4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các sơ đồ
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾN
HÀNH CỔ PHẦN HÓA CÔNG TY SUPE PHỐT PHÁT
VÀ HÓA CHẤT LÂM THAO
7
1.1.
Quan niệm về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc
7
1.1.1.
Khái niệm và đặc điểm của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nƣớc
11
1.1.2.
Bản chất của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc
15
1.1.3.
Vai trò cổ phần hóa
16
1.2.
Nguyên tắc thực hiện cổ phần hóa
18
1.3.
Sự cần thiết phải cổ phần hóa Công ty supe phốt phát và hóa
chất Lâm Thao
21
Chương 2: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC TẠI CÔNG TY SUPE PHỐT PHÁT VÀ HÓA
CHẤT LÂM THAO
24
2.1.
Mục tiêu, chính sách cổ phần hóa của Công ty supe phốt phát
và hóa chất Lâm Thao
24
2.2.1.
Mục tiêu cổ phần hóa của công ty
24
5
2.1.2
Chính sách cổ phần hóa của công ty
25
2.2.
Thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình cổ phần hóa của
Công ty supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao
26
2.2.1
Giai đoạn chuẩn bị cổ phần hóa
27
2.2.2
Giai đoạn tiến hành cổ phần hóa
34
2.2.3.
Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình cổ phần hóa của
doanh nghiệp
47
2.3.
Đánh giá về quá trình cổ phần hóa tại Công ty supe phốt phát
và hóa chất Lâm Thao
54
2.3.1.
Những ƣu điểm của công ty trong quá trình cổ phần hóa
54
2.3.2.
Về nhƣợc điểm khi công ty tiến hành cổ phần hóa
56
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THI HÀNH PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA TẠI CÔNG
TY SUPE PHỐT PHÁT VÀ HÓA CHẤT LÂM THAO
59
3.1.
Những yêu cầu đặt ra nhằm nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật cổ phần hóa tại Công ty supe phốt phát và hóa chất
Lâm Thao
59
3.2.
Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc tại Công ty supe phốt
phát và hóa chất Lâm Thao
63
3.2.1.
Về các quy định của pháp luật
64
3.2.2.
Về quá trình tổ chức, thực hiện
69
KẾT LUẬN
72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
74
PHỤ LỤC
76
6
Danh môc c¸c b¶ng
Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
2.1
Sơ đổ cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần Supe phốt phát
và hóa chất Lâm Thao
42
7
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đến nay, đất nƣớc ta
đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của
Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Trong bƣớc chuyển đổi này, các
doanh nghiệp nhà nƣớc là một bộ phận trọng yếu của kinh tế nhà nƣớc đã bộc
lộ nhiều bất cập, hoạt động kém hiệu quả, chƣa thực sự tƣơng xứng với vai trò
chủ đạo của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần. Trƣớc tình hình đó, Đảng
và Nhà nƣớc đã có các chủ trƣơng về đổi mới các doanh nghiệp nhà nƣớc.
Hàng loạt các giải pháp đã đƣợc tiến hành, trong đó có giải pháp chuyển đổi
một số doanh nghiệp nhà nƣớc thành công ty cổ phần hay cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nƣớc. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc mở ra triển
vọng xây dựng nền kinh tế thị trƣờng lành mạnh và phong phú. Cổ phần hóa
cũng tạo điều kiện cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân, góp phần cải tiến quản lý
kinh tế có hiệu quả hơn, bởi nó xóa đi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, tạo
cơ hội cạnh tranh lành mạnh và phân phối lợi nhuận theo kết quả lao động.
Trƣớc tình hình đó, Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm thao
(lafchemco), tiền thân là nhà máy supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao đƣợc
sự lãnh đạo của Đảng, nhà nƣớc và chính quyền địa phƣơng đã dần dần
chuyển đổi hình thức sang công ty cổ phần theo cơ chế thị trƣờng, cải tiến
công nghệ - kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất và lợi nhuận. Vốn là đơn vị
hạch toán kinh tế độc lập, trực thuộc Tổng công ty Hóa chất Việt Nam, công
ty có nhiều lợi thế về điều kiện vị trí địa lý, cơ sở vật chất, vốn đầu tƣ kinh
doanh của nhà nƣớc nên công ty nhanh chóng chiếm đƣợc lợi thế hàng đầu
trong lĩnh vực sản xuất phân bón tại Việt Nam. Ngoài ra công ty còn sản xuất
8
axit sunphuric, NaF, sunfit, phèn đơn, phèn kép để phục vụ các ngành kinh
tế khác.
Ngày 31/12/2007 Tổng công ty Hóa chất Việt Nam đã ban hành Quyết
định số 697/QĐ-HCVN về việc cổ phần hóa Công ty Supe phốt phát và hóa
chất Lâm Thao với những phƣơng hƣớng đổi mới trong quản lý kinh doanh
[1]. Trải qua gần 2 năm (từ năm 2007 đến 2009) tiến hành cổ phần hóa doanh
nghiệp, tuy là một doanh nghiệp nhà nƣớc lớn trong ngành phân bón Việt
Nam trực thuộc Tổng công ty Hóa chất Việt Nam nhƣng cũng không tránh
khỏi những khó khăn vƣớng mắc, dẫn đến cổ phần hóa diễn ra còn chậm và
còn nhiều bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật. Chính vì vậy, nghiên cứu
thực tiễn quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc tại Công ty Supe phốt
phát và hóa chất Lâm Thao là một việc cần thiết để hiểu thêm về thực tiễn cổ
phần hóa doanh nghiệp tại Việt Nam, từ đó rút ra đƣợc những ƣu, nhƣợc điểm
và một số kiến nghị nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nƣớc còn lại và hoàn thiện lý luận pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nƣớc.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc đang đƣợc sự quan tâm
đặc biệt trong cả lý luận và thực tiễn hiện nay ở nƣớc ta. Trong hai mƣơi năm
qua, đã có nhiều văn bản của Đảng, Chính phủ, các Bộ, các Ngành đƣợc ban
hành về công tác cổ phần hóa. Lần đầu tiên Đảng ta đề cập đến chủ trƣơng cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai
Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa VII (tháng 11/1991): "Chuyển một số doanh
nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số
công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh
nghiệm chu đáo trƣớc khi mở rộng phạm vi thích hợp" [10].
