Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.04 KB, 31 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1 HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NHTM:
1.1.1 Hoạt động cơ bản của NHTM:
NHTM là một trong các tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất
của nền kinh tế. Hoạt động của ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số
tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán cho khách hàng.
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện cung cấp các dịch vụ tài chính khác như:
mua bán ngoại tệ, bảo quản vất có giá, quản lý ngân hàng quỹ, tài trợ cho các
hoạt động của Chính phủ, bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, cung
cấp các dịnh vụ uỷ thác và tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch
vụ bảo hiểm và dịch vụ đại lý. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và khoa
học công nghệ, hoạt động ngân hàng đã và đang có những bước tiến rất
nhanh, ngày càng được đa dạng hoá và hiện đại hoá đáp ứng tối đa nhu cầu
của khách hàng. Tuy nhiên khi nói đến hoạt động của NHTM thì không thể
không đề cấp đến hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng và hoạt động
thanh toán. Đây là ba hoạt động cơ bản, là nền tảng của bất cứ NHTM nào, nó
ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của ngân hàng.
Nói đến hoạt động của ngân hàng trước tiên phải đề cập đến hoạt động
huy động vốn. Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng để
ngân hàng thực hiện các hoạt động khác như tín dụng, thanh toán... Đây là
hoạt động đóng vai trò quan trọng nhất, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động
của ngân hàng. Ngân hàng có thể huy động vốn từ vốn chủ sở hữu, từ nguồn
tiền gửi của khách hàng hoặc từ nguồn đi vay. Trong quá trình hoạt động,
ngân hàng có thể gia tăng vốn chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng
thành vốn đầu tư hay bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp
thêm... để mở rộng quy mô hoạt động, đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng
yêu cầu gia tăng vốn chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định. Tiền gửi của khách
hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, chiến tỷ trọng cao nhất
trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Khi một ngân hàng bắt đầu nghiệp vụ


hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các t khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh
toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng có thể huy động tiền của các
doanh nghiệp, tổ chức và dân cư. Bên cạnh nguồn vốn từ vốn chủ sở hữu và
nguồn tiền gửi của khách hàng, để gia tăng vốn đáp ứng nhu cầu của hoạt
động kinh doanh, các NHTM còn có thể vay mượn thêm ở Ngân hàng trung
ương, các tổ chức tín dụng khác hay vay trên thị trường vốn
Huy động vốn là hoạt đông tạo nguồn tiền cho ngân hàng thì tín dụng là
hoạt động sử dụng nguồn tiền đó để tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Tín dụng
là loại tài sản chiển tỷ trọng lớn nhất của các NHTM, nó phản ánh hoạt động
đặc trưng của ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Đây là khoản
mục có thu nhập cao nhất, mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Tuy
nhiên đây cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro gây tổn thất cho ngân hàng.
Các NHTM hiện nay đang phát triển ngày càng nhiều các hình thực tín dụng
như: cho vay bằng tiền( có cả cho vay không xác định trước thời hạn- cho vay
luân chuyển- và cho vay có kỳ hạn gồn tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và
dài hạn ); bảo lãnh cho khách hàng( để khách hàng có thể phát hành các chứng
khoán huy động vốn, mua hàng mà chưa cần trả tiền ngay, vay của người thứ
ba...), chiết khấu thương phiếu, cho thuê thiết bị trung và dài hạn... Thông qua
nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng hàng góp phần tài trợ nhu cầu vốn cho khách
hàng. Các nghiệp vụ tín dụng ngày càng đa dạng và được hiện đại hoá nhằm
phù hợp với quá trình luân chuyển vốn và chu kỳ thu nhập của khách hàng.
Trong nền kinh tế hiện nay, NHTM trở thành trung gian thanh toán lớn
nhất. Ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá
và dịch vụ. Có nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán bắn séc, uỷ nhiệm
chi, nhở thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ... Ngoài ra, các ngân hàng còn thực
hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông
qua trung tâm thanh toán. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh
toán không dùng tiền mặt và hiện nay, với các tiện ích của thanh toán không
dùng tiền mặt ( an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí ) đã góp
phần rút ngắn thời gian giao dịch, tiết kiệm chi phí và nâng cao thu nhập cho

