho cả hai phía NH và khách hàng, sự rủi ro này nằm ngoài
16
kiểm soát nên người phải gánh chịu tổn thất chính là các NH.
Sự biến động của thị trường thế giới cũng là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng NQH, do nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất
nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp, gây ảnh hưởng đối với các
ngành sản xuất trong nền kinh tế. Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập
quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh
gay gắt, khiến hầu hết các DN, những khách hàng thường xuyên của NH phải
đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường.
Sự cạnh tranh của các NHTM trong nước và quốc tế trong môi trường
hội nhập kinh tế cũng khiến cho các NH trong nước với hệ thống quản lý yếu
kém gặp phải nguy cơ rủi ro, nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có
tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các NH nước ngoài thu hút.
Đối với các DN nhà nước do chủ trương chính sách của nhà nước về
sắp xếp lại DN, sát nhập, giải thể, phá sản nhưng DN không có khả năng trả
nợ hoặc không còn đối tượng để thu hồi nợ cũng dẫn đến NH không thể thu
hồi được khoản nợ đã cho DN vay. Bên cạnh đó, các DN, tập đoàn nhà nước
được NH ưu đãi lãi suất với các khoản vay thường không có tài sản bảo đảm
hoặc nếu có tài sản bảo đảm thì hồ sơ pháp lý chưa đầy đủ, hoặc thủ tục về
thế chấp tài sản của DN nhà nước phức tạp, không phải bao giờ cũng được cơ
quan ký quyết định thành lập DN nhà nước cho cầm cố, thế chấp dây chuyền
sản xuất chính và khi DN không trả được các khoản nợ đến hạn thì NH sẽ là
bên gặp rủi ro lớn nhất. Chính sự bao bọc các DN, tập đoàn kinh tế nhà nước
của các NHTM mới chính là hiểm họa.
Các chương trình cho vay theo dự án, theo chỉ định của chính phủ, cho
vay theo dự án đầu tư và cho vay theo chỉ thị “ngầm” của các cấp chính quyền
diễn ra với mục đích bù lãi suất và tránh rủi ro pháp luật dẫn đến khoản tín
dụng có chất lượng thấp gây rủi ro lớn cho các NHTM. Thậm chí có chương
trình được xây dựng thiếu căn cứ khoa học dẫn đến sự bất cập cung cầu.
Trường hợp Chính phủ yêu cầu NH phải cho vay, Chính phủ sẽ chịu trách
17
nhiệm chuyển nguồn, hoặc bù lãi suất và chịu trách nhiệm với nợ không thu
hồi được. Tuy nhiên, cho vay theo chỉ thị “ngầm” lại không như vậy. Luật các
TCTD ghi rõ, không cá nhân hoặc tổ chức nào có quyền gây sức ép đối với
TCTD khi ra quyết định cấp tín dụng. Trên thực tế, sức ép này là hiện hữu, và
có khi được chính TCTD tận dụng. Tại nhiều địa phương, các cấp chính
quyền, đoàn thể thường phối hợp với NH trong việc thúc đẩy khách hàng trả
nợ đúng hạn. Chính quyền nhận thức rõ vai trò của NH trong phát triển kinh
tế địa phương, như tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập. Do đó họ đã
cùng với NH tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy người vay trả nợ NH. Quan hệ tích
cực này hình thành trên cơ sở nhận thức đúng đắn của cả cấp chính quyền,
Đảng, đoàn thể và NH về kỷ luật tín dụng. Một số cấp chính quyền, ngược
lại coi NH như kênh tài trợ quan trọng khi gặp khó khăn về ngân sách. Họ
gây áp lực cho NH bỏ qua kỷ luật tín dụng để tài trợ cho những dự án tài
chính yếu kém song kỳ vọng lại lớn.
Sự phân biệt người vay có tài sản hay không có tài sản bảo đảm của các
NH mà mặc nhiên bỏ qua các yếu tố khác như uy tín, hiệu quả sử dụng vốn
dẫn đến sự nhầm lẫn trong việc lựa chọn khách hàng để cho vay và hệ quả là
các DN muốn vay phải thiếu trung thực, các NH sẽ khó khăn trong việc kiểm
soát tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng.