Tiếp theo đó, các
nghị quyết của Đảng tiếp tục đƣợc ban hành nhằm chỉ ra những hạn chế trong
9
các doanh nghiệp nhà nƣớc và vạch ra phƣơng hƣớng cần phải tiến hành cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc, cụ thể nhƣ Nghị quyết Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII nêu rõ nguyên nhân doanh nghiệp nhà
nƣớc hoạt động kém hiệu quả và mục đích của cổ phần hóa, Nghị quyết số
10/NQ/TW ngày 17/3/1995 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy
vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nƣớc và Nghị quyết hội nghị lần thứ 4
BCH TW khóa VIII tháng 12/1997 nhấn mạnh thêm về đẩy mạnh, đổi mới và
quản lý có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp nhà nƣớc. Từ đó đến nay, các
văn kiện của Đảng tiếp tục đƣợc ban hành nhằm vạch ra phƣơng hƣớng cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc nhƣ Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành
Trung ƣơng khóa IX, Nghị quyết hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung
ƣơng khóa IX và Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng vào tháng 4/2006 tiếp tục chỉ rõ:
Đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nƣớc, trọng tâm là cổ phần hóa. Cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nƣớc, tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ
tầng, đẩy mạnh và mở rộng diện cổ phần hóa, kể cả tổng công ty
nhà nƣớc. Việc xác định giá trị doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc cổ
phần hóa, kể cả giá trị quyền sử dụng đất, phải theo cơ chế thị
trƣờng. Đề phòng và khắc phục những lệch lạc, tiêu cực trong quá
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc [11].
Và cho đến Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
khóa X ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30 tháng 01 năm 2008 về
tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa tiếp
tục xác định:
Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy quá trình
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc theo hƣớng nâng cao hiệu quả
10
doanh nghiệp, ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nƣớc đồng thời đảm
bảo quyền lợi chính đáng của ngƣời lao động. Hoàn thiện chủ thể
kinh doanh vốn nhà nƣớc để làm tốt chức năng đại diện chủ sở hữu
nhà nƣớc đối với vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp; ban hành mới cơ
chế quản lý vốn nhà nƣớc sau cổ phần hóa doanh nghiệp [12].
Bên cạnh những văn kiện của Đảng và Chính phủ, cũng đã có nhiều
đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, thạc sĩ, các bài viết đăng trên các tạp chí khoa
học đề cập và nghiên cứu chuyên sâu về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc.
Các công trình nghiên cứu đó đều thống nhất ở sự cần thiết phải thực hiện cổ
phần hóa và hoàn thiện cơ chế chính sách về cổ phần hóa nhƣ của tác giả
Trƣơng Văn Bân đã viết "Bàn về cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước",
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; PGS.TS Lê Hồng Hạnh xuất bản cuốn
sách "Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Bài viết của PGS.TS Phạm
Thanh Tâm: "Cổ phần hóa doanh nghiệp xuất bản phẩm và vấn đề đặt ra",
Tạp chí Mặt trận, số 67; hay Luận án tiến sĩ của tác giả Hoàng Kim Huyền
viết về "Một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước trong công nghiệp Việt Nam", năm 2003; Ở mức độ nghiên cứu ở
trình độ luận văn thạc sĩ, cũng có những công trình nghiên cứu của các tác giả
nhƣ: Vũ Trọng Lâm với đề tài "Thực trạng và giải pháp pháp lý đẩy mạnh
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của thành phố Hà Nội", năm
2005; Doãn Thị Dung với đề tài "Thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước tại Tập đoàn bưu chính viễn Thông tại Việt Nam", năm
2009. Bên cạnh đó còn nhiều công trình nghiên cứu khác bàn về vấn đề cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc và hầu hết các công trình nghiên cứu kể trên
nghiên cứu việc cổ phần hóa một doanh nghiệp nhà nƣớc đơn lẻ độc lập,
doanh nghiệp nhà nƣớc trực thuộc tổng công ty hoặc cổ phần hóa một bộ
phận trực thuộc doanh nghiệp nhà nƣớc. Đó là tiền đề lý luận để từ đó luận
11
văn nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn cổ phần hóa tại Công ty Supe phốt
phát và hóa chất Lâm Thao để so sánh và tìm ra đƣợc những mặt ƣu điểm và
nhƣợc điểm, thuận lợi và khó khăn thực tế của doanh nghiệp trong quá trình
cổ phần hóa.
3. Mục đích của đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên
cứu của đề tài.
Về phạm vi nghiên cứu, vì cổ phần hóa DNNN là một nội dung rất
lớn nên luận văn chỉ đi sâu vào phân tích vấn đề cổ phần hóa tại công ty Supe
phốt phát và hóa chất Lâm Thao, chỉ rõ đƣợc trong hơn 2 năm tiến hành cổ
phần hóa của công ty, công ty đã áp dụng pháp luật trong thực tiễn cổ phần
hóa nhƣ thế nào, có những khó khăn vƣớng mắc gì và những thành công trong
quá trình cổ phần hóa mà công ty đã đạt đƣợc.