khách hàng không chỉ là các tổ chức kinh tế mà đối với toàn xã hội.
1.1.2 Hoạt động cho vay của NHTM:
Với vai trò là trung gian tài chính trong nền kinh tế, xã hội mong muốn
các ngân hàng hỗ trợ về mặt tài chính cho sự phát triển của nền kinh tế và cho
toàn xã hội. Ngân hàng cung cấp các dịch vụ tài chính mà đặc biệt là đáp ứng
nhu cầu tài chính của doanh nghiệp và người tiêu dùng thông qua hình thức
cấp tín dụng với một mức lãi suất hợp lý. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ
yếu, là khoản mục tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng của các NHTM.
Lãi thu được từ hoạt động cho vay là nguồn thu lớn nhất của ngân hàng để bù
đắp các chi phí như: chi phí huy động vốn, chi phí kinh doanh, chi phí quản lý
và tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng.
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Nghiệp vụ cho vay của các NHTM có thể phân chia theo nhiều tiêu thức
khác nhau nhưng phổ biến nhất là phân chia theo thời gian. Việc phân chia các
khoản cho vay theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời
gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của ngân hàng. Có thể
phân loại thành:
 Cho vay ngắn hạn: là khoản cho vay có thời hạn từ 0 đến 12 tháng( dưới 01
năm). Tỷ trọng các khoản cho vay ngắn hạn tại các NHTM thường cao hơn tỷ
trọng các khoản cho vay trung và dài hạn, các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho
tài sản lưu động của khách hàng.
 Cho vay trung hạn: là khoản cho vay có thời hạn từ trên 01 năm( 12 tháng)
đến 05 năm.
 Cho vay dài hạn: là khoản cho vay có thời hạn trên 05 năm.
Các khoản cho vay trung và dài hạn thường chiếm tỷ trọng thấp hơn các khoản
cho vay ngắn hạn do có thời hạn dài hơn, mức độ rủi ro cao hơn, nguồn vốn
đắt và khan hiếm hơn. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, khi nhu cầu đầu tư
cho nền kinh tế ngày càng tăng thì nhu cầu vay trung và dài hạn của các tổ
chức kinh tế cũng tăng nhanh. Đặc biệt nhu cầu đầu tư theo dự án đang ngày

càng trở thành xu thế phát triển trong nền kinh tế vì vậy đòi hỏi các NHTM
phải nhanh chóng tiếp cận và phát triển loại hình cho vay theo dự án, một mặt
đáp ứng nhu cầu của khách hàng, mặt khác tăng lợi nhuận và khả năng cạnh
tranh cho ngân hàng. Vậy hoạt động cho vay theo dự án có đặc điểm gì khác
biệt so với các loại hình cho vay thông thường?
1.1.3 Hoạt động cho vay theo dự án của NHTM:
Một hình thức cho vay phổ biến hiện nay ở các NHTM là cho vay theo dự
án đầu tư. Đây là hình thức NHTM cho khách vay vốn để thực hiện các dự án
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và phục vụ đời sống. Ngoài
những đặc điểm chung của hoạt động cho vay thì cho vay theo dự án có những
đặc điểm cơ bản sau:
 Đây là những khoản cho vay trung và dài hạn( thời hạn kéo dài từ 12 tháng
đến 60 tháng đối với các dự án trung hạn và trên 60 tháng đối với các dự án
dài hạn). Đặc điểm này xuất phát từ tính chất dài hạn của các khoản đầu tư
( đầu tư thường có thời gian từ 01 năm trở nên, những hoạt động ngắn hạn
trong vòng 01 năm tài chính không được coi là đầu tư ). Do thời hạn của các
khoản cho vay theo dự án thường kéo dài nên rủi ro tín dụng sẽ cao. Để bù đắp
rủi ro NHTM sẽ áp dụng lãi suất cho vay theo dự án cao hơn lãi suất cho vay
ngắn hạn và thường là lãi suất thoả thuận giữa ngân hàng và chủ dự án.
 Cho vay theo dự án là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho những dự án cụ
thể. Dự án là một tập hợp các hoạt động đặc thù liên kết chặt chẽ và phụ thuộc
lẫn nhau nhằm đạt được trong tương lai ý tưởng đã đặt ra( mục tiêu nhất
định ) với nguồn lực và thời gian xác định.
 Cho vay theo dự án là loại hình cho vay có mức độ rủi ro cao song lãi lớn.
Nguyên nhân là do quy mô vốn tài trợ cho các dự án thường lớn, thời hạn vay
dài. Hơn nữa dự án được xây dựng dựa trên những giả định, tồn tại trong môi
trường không chắc chắn, môi trường triển khai dự án thường xuyên thay đổi,
chứa đựng nhiều yếu tố bất định nên trong dự án rủi ro thường lớn và có thể
xảy ra.
 Vốn đầu tư cho các dự án thường khá lớn nhưng ngân hàng không cho vay