Một nguyên nhân khác nữa dẫn đến NQH là do một số NHTM nhà
nước chưa có Ủy ban quản lý tài sản nợ, trong danh mục vay hiện nay đều
hiện diện hầu hết các nhóm hàng và dịch vụ, sự cạnh tranh giành thị phần ở
các nhóm ngành mà không phải là thế mạnh đã mang đến rủi ro bất thường ở
một số NHTM. Mặt khác các NHTM chưa công bố công khai về danh mục
cho vay như đặc điểm của một danh mục cho vay chất lượng cao, loại hình
cho vay, thời hạn đáo hạn, quy mô và chất lượng của khoản vay. Việc công
bố danh mục cho vay theo báo cáo thường niên của NHTM nhà nước chỉ
dừng lại ở sự thống kê các khoản mục cho vay vào các ngành hoặc loại công
việc ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tuy vậy, thông tin một danh mục cho
18
vay chất lượng cao, thời hạn cho vay của một NH theo chiến lược và theo đặc
thù riêng ít được truyền dẫn đến công chúng.
Ngoài những nguyên nhân kể trên chúng ta cũng phải thừa nhận rằng
sự điều chỉnh chính sách, các quy định của pháp luật, những thay đổi về địa
giới hành chính các địa phương, sát nhập, hay tách ra của các bộ ngành trong
nền kinh tế đều gây rủi ro trong kinh doanh tín dụng của NHTM nếu như
không nắm bắt kịp thời các thông tin, và việc thực hiện các quy định của pháp
luật không nghiêm và kém hiểu biết về nghiệp vụ sẽ đưa đến những sai lầm
đáng tiếc.
1.1.3.2. Nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan
Hoạt động thanh tra NH và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải
thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp
ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới
thanh tra NH còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát
lạc hậu, chậm đựơc đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa đựơc phát huy và hệ
thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là
phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám
sát rủi ro còn yếu. Thanh tra NH còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu
xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và
vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra NH còn nhiều bất cập. Do vậy mà có
những sai phạm của các NHTM không được thanh tra NH cảnh báo, có biện
pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can
thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM
dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống lẽ
ra có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và xử
lý sớm hơn.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về
DN và NH. Đó cũng là thách thức cho hệ thống NH trong việc mở rộng và
kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông
19
tin tương xứng. Nếu các NH cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng
trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ
nợ xấu cho hệ thống NH.
Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự
hiệu quả. Kinh doanh NH là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay
nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín
dụng là không thể tránh khỏi, các NH cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau
nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với
cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều NH. Trong quản
trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới
hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều NH
cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro
chia đều cho tất cả chứ không chừa một NH nào. Trong tình hình cạnh tranh
giữa các NH ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của CIC là rất quan
trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các NH có các
quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay NH dữ liệu của CIC chưa
đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.
Chính sách cho vay là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của NH.
Chính sách đưa ra thống nhất, đầy đủ, đúng đắn, sẽ xác định phương hướng
đúng đắn cho cán bộ tín dụng khi thực hiện nhiệm vụ nâng cao hiệu quả kinh
tế - xã hội của hoạt động tín dụng. Khi cho vay NH phải xem xét kỹ điều kiện
cho vay, đặc biệt khi cho khách hàng vay vốn rồi NH phải chú trọng trong
việc giám sát tình hình sử dụng vốn vay, nếu không sẽ dẫn đến việc cấp tín
dụng không đúng đối tượng hoặc khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, như
vậy sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế, dẫn đến rủi ro tín dụng.
Theo quy định của NHNN Việt Nam thì cho vay đối với một khách
hàng không quá 15% vốn tự có. Nếu khách hàng muốn vay một khoản vay
lớn hơn mức quy định cho phép thì NH có thể thực hiện đồng tài trợ để phân