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn của các quy định về thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nƣớc, từ đó tìm hiểu thực tiễn thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nƣớc tại Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao - là một doanh
nghiệp nhà nƣớc lớn ở Phú Thọ tiến hành cổ phần hóa. Trên cơ sở tìm hiểu và
phân tích vấn đề, luận văn tìm ra đƣợc những khó khăn, vƣớng mắc trong quá
trình thi hành pháp luật cổ phần hóa tại một địa phƣơng, góp phần hoàn thiện
thêm về pháp luật cổ phần hóa.
Để đạt đƣợc mục đích này, luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung về cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nƣớc;
- Thực trạng và thực tiễn thi hành pháp luật cổ phần hóa tại Công ty
Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao;
12
- Những thuận lợi và khó khăn mắc phải trong quá trình cổ phần hóa
tại Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao;
- Một số kiến nghị hoàn thiện và thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nƣớc tại Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở bám sát những chủ trƣơng, đƣờng
lối của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc về đổi mới và phát triển doanh nghiệp
nhà nƣớc trong đó có các doanh nghiệp nhà nƣớc quy mô lớn trong nền kinh
tế thị trƣờng của Việt Nam.
Luận văn vận dụng phƣơng pháp luận, các quy luật và phạm trù của
triết học Mác - Lênin trong quá trình nghiên cứu mà hạt nhân là phép duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, các phƣơng pháp phân tích, so sánh,
tổng hợp cũng đƣợc vận dụng kết hợp giải quyết những vấn đề mà đề tài tiếp
cận nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Khái quát chung về cổ phần hóa foanh nghiệp nhà nƣớc và
sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc tại Công ty
Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao.
Chương 2: Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc tại Công ty
Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp
luật cổ phần hóa tại Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao.
13
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾN HÀNH CỔ PHẦN HÓA
CÔNG TY SUPE PHỐT PHÁT VÀ HÓA CHẤT LÂM THAO
1.1. QUAN NIỆM VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là một chủ trƣơng lớn của Đảng
và Nhà nƣớc, có nhiều tác động đến sự phát triển kinh tế của đất nƣớc, đời sống
ngƣời lao động và những vấn đề xã hội khác nên đƣợc tiến hành một cách
thận trọng với những bƣớc thí điểm ban đầu vào năm 1990 trên cơ sở pháp lý
là Quyết định số 143/HĐBT ngày 10-5-1990. Sau đó, Chính phủ đã ban hành
nhiều chỉ thị, nghị quyết về vấn đề này, nhƣ: Chỉ thị số 202 ngày 6-8-1992; Chỉ
thị số 84 ngày 04-3-1993 của Thủ tƣớng Chính phủ; Nghị định số 28/NĐ-CP
ngày 07-5-1996; Nghị định số 25/CP ngày 26-3-1997; Thông báo số 63 TB/TW
ngày 04-4-1997 của Bộ Chính trị; Nghị định số 44/NĐ-CP ngày 29-6-1998;
Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19-6-2002, Chỉ thị số 45 ngày 22-10-2004
của Bộ Chính trị đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ƣơng 3, khóa IX về
sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nƣớc.
Theo quan điểm của các quốc gia đã tiến hành cổ phần hóa nhƣ Trung
Quốc, Malaisia, các nƣớc Đông Âu và Liên Xô cũ… thì việc xem xét vấn đề
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đều đặt nó trong một quá trình rộng lớn
hơn, đó là quá trình tƣ nhân hóa. Tƣ nhân hóa theo nhƣ định nghĩa của Liên
Hợp Quốc là sự biến đổi tƣơng quan giữa nhà nƣớc và thị trƣờng trong đời
sống kinh tế của một nƣớc ƣu tiên thị trƣờng. Theo cách hiểu này thì toàn bộ
chính sách, thể chế, luật lệ đều nhằm khuyến khích, mở rộng khu vực phát
triển kinh tế tƣ nhân hay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, giảm bớt
quyền sở hữu và sự can thiệp trực tiếp của nhà nƣớc vào các hoạt động kinh
14
doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, dành cho thị trƣờng vai trò điều tiết hoạt
động sản xuất kinh doanh thông qua tự do giá cả, tự do lựa chọn đối tác và
ngành nghề kinh doanh.
* Quan niệm về cổ phần hóa của Trung Quốc
Trung Quốc và Việt Nam không chỉ gần gũi nhau về địa lí mà còn có
những tƣơng đồng về mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung trƣớc đây và các
định hƣớng chuyển đổi hiện nay, vì vậy xem xét cổ phần hóa ở Trung Quốc là
cần thiết cho việc cổ phần hóa ở Việt Nam.
Trung Quốc dựa trên những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
để tiến hành chuyển hóa doanh nghiệp nhà nƣớc; coi cổ phần hóa là bộ phận
hữu cơ trong tổng thể đổi mới doanh nghiệp nhà nƣớc, luôn khẳng định đây là
con đƣờng tìm kiếm hiệu quả kinh doanh chứ không phải là tìm kiếm các hình
thức sở hữu khác nhau; đổi mới doanh nghiệp nhà nƣớc là khâu then chốt của cải
cách kinh tế, coi tiền đề của cải cách là xây dựng đồng bộ cơ chế thị trƣờng.