toàn bộ nhu cầu vốn của dự án mà ngân hàng sẽ căn cứ vào nhu cầu vay vốn
của khách hàngtham gia vào dự án, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản
bảo đảm để định ra một mức cho vay hợp lý:
Số tiền cho
vay
= Tổng vốn đầu
tư của dự án
- Vốn chủ sở hữu hoặc
vốn tự có tham gia
- Nguồn vốn huy
động khác
Những đặc điểm trên quyết định đặc tính sinh lời và đặc tính rủi ro của
hoạt động cho vay theo dự án. Sự thất bại của một khoản cho vay đầu tư sẽ có
tác động rất tiêu cực đến ngân hàng , nó không chỉ làm giảm lợi nhuận của
ngân hàng mà còn làm giảm khả năng thanh khoản của ngân hàng thậm chí
nó có thể làm giảm vốn chủ sở hữu và dẫn tới sự phá sản của ngân hàng. Vì
vậy, để hoạt động cho vay theo dự án đạt được mục tiêu an toàn và lợi nhuận
thì ngân hàng phải thận trọng trước khi ra quyết định cho vay. Hiện nay, các
NHTM thường tiến hành quy trình tín dụng qua 04 bước:
• Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng: Đây là bước quan trọng nhất,
quyết định chất lượng của quy trình phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu là
thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử
dụng vốn vay, uy tín và khả năng tạo ra lợi nhuận của khách hàng, nguồn ngân
hàng quỹ và quyền sử hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên
quan đến người vay.
• Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng: trong bước này, ngân
hàng hàng cùng khách hàng cân nhắc kỹ lưỡng các nội dung của bản hợp đồng
tín dụng trong đó có sự thoả thuận giữa các bên về số lượng tín dụng, lãi suất,
phí suất, thời hạn tín dụng, các loại bảo đảm, giải ngân hàng, điều kiện thanh
toán, các điều kiện khác. Nếu đặt được sự thoả thuận thì các bên sẽ ký hợp

đồng tín dụng.
• Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng: Sau khi ký kết hợp
đồng tín dụng, Ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền cho khách hàng như đã
thoả thuận đồng thời ngân hàng có quyền kiểm soát khách hàng về mục đích
sử dụng vốn vay, tiến độ thực hiện, quá trình sản xuất kinh doanh...để đảm bảo
an toàn cho vốn đã giải ngân và ra quyết định giải ngân trong thời gian còn lại
của hợp đồng.
• Bước 4: Thu nợ và ra các phán quyết tín dụng mới.
Trong quy trình tín dụng trên, thì với các khoản cho vay theo dự án thì
các NHTM thường xem giai đoạn phân tích trước khi cho vay- giai đoạn phân
tích tín dụng, thẩm định dự án là quan trọng nhất. Kết quả của khâu này sẽ
quyết định chất lượng của khoản cho vay. Riêng trong hoạt động thẩm định dự
án đầu tư thì thẩm định tài chính dự án là nội dung quan trọng và phức tạp
nhất. Thẩm định tài chính dự án là khâu mà các NHTM đều đặc biệt phải quan
tâm hàng đầu để giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn vốn đàu tư, nâng cao chất
lượng hoạt động tín dụng và tăng khả năng cạnh tranh cho các NHTM.
1.2 THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
NHTM:
1.2.1 Thẩm định dự án trong hoạt động cho vay của NHTM:
1.2.1.1 Khái niệm và mục đích:
Dự án là một tập hợp các hoạt động đặc thù liên kết chặt chẽ và phụ
thuộc lẫn nhau nhằm đạt được trong tương lai ý tưởng đã đặt ra( mục tiêu
nhất định) với nguồn lực và thời gian xác định.
Các dự án đầu tư khi soạn thảo dự án được tính toán, nghiên cứu rất kỹ nhưng
không thể tránh khỏi tính chủ quan của nhà phân tích, những khiếm khuyết,
lệch lạc tồn tại trong quá trình thực hiện dự án là điều tất nhiên. Để đánh giá
tính hợp lý, tính hiệu quả và tính khả thi của dự án từ đó ra quyết định dự án
có được thực thi hay không cần phải có một quá tình xem xét, đánh giá một
cách độp lập, tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Quá trình đó gọi là thẩm
định dự án.

Thẩm định dự án là việc kiểm tra, so sánh, đánh giá một cách khách
quan, khoa học và toàn diện các nội dung của dự án và liên quan đến dự án
hoặc so sánh, đánh giá các phương án của một hay nhiều dự án để đánh giá
tính hợp lý, tính hiệu quả và tính khả thi của dự án. Từ đó có những quyết định
đầu tư và cho phép đầu tư.
Mục đích chung của thẩm định dự án đầu là đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả
và tính khả thi của dự án. Tuy nhiên, mục đích cuối cùng của thẩm định dự án
lại phụ thuộc vào chủ thể thẩm định:
 Chủ đầu tư: Thẩm định dự án nhằm đưa ra quyết định đầu tư.
 Nhà tài trợ( các ngân hàng hàng ): Thẩm định dự án để ra quyête định tài
trợ vốn.
 Cơ quan quản lý Nhà nước: Thẩm định dự án để xét duyệt, cấp giấy phép
đầu tư.
1.2.1.2 Nội dung thẩm định dự án trong hoạt động cho vay của NHTM:
Tuỳ thuộc vào loại dự án, quy mô dự án, môi trường thực hiện dự án và
mức độ ảnh hưởng của dự án tới môi trường xung quanh mà nội dung thẩm
định dự án có thể khác nhau nhưng bao gồn trong 08 nội dung chính sau:
 Thẩm định các điều kiện pháp lý: Kiểm tra tính hợplý, hợp lệ của hhồ sơ
trình duyệt, tư cách pháp nhân và năng lực của chủ đầu tư...
 Thẩm định mục tiêu của dự án: Kiểm tra sự phù hợp giữa mục tiêu của dự
án với kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, của nghành, vùng và cả nước...
 Thẩm định về thị trường của dự án: Kiểm tra về nhu cầu hiện tại, trong
tương lai, khả năng cạnh tranh sản phẩm của dự án và vùng thị trường của dự
án.
 Thẩm định kỹ thuật của dự án: Kiểm tra công cụ tính toán, sai sót trong
tính toán, sự phù hợp của công nghệ, thiệt bị đối với dự án...
 Thẩm định về tài chính của dự án: Kiểm tra tổng vốn đầu tư, cơ cấu vốn đầu
tư, độ an toàn về tài chính( mức độ chủ động về tài chính của dự án trong xử lý
các bất thường khi thực hiện dự án ), kiểm tra và đánh giá các chỉ tiêu hiệu
quả tài chính của dự án, thẩm định định mức rủi ro của dự án...