Mục tiêu cổ phần hóa ở Trung Quốc là mở rộng hình thức sở hữu tạo
cơ sở cho sự phát triển của kinh tế thị trƣờng. Điều chỉnh lại vai trò của khu
vực kinh tế nhà nƣớc nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp nhà nƣớc. Định hƣớng năng lực hành chính của nhà nƣớc giảm
bớt tham nhũng và thói quen dựa dẫm vào nhà nƣớc, thay đổi mối quan hệ
giữa những ngƣời quản lý hành chính với những ngƣời quản lý kinh tế. Và
mục tiêu cuối cùng là thƣơng mại hóa hành vi quản lý tạo ra chế độ khuyến
khích với các nhà quản lý, thay đổi lực lƣợng lao động, nâng cao thu nhập,
tăng nguồn thu để trả nợ và cho các mục đích khác, cân bằng ngân sách.
Hình thức cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở Trung Quốc là nhà
nƣớc cùng với các doanh nghiệp trong nền kinh tế tham gia nắm giữ cổ phần
để hình thành nên công ty cổ phần, theo đó công ty bán cổ phần cho ngƣời lao
động trong nội bộ doanh nghiệp và phát hành công khai cổ phần ra xã hội.
15
Về phƣơng pháp cổ phần hóa, Trung Quốc tiến hành cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nƣớc theo thứ tự doanh nghiệp có quy mô nhỏ rồi mới đến
vừa và lớn, coi trọng hình thức công ty cổ phần mà nhà nƣớc nắm cổ phần chi
phối các doanh nghiệp lớn.
Về quy trình cổ phần hóa, Trung Quốc tiến hành đầy đủ các bƣớc nhƣ:
Xác định danh sách các doanh nghiệp nhà nƣớc có đủ điều kiện cổ
phần hóa (kinh doanh có lãi không nằm trong diện doanh nghiệp nhà nƣớc
cần phải nắm giữ 100% vốn);
Xác định thực tế tài sản doanh nghiệp;
Tuyên truyền quảng cáo hoàn thiện chính sách để mọi ngƣời nắm
đƣợc thực chất hoạt động của doanh nghiệp và có quyết định mua cổ phần;
Lựa chọn phƣơng thức bán cổ phần rộng rãi cho công chúng hay bán
cho các đối tƣợng đã xác định trƣớc, mức giá bán cổ phiếu ƣu đãi;
Giải quyết các vấn đề hậu cổ phần hóa.
* Quan niệm về cổ phần hóa của một số nước ASEAN
Các nƣớc ASEAN có đặc điểm chung là hầu hết nền kinh tế các nƣớc
đều có tốc độ tăng trƣởng nhanh và tƣơng đối ổn định. các doanh nghiệp nhà
nƣớc hoạt động theo cơ chế thị trƣờng là chính chỉ có một bộ phần nhỏ là hoạt
động công ích chính vì vậy hiệu quả kinh doanh đƣợc đặt lên hàng đầu. Nếu
các doanh nghiệp nhà nƣớc mà hoạt động không hiệu quả thì sẽ bị giải thể
hoặc phá sản. Mục đích chính của cổ phần hóa ở các nƣớc ASEAN là: Nâng
cao hiệu quả hoạt động của kinh tế nhà nƣớc nói riêng, của toàn bộ nền kinh
tế nói chung, xây dựng lại cơ cấu kinh tế theo hƣớng ƣu tiên kinh tế tƣ nhân,
tạo môi trƣờng kinh doanh tích cực đảm bảo công bằng giữa các thành phần
kinh tế xóa bỏ một phần lối kinh doanh độc quyền kém hiệu quả của kinh tế
nhà nƣớc, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nƣớc. Singapore và Malaisia là
hai nƣớc tƣơng đối thành công trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc.
16
Tại Singapore nhà nƣớc đã sớm soạn thảo một chƣơng trình cổ phần
hóa có hệ thống phù hợp với đặc điểm tình hình trong nƣớc, một ủy ban tƣ
nhân hóa khu vực kinh tế nhà nƣớc đƣợc thành lập đã đề ra chƣơng trình cổ
phần hóa hoàn chỉnh dự định kéo dài trong 10 năm. Các doanh nghiệp nhà
nƣớc làm ăn có lãi đƣợc chọn là đối tƣợng cổ phần hóa trƣớc tiên. Thành
công nhất trong cổ phần hóa ở Singapore là đã không để xẩy ra tình trạng
thâm hụt ngân sách, vẫn duy trì đƣợc mức tăng trƣởng và tích lũy cao. do vậy
mà hầu hết các mục tiêu cổ phần hóa Singapore đề ra đều đã đạt đƣợc.
Malaisia đã thay đổi các chính sách kinh tế theo đó lấy cải cách khu
vực kinh tế nhà nƣớc làm trọng tâm. Chuyển khoảng 20% số doanh nghiệp
nhà nƣớc hiện có sang công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn
nhằm cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nƣớc theo hƣớng hoạt động có hiệu quả,
giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nƣớc, hạ mức nợ của chính phủ. Malaisia
đã chấp nhận xóa bỏ một phần sở hữu nhà nƣớc theo quan niệm doanh nghiệp
nhà nƣớc trong một số ngành thuộc hạ tầng cơ sở hoặc dịch vụ trƣớc đây tƣ
nhân không đầu tƣ nên nhà nƣớc phải chịu trách nhiệm. Còn bây giờ khu vực
kinh tế tƣ nhân đã đủ sức vƣơn tới những lĩnh vực này thì nên thu hẹp phần
doanh nghiệp nhà nƣớc không chỉ các xí nghiệp làm ăn thua lỗ mà còn cả
những xí nghiệp làm ăn có lãi.