 Thẩm định định về kinh tế- xã hội: Kiểm tra việc sử dụng nguồn tài nguyên
của dự án có hợp lý hay không, tạo việc làm và thu nhập cho xã hội, cải thiện
đời sống xã hội như thế nào...
 Thẩm định định môi trường sinh thái: Đánh giá tác động của dự án đến môi
trường xung quanh ở các khía cạnh tích cực và tiêu cực.
 Thẩm định kế hoạch tổ chức, triển khai thực hiện dự án: Kiểm tra, đanh giá
kế hoạch cung cấp các điều kiện của dự án, các biện pháp thực hiện dự án, tiến
độ thực hiện dự án, mức độ khả thi của các kế hoạch, biện pháp trong khi thực
hiện dự án...
1.2.2 Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM:
1.2.2.1 Khái niệm và mục đích của công tác thẩm định tài chính dự án
trong hoạt động cho vay của NHTM:
Thẩm định tài chính dự án là việc rà soát, đánh giá một cách khoa học
và toàn diện mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư,
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và cá nhân, hay nói cách khác thẩm định tài
chính dự án là việc xem xét dự án sẽ tạo ra được những lợi ích tài chính gì
trong tương lai từ những nguồn lực tài chính đã đầu tư cho dự án.
Khi ngân hàng tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng, điều ngân hàng
quan tâm là tính khả thi của dự án, trên cơ sở đó dự án mới có khả năng lãi
vay và trả nợ, đảm bảo mục tiêu an toàn và sinh lời cho ngân hàng. Vì vậy, mục
tiêu của NHTM khi tiến hành thẩm định tài chính dự án là nhằm:
 Đánh giá và đưa ra kết luận một cách khoa học, chính xác, toàn diện và sâu
sắc vầ tình hình tài chính của dự án trên phương diện phân tích kế hoạch vốn
đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư, dòng tiền của dự án, các chỉ tiêu hiệu quả tài chính,
đo lường mức độ rủi ro cảu dự án và điều mà ngân hàng đặc biệt quan tâm là
khả năng trả nợ của dự án. Dựa trên những kết quả của công tác thẩm định
tài chính dự án này mà ngân hàng ra quyết định tín dúng đồng ý hay từ chối
tài trợ cho dự án.
 Căn cứ vào những kết luận và tình hình tài chính của dự án đã được thẩm
định, ngân hàng xác định các điều kiện tài trợ và phương thức tài trợ cho dự

án : quy mô tín dụng, thời hạn tín dụng, thời gian trả nợ, thời gian ân hạn, lãi
suất, tài sản bảo đảm...
 Phát hiện và rút ra kinh nghiệm trong công tác thẩm định tài chính dự án
từ đó có những biện pháp phòng ngừa tối đa thiệt hại rủi ro tín dụng, tránh
tổn thất cho ngân hàng và đưa ra ý kiến tư vấn giúp khách hàng sử dụng vốn
vay an toàn, hiệu quả.
1.2.2.2 Sự cần thiết phải tiến hành thẩm định tài chính dự án trong
hoạt động cho vay của NHTM:
Cho vay là hoạt động chủ yếu tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng những
cũng là hoạt động đem đến nhiều rủi ro nhất. Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, nhu cầu đầu tư cho sản xuất kinh doanh ngày càng tăng tuy nhiên
không phải lúc nào chủ dự án cũng có đủ khả năng về tài chính để đáp ứng
một lượng vốn rất lớn cho việc thực hiện dự án. Khi đó NHTM với tư cách là
nhà trung gian tài chính lớn nhất và có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh
tế sẽ đứng ra gánh vác trách nhiệm này. Vì vậy hoạt động cho vay theo dự án
của các NHTM hiện nay đang có xu hướng ngày càng tăng nhanh cả về số
lượng và quy mô dự án. Tuy nhiên hoạt động cho vay theo dự án với những
đặc điểm riêng biệt của nó như đã trình bày ở trên đã thể hiện đây là hình thức
cho vay có độ rủi ro rất cao, nếu rủi ro xảy ra có thể làm giảm lợi nhuận của
ngân hàng , thậm chí có thể làm ngân hàng giảm khả năng thanh khoản dẫn
tới nguy cơ phá sản. Điều này đã thôi thúc các NHTM phải thận trọng và kiểm
soát tốt các khoản cho vay theo dự án. Muốn vậy trong tất cả các khâu của quy
trình nghiệp vụ cho vay đặc biệt là trong khâu phân tích đánh giá dự án ngân
hàng phải thực hiện thẩm định tài chính dự án định thật tốt và có hiệu quả thì
mới đảm bảo được mục tiêu an toàn – hiệu quả trong hoạt động cho vay.
 Thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng phân tích, rà soát, đánh giá lại
một cách khoa học, cụ thể, chính xác và toàn diện về khía cạnh tài chính của dự
án- nội dung quan trọng nhất của dự án vì hiệu quả của dự án đầu tư thể hiện
ở hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế. Với tư cách là nhà tài trợ cho dự án
thì ngân hàng thường quan tâm tới hiệu quả tài chính qua đó thể hiện khả