Qua kinh nghiệm của các nƣớc ta thấy cổ phần hóa không bao giờ dễ
dàng song nhiều nƣớc đã thành công. Điều kiện của chúng ta hiện nay là tƣơng
đối thuận lợi, vì vậy phải tranh thủ đẩy mạnh cổ phần hóa, phải mạnh dạn trong
suy nghĩ và hành động và có quyết tâm cao thì mới đạt đƣợc kết quả nhƣ ý muốn.
* Quan niệm về cổ phần hóa của Việt Nam
Từ quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở các quốc gia trong
khu vực Đông Nam Á, Đảng và Nhà nƣớc ta đã rút ra kinh nghiệm để tiến
hành cổ phần hóa đƣợc hoàn chỉnh và toàn diện hơn. Theo quan điểm của
17
Đảng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc tiến hành nhằm nâng cao
hiệu quả kinh doanh; đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trƣờng; huy động vốn từ
các thành phần kinh tế; tăng cƣờng quản lý dân chủ. Đảng và Nhà nƣớc khẳng
định cổ phần hóa ở Việt Nam không phải là tƣ nhân hóa vì cổ phần hóa hƣớng
tới tháo gỡ khó khăn về vốn, về cơ chế cho doanh nghiệp nhà nƣớc hiện có,
không nhằm thu hẹp sở hữu nhà nƣớc trong nền kinh tế quốc dân. Vốn thu
đƣợc từ bán cổ phần, Nhà nƣớc không chi dùng cho ngân sách mà để đầu tƣ
tiếp vào nền kinh tế. Theo quan điểm của Đảng, cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nƣớc là việc nhà nƣớc bán một phần hay toàn bộ giá trị tài sản doanh
nghiệp của mình cho các cá nhân hay tổ chức kinh tế trong hoặc ngoài nƣớc,
hoặc bán trực tiếp cho cán bộ, công nhân viên của chính doanh nghiệp nhà
nƣớc thông qua đấu thầu công khai, hay thông qua thị trƣờng chứng khoán để
hình thành nên các công ty cổ phần [25].
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là vấn đề rất mới đối với Việt
Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nƣớc của các nƣớc trên thế giới đặc biệt là các nƣớc có điều kiện tƣơng đồng
nhƣ: Trung Quốc, Nga, các nƣớc ASEAN để tìm kiếm kinh nghiệm có thể
vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam là vô cùng quan trọng.
Nói tóm lại, quan niệm về cổ phần hóa của các quốc gia đều hƣớng tới
nội dung chung nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bằng cách tƣ nhân hóa.
Cổ phần hóa chính là phƣơng thức thực hiện xã hội hóa sở hữu - Chuyển hình
thức kinh doanh từ một chủ sở hữu là doanh nghiệp nhà nƣớc thành công ty cổ
phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp hơn
với nền kinh tế thị trƣờng và đáp ứng đƣợc nhu cầu của kinh doanh hiện đại.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Thuật ngữ cổ phần hóa xuất hiện ở Việt Nam cuối những năm 1980
đầu những năm 1990, gắn với công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nƣớc.
18
Cho đến nay, dƣờng nhƣ mọi ngƣời mặc nhiên sử dụng thuật ngữ cổ phần
hóa, mà chƣa quan tâm nhiều tới việc định nghĩa hay đƣa ra một khái niệm
đầy đủ cho thuật ngữ này. Không chỉ ở Việt Nam mà ngay trên thế giới cũng
chƣa thấy có học giả hay nhà nghiên cứu khoa học nào đƣa ra khái niệm về cổ
phần hóa. Có nhiều ý kiến cho rằng, cổ phần hóa doanh nghiệp tại Việt Nam
cũng không khác gì quá trình tƣ nhân hóa ở các quốc gia trên thế giới. Nhƣng
theo quan điểm của ông Hồ Xuân Hùng - Phó Trƣởng ban đổi mới và phát
triển doanh nghiệp Trung ƣơng lại khẳng định: Cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nƣớc hoàn toàn không phải là tƣ nhân hóa. Với những doanh nghiệp nhà
nƣớc nắm giữ trên 50% vốn sau khi cổ phần, thì theo luật doanh nghiệp nó
vẫn là doanh nghiệp nhà nƣớc. Vì vậy không nên băn khoăn nó là tƣ nhân hay
là nhà nƣớc [23].
Nhƣ vậy, theo quan điểm của ông Hồ Xuân Hùng thì những doanh
nghiệp nhà nƣớc nào mà sau khi đƣợc cổ phần hóa, nhà nƣớc vẫn nắm giữ
trên 50% vốn điều lệ thì bản chất của nó không thay đổi, vẫn là doanh nghiệp
của nhà nƣớc bởi nhà nƣớc nắm mọi quyền quyết định đối với doanh nghiệp.
Phải chăng nó chỉ khác ở chỗ là bên cạnh chủ sở hữu là nhà nƣớc còn có
nhiều cá nhân, tổ chức khác cũng là chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Theo quan điểm về khái niệm cổ phần hóa của Thạc sĩ Nguyễn Hồng
Nhung đƣợc trình bày trong Luận văn thạc sĩ Luật học của Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2004 với đề tài: "Cổ phần và cổ phần hóa Doanh
nghiệp nhà nƣớc", thì cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là việc chuyển
doanh nghiệp mà chủ sở hữu là nhà nƣớc (doanh nghiệp đơn sở hữu) thành
công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở hữu), chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp nhà nƣớc sang hoạt động theo quy định về công
ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp [19].
Theo khái niệm này, cổ phần hóa doanh nghiệp chính là làm đa dạng
các chủ sở hữu doanh nghiệp, đồng thời chuyển đổi nguồn luật điều chỉnh
19
doanh nghiệp từ luật doanh nghiệp nhà nƣớc sang luật doanh nghiệp. Khái
niệm này mới chỉ nêu đƣợc khái quát vấn đề về chuyển đổi doanh nghiệp đó
là đa dạng chủ sở hữu và chuyển đổi nguồn luật điều chỉnh chứ chƣa nêu rõ
đƣợc bản chất của loại hình doanh nghiệp đƣợc chuyển đổi.
Sau khi nghiên cứu và tìm hiểu ở các nguồn tài liệu, bản thân tác giả
đƣa ra một khái niệm chung chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc:
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là quá trình chuyển doanh nghiệp thuộc
sở hữu Nhà nƣớc sang hình thức công ty cổ phần thông qua quá trình chào
bán các cổ phiếu chứng nhận quyền sở hữu doanh nghiệp cho các cổ đông.
Hay có thể hiểu là thông qua quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc
mà doanh nghiệp trƣớc đây thuộc sở hữu 100% vốn của Nhà nƣớc hoạt động
theo Luật Doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc chuyển sang một loại hình doanh
nghiệp công ty cổ phần có nhiều chủ sở hữu, trong đó Nhà nƣớc có thể là một
cổ đông để hoạt động theo luật Doanh nghiệp.
Khái niệm trên đây cho thấy rõ hình thức chuyển đổi doanh nghiệp từ
doanh nghiệp nhà nƣớc chỉ có một chủ sở hữu sang công ty cổ phần với nhiều
chủ sở hữu đƣợc gọi là các cổ đông, phƣơng thức chuyển đổi là phát hành cổ
phiếu chứng nhận quyền sở hữu và nguồn luật điều chỉnh cho loại hình doanh
nghiệp mới đƣợc chuyển đổi là Luật Doanh nghiệp.
Nhƣ vậy, cổ phần hóa doanh nghiệp không phải quá trình tƣ nhân hóa,
mà là quá trình đa dạng hóa chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Nhà nƣớc sẽ
chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn của nhà nƣớc cho các cá nhân, tổ
chức khác mà thƣờng là có ba tổ chức, cá nhân chính: Nhà nƣớc, ngƣời lao
động trong doanh nghiệp và cổ đông ngoài doanh nghiệp, nhằm đa dạng hóa
các chủ sở hữu cho doanh nghiệp, góp phần tạo sự năng động và hiệu quả
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đổi mới tổ chức quản
lý doanh nghiệp nhà nƣớc, phát huy cao độ quyền tự chủ của doanh nghiệp
20
trong việc thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao. Thực hiện tốt chủ trƣơng cổ phần
hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nƣớc để huy động thêm vốn, tạo động lực
thúc đẩy Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản thuộc sở hữu nhà
nƣớc ngày càng tăng lên. Từ đó, doanh nghiệp không còn hoạt động theo Luật
Doanh nghiệp nhà nƣớc nữa mà sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp
năm 2005.
Từ khái niệm trên đây, ta có thể rút ra đƣợc một số đặc điểm của cổ
phần hóa:
Thứ nhất, cổ phần hóa là biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu
nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần, hay còn gọi là đa sở hữu. Doanh
nghiệp đƣợc cổ phần hóa sẽ không chỉ có một chủ sở hữu độc quyền quyết
định mọi vấn đề về đầu tƣ, kinh doanh mà sẽ có các chủ sở hữu - Đƣợc gọi là
các cổ đông cùng đóng góp vốn và đều có quyền tham gia vào quá trình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Quyền và lợi ích của doanh nghiệp không
chỉ là của một chủ sở hữu mà là của nhiều chủ sở hữu tham gia góp vốn đầu
tƣ vào doanh nghiệp.
Thứ hai, cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi hình thức hoạt động từ
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang công ty cổ phần. Đây là hình thức
chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, liên quan đến nguồn luật điều chỉnh doanh
nghiệp. Sau khi chuyển đổi, doanh nghiệp sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật
Doanh nghiệp năm 2005 theo hình thức công ty cổ phần chứ không nằm trong
sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp nhà nƣớc năm 2003.
Thứ ba, quá trình cổ phần hóa được tiến hành thông qua hình thức
nhà nước bán một phần hay toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
Thực tế, các doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc cổ phần hóa lại dƣới sự điều khiển
và chỉ đạo của chính chủ sở hữu doanh nghiệp, nên thƣờng nhà nƣớc vẫn
chiếm giữ tỉ lệ phần trăm vốn góp rất lớn trong doanh nghiệp đƣợc cổ phần
21
hóa. Nếu nhƣ nhà nƣớc muốn nắm giữ tỉ lệ phần trăm vốn góp lớn, thì các
doanh nghiệp tƣ nhân chỉ còn lại phần mà Nhà nƣớc cho phép tƣ nhân đƣợc
đóng góp vốn.
1.1.2. Bản chất của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Theo cách hiểu thông thƣờng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc có
nghĩa là chia phần vốn của doanh nghiệp nhà nƣớc ra thành các phần, cá
nhân, tổ chức có thể mua phần vốn đó và sẽ trở thành chủ sở hữu của công ty.
Về thực chất, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là quá trình tƣ nhân hóa. Ta
có thể xem xét bản chất của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc dựa trên hai
khía cạnh đó là bản chất pháp lý và khía cạnh chính trị [19].