năng hoàn trả nợ( gồn vốn gốc và lãi vay) của dự án cho ngân hàng. Vì vậy
ngân hàng cần phải tiến hành thẩm định tài chính dự án trước khi ra quyết
đinh tín dụng để kiểm tra tính khả thi cuả dự án.
 Khi thẩm định tài chính dự án ngân hàng sẽ đánh giá được mức độ rủi ro
của dự án qua đó ngân hàng chủ động phân tích các tình huống và đưa ra kết
luận về sự thay đổi của các nhân tố có ảnh hưởng đến tính khả thi của dự án.
Như vậy ngân hàng sẽ chủ động trong kiểm soát việc sử dụng vốn của dự án và
phòng ngừa, hạn chế các rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện dự án.
 Thông qua thẩm định tài chính dự án ngân hàng còn có những căn cứ chính
xác để đưa ra quyết định đồng ý hay từ chối cho vay và các điều kiện, phương
thức cho vay hợp lý và hiệu quả nhất. Xuất phát từ việc thẩm định các chỉ tiêu
tài chính của dự án, ngân hàng sẽ xác định các nội dung của hợp đồng tín
dụng với khách hàng như: Số lượng vốn vay, thời hạn cho vay, thời điểm cho
vay, lãi suất cho vay, quản lý vốn vay, thời điểm và thời gian thu nợ( lãi và gốc),
tài sản bảo đảm...
 Mặt khác thẩm định tài chính dự án còn giúp ngân hàng có căn cứ để kiểm
soát mục đích sử dụng vốn vay và tiến độ thực hiện dự án. Qua đó ngân hàng
sẽ có những ý kiến tư vấn giúp khách hàng thực hiện đúng dự án như đã cam
kết trong hợp đồng tín dụng và nâng cao tính khả thi, tính hiệu quả của dự án.
 Bên cạnh đó, thẩm định tài chính dự án cũng là hoạt động không thể thiếu
để ngân hàng tích luỹ thêm kinh nghiện trong hoạt động cho vay, hoàn thiện
thêm công tác tổ chức, điều hành quy trình nghiệp vụ tín dụng cho phù hợp với
thực tế và các quy định của pháp luật. Qua đó giúp khách hàng sử dụng hiệu
quả hơn đồng vốn vay và ngân hàng cao tính khả thi của dự án, đồng thời việc
hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng phát hiện và
phòng ngừa các rủi ro tín dụng, hạn chế thiệt hại cho ngân hàng.
Như vậy công tác thẩm định tài chính dự án là hết sức quan trọng và
cần thiết trong hoạt động cho vay đặc biệt là cho vay theo dự án của các
NHTM. Đòi hỏi các ngân hàng phải thực hiện tốt công tác này vì lợi ích của
khách hàng và vì mục tiêu an toàn, hiệu quả của chính bản thân ngân hàng.

1.2.3 Nội dung thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của
NHTM:
1.2.3.1 Thẩm định tổng vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư của dự án:
a. Tổng vốn đầu tư:
Tổng vốn đầu tư là giới hạn chi phí tối đa mà mà người có thẩm định tài
chính dự án quyền quyết định đầu tư cho phép chủ đầu tư lựa chọn các
phương án thực hiện đầu tư.
Tổng vốn đầu tư của dự án bao gồm:
 Chi phí chuẩn bị đầu tư.
 Chi phí cho chuẩn bị đầu tư.
 Chi phí thực hiện đầu tư.
 Chi phí cho hoạt động của dự án.
Việc thẩm định quy mô tổng vốn đầu tư của dự án có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với tính khả thi và tính hiệu quả của dự án. Nếu vốn đầu tư dự tính
quá thấp thì dự án dễ được chủ đầu tư chấp thuận tài trợ nhưng tong quá
trình thực hiện dự án dễ xảy ra thiếu vốn đầu tư, khi đó hoặc dự án không thể
tiếp tục thực hiện được nữa, hoặc phải tiếp tục xin thêm vốn đầu tư cho dự án,
như vậy tính khả thi và tính hiệu quả của dự án không cao. Ngược lại, nếu tổng
vốn đầu tư dự án tính quá cao thì dự án sẽ khó được ngân hàng chấp thuận và
các chỉ tiêu hiệu quả tài chính sẽ không còn chính xác, dự án cũng không khả
thi và hiệu quả. Vì vậy khi thẩm định tài chính dự án ngân hàng cần phải xác
định chính xác tổng vốn đầu tư dựa trên cơ sở xác định được cơ cấu vốn đầu
tư của dự án.
b. Thẩm định cơ cấu vốn đầu tư:
Những nội dung của tổng vốn đầu tư nói trên tạo thành hai loại vốn cơ bản
của dự án là vốn đầu tư cố định và vốn lưa động( bao gồm cả vốn dự phòng ).
 Vốn cố định: Bao gồm chi phí cho các nhóm công việc: Chuẩn bị cho đầu tư,
chuẩn bị thực hiện đầu tư và thực hiện đầu tư. Các khoản đầu tư cho vốn cố
định được tính chính xác cho từng năm trong thời gian chuẩn bị và thực hiện
đầu tư cần thiết.

 Vốn lưu động: bao gồm vốn sản xuất( chi phí nghuyên, nhiên, vật liệu, điện,
nước, tiền lương... )và vốn lưu thông( thành phẩm tồn kho, sản phẩm dở dang,
hàng hoá bán chịu, vốn bằng tiền...).Vốn lưu động cần thiết cho dự án được xác
định cho từng năm dựa và các nhân tố sau: Khối lượng sản phẩm sản xuất và
tiêu thụ hàng năm, định mức vốn lưu động, dự trù vốn lưu động và vòng quay
vốn lưu động.
Từ việc xác định cơ cấu vốn đầu tư, ngân hàng tính được nhu cầu vốn
đầu tư của dự án theo công thức:
Nhu cầu vốn đầu tư
theo dự án
= Nhu cầu đầu tư vào tài
sản cố định
+ Nhu cầu đầu tư vào
tài sản lưu động
Qua việc xác định nhu cầu vốn đầu tư, ngân hàng sẽ giúp khách hàng tính toán
chính xác nhu cầu vốn đầu tư cần thiết để dự án thực hiện sản xuất kinh doanh
có hiệu quả cao nhất, giúp khách hàng lập kế hoạch vay thêm vốn ngắn hạn để
bổ sung thêm vào vốn lưu động trong quá trình thực hiện dự án.
c. Thẩm định nguồn tài trợ cho dự án:
Sau khi phân tích nhu cầu vốn đầu tư, ngân hàng sẽ thẩm định tài chính
dự án định cơ cấu nguồn tài trợ cho dự án để xác định mức độ đảm bảo vốn
đầu tư của dự án. Nguồn vốn tài trợ cho dự án bao gồm:
 Nguồn vốn tự có: gồm vốn Nhà nước cấp, vốn góp( vốn cổ phần, vốn liên
doanh), và vốn từ lợi nhuận.
 Nguồn vốn vay: gồm: vay ngắn hạn, vay trung và dài hạn từ trong và ngoài
nước.
 Nguồn vốn khác: gồm viện trợ và quà tặng.
Khi phân tích cơ cấu nguồn tài trợ cho dự án, các NHTM thường quan
tâm đến quy mô và thời hạn của mỗi nguồn, tính khả thi của mỗi nguồn và các
điều kiện để dự án tiếp cận được các nguồn vốn đó.

Nhiều nguồn tài trợ được thực hiện dưới hình thái hiện vật ( vốn góp
dưới hình thức quyền sở hữu công nghệ, quyền sử dụng đất, nhà xưởng và
thiết bị có sẵn...). Việc tính toán giá trị các loại tài sản này rất phức tạp tuy
nhiên là cần thiết đối với các ngân hàng.Trong một số trường hợp, tài sản này
sẽ trở thành tài sản thế chấp cho ngân hàng. Một số nguòn tài trợ có thời gian
không dài như tín dụng thương mại( mua trả chậm thiết bị) Người mua có thể
trả tiền cho người cung cấp khi máy móc thiết bị đã di vào hoạt động trong
một thời gian ngắn. Kế hoạch trả nợ này có ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch
thu nợ của ngân hàng.
Nếu ngân hàng là người cấp tín dụng duy nhất cho dự án thì quy mô tín
dụng rất lớn và rủi ro của tín dụng sẽ rất cao. Ngược lại, khi có nhiều bên tham
gia cấp tín dụng thì sẽ san sẻ rủi ro cho ngân hàng nhưng phải đòi hỏi ngân
hàng phải tính toán kỹ lưỡng các nguồn tài trợ:

×