Về bản chất pháp lý, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là
thay đổi về chủ sở hữu. Doanh nghiệp vốn từ một chủ sở hữu là nhà nƣớc, sau
khi đƣợc cổ phần hóa sẽ chuyển sang doanh nghiệp có đa chủ sở hữu. Các cá
nhân, tổ chức có năng lực tài chính có thể mua cổ phần đóng góp vốn vào
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và cùng với nhà nƣớc là đồng chủ
sở hữu của doanh nghiệp. Các chủ sở hữu có quyền lợi và nghĩa vụ của mình
tƣơng đƣơng với phần vốn góp đó, đƣợc hƣởng lợi nhuận, chức vụ và địa vị
trong doanh nghiệp tƣơng đƣơng với tài sản của mình bỏ ra để đóng góp vào
doanh nghiệp.
Về khía cạnh chính trị, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc không
nhằm mục tiêu tƣ nhân hóa nền kinh tế, mà cổ phần hóa đƣợc coi là quá trình
tƣ nhân hóa một phần. Nhà nƣớc vẫn giữ phần vốn góp nhất định, thậm chí là
chi phối trong doanh nghiệp đƣợc cổ phần. Nếu nhƣ nhà nƣớc vẫn nắm giữ
chi phối đa phần vốn góp (trên 50%), thì bản chất doanh nghiệp đó vẫn đƣợc
coi là doanh nghiệp của nhà nƣớc, và nhà nƣớc có quyền quyết định cao nhất
trong lĩnh vực điều hành và quản lý doanh nghiệp. Còn trong trƣờng hợp nhà
22
nƣớc nắm giữ một phần vốn góp (dƣới 50%) thì nhà nƣớc chỉ có quyền biểu
quyết dựa trên số phần trăm vốn góp của mình. Có thể nói, cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nƣớc không nhằm xóa bỏ hoàn toàn sở hữu nhà nƣớc trong các cơ
sở kinh tế công mà chỉ giảm mức độ sở hữu. Quá trình cổ phần hóa đƣa tƣ
nhân vào cùng làm chủ sở hữu, trong đó có cả ngƣời lao động từng làm trong
doanh nghiệp, có thể có cá nhân, tổ chức là ngƣời nƣớc ngoài… Đây chính là
đồng chủ sở hữu cùng có tiếng nói quyết định đến sự phát triển của doanh
nghiệp, đƣa nền kinh tế của đất nƣớc dần dần phát triển và hội nhập quốc tế
theo đúng định hƣớng tiến lên xã hội chủ nghĩa.
1.1.3. Vai trò cổ phần hóa
Doanh nghiệp nhà nƣớc là một bộ phận trong thành phần kinh tế nhà
nƣớc. Việc sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là nhằm
trực tiếp nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nƣớc, đảm bảo doanh
nghiệp nhà nƣớc làm tốt nhiệm vụ nòng cốt, phát huy vai trò chủ đạo của nền
kinh tế nhà nƣớc, qua đó, phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế khác. Do
vậy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc trong nền kinh tế quốc dân có những
vai trò chủ đạo sau:
Thứ nhất, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cũng như cổ phần
hóa các doanh nghiệp nói chung trong các thành phần kinh tế khác là xử lý
về mặt quan hệ sản xuất để phát triển lực lượng sản xuất, kết hợp chặt chẽ
lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Với vai trò này, cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nƣớc góp phần vào cải tạo lực lƣợng sản xuất sao cho phù hợp
với quan hệ sản xuất, giải quyết nhanh chóng mâu thuẫn chênh lệch giữa
mối quan hệ sản xuất với lực lƣợng sản xuất, đem lại sự năng động ở tƣ duy,
hiện đại ở công cụ lao động và học thức trình độ cao ở tay nghề nhằm nâng
cao năng suất lao động, chất lƣợng sản phẩm hàng hóa và sinh nhiều lợi
nhuận cho doanh nghiệp.
23
Thứ hai, cổ phần hóa góp phần tích cực thúc đẩy công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Các doanh nghiệp động viên và tập trung đƣợc những
khoản vốn lớn để đổi mới công nghệ, đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy và tận dụng những ƣu điểm
của lực lƣợng sản xuất, làm động lực đẩy mạnh cổ phần hóa, không ngừng cải
thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp. Cổ phần hóa là đòn bẩy để các doanh
nghiệp tích cực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trƣờng để tìm kiếm nhiều lợi nhuận.
Đây là mối quan hệ không thể tách rời.
Thứ ba, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn góp phần làm thay
đổi tư duy xã hội chủ nghĩa theo chế độ bao cấp lỗi thời lạc hậu, thay vào đó
là tư duy năng động, nhạy bén trước tình hình biến đổi của kinh tế thế giới.
Chế độ một chủ sở hữu là nhà nƣớc thực hiện chính sách bao cấp đã lỗi thời,
lạc hậu, cần thay vào đó là chế độ đa chủ sở hữu cùng hoạt động kinh doanh
tìm kiếm lợi nhuận trƣớc nhiều thách thức và khó khăn của nền kinh tế. Từ
đó, mau chóng chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang công nghiệp và dịch vụ, đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo mục tiêu của Đảng và Nhà
nƣớc đề ra.
Cuối cùng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn góp phần làm
chuyển dịch các thành phần kinh tế, cụ thể: Từ việc doanh nghiệp nhà nƣớc
do nhà nƣớc làm chủ, đƣợc xếp trong thành phần kinh tế nhà nƣớc, do nhà
nƣớc quản lý và chi phối, thì sau khi cổ phần hóa, doanh nghiệp đƣợc cổ phần
sẽ có sự thay đổi chuyển dịch về các thành phần kinh tế khác. Trong những
doanh nghiệp cổ phần có ba chủ sở hữu, nếu sở hữu của tập thể ngƣời lao
động chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tập thể. Nếu sở hữu
nhà nƣớc và sở hữu tƣ bản tƣ nhân chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế tƣ bản nhà nƣớc. Còn trƣờng hợp sở hữu tƣ bản tƣ nhân chi phối
thì doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tƣ bản tƣ nhân. Nhƣ vậy, thành
24
phần kinh tế nhà nƣớc về mặt quy mô sẽ bị giảm đi, và thay vào đó là sự gia
tăng về quy mô của các thành phần kinh tế khác, góp phần vào quá trình
chuyển dịch thành phần kinh tế, theo đó nhà nƣớc dần rút bớt đi sự "chi phối"
của mình, mà thay vào đó là sự "xâm nhập" tƣ nhân hóa.
1.2. NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CỔ PHẦN HÓA
Thứ nhất, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải đảm bảo nguyên
tắc đa dạng hóa về sở hữu nhưng vẫn phải đảm bảo quyền chi phối của Nhà
nước, bảo tồn và làm tăng hơn giá trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp [6].
Theo nguyên tắc này, doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc cổ phần hóa sẽ
thay đổi hình thức sở hữu từ một chủ sở hữu sang đa chủ sở hữu. Chủ sở hữu
doanh nghiệp không phải chỉ mỗi nhà nƣớc mà còn có rất nhiều cá nhân, tổ
chức khác, ngay cả ngƣời lao động cũng đều có quyền làm chủ. Tuy vậy, việc
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc làm thay đổi chủ sở hữu nhƣng thực chất
thì doanh nghiệp đƣợc cổ phần hóa đó vẫn thuộc quyền chi phối của nhà
nƣớc, vì nhà nƣớc phải chiếm tối thiểu 51% vốn điều lệ của doanh nghiệp, có
nghĩa là các doanh nghiệp nhà nƣớc sau khi đƣợc cổ phần hóa vẫn phải chịu
sự chi phối của nhà nƣớc. Các chủ sở hữu doanh nghiệp đều có quyền quyết
định những vấn đề quan trọng của doanh nghiệp, song quyền quyết định lớn
nhất vẫn thuộc về nhà nƣớc. Nhƣ vậy theo nguyên tắc này, các doanh nghiệp
nhà nƣớc sau khi đƣợc cổ phần hóa vẫn phải chịu sự chi phối của nhà nƣớc và
tiếp tục duy trì sự chi phối đó, ngày càng làm tăng hơn giá trị vốn góp của nhà
nƣớc vào doanh nghiệp, đồng nghĩa với việc càng phát triển hơn sự chi phối
của nhà nƣớc đối với doanh nghiệp.
Thứ hai, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải đảm bảo nguyên
tắc bảo đảm quyền lợi của người lao động.
Quyền lợi của ngƣời lao động trong doanh nghiệp đƣợc cổ phần hóa
rất dễ bị vi phạm nếu không có sự điều chỉnh và can thiệp của pháp luật.
25
Trong quá trình cổ phần hóa, ngƣời lao động trong doanh nghiệp là những cá
nhân "thấp cổ bé họng", dễ bị xâm phạm quyền và lợi ích nếu nhƣ không có
pháp luật bảo hộ và can thiệp. Vì thế các doanh nghiệp nhà nƣớc tiến hành cổ
phần hóa phải đảm bảo nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của ngƣời lao động
trong việc hƣởng chính sách ƣu đãi mua cổ phần, hƣởng lợi tức, hƣởng lƣơng,
thƣởng và các chế độ phúc lợi khác, ngay cả chế độ trợ cấp thôi việc, mất việc
cho những ngƣời lao động không đủ khả năng và trình độ để làm việc cho
doanh nghiệp sau khi đƣợc cổ phần hóa.
Thứ ba, cổ phần hóa phải đảm bảo nguyên tắc công ty cổ phần kế
thừa toàn bộ quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước [6].
Các quyền và nghĩa vụ mà công ty cổ phần phải kế thừa từ doanh
nghiệp nhà nƣớc đƣợc cổ phần hóa thể hiện nhƣ sau:
Doanh nghiệp cổ phần hóa có trách nhiệm sắp xếp, sử dụng tối đa số
lao động tại thời điểm quyết định cổ phần hóa và giải quyết chế độ cho ngƣời
lao động nghỉ việc, thôi việc theo quy định hiện hành.
Công ty cổ phần có nghĩa vụ kế thừa mọi trách nhiệm đối với ngƣời
lao động từ doanh nghiệp cổ phần hóa chuyển sang; có quyền tuyển chọn, bố
trí sử dụng lao động và phối hợp với các cơ quan liên quan giải quyết chế độ
cho ngƣời lao động theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp cổ phần hóa có trách nhiệm phối hợp với cơ quan có
liên quan kiểm tra, xử lý những vấn đề về tài chính để xác định giá trị phần
vốn nhà nƣớc tại thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần.
Công ty cổ phần đƣợc sử dụng toàn bộ tài sản, nguồn vốn đã nhận bàn
giao để tổ chức sản xuất, kinh doanh; kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách
nhiệm của doanh nghiệp cổ phần hóa đã bàn giao và có các quyền, nghĩa vụ
khác theo quy định của pháp luật.
26
Nhƣ vậy, theo nguyên tắc trên, công ty cổ phần sau khi đƣợc cổ phần
hóa phải kế thừa toàn bộ quyền và nghĩa vụ về đảm bảo quyền và lợi ích cho
ngƣời lao động, về xử lý vấn đề tài chính của doanh nghiệp, có trách nhiệm về
toàn bộ tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp. Từ đó, công ty cổ phần kế
thừa những thành quả của doanh nghiệp nhà nƣớc, thực hiện trọn vẹn những
nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nƣớc còn chƣa hoàn thành, từ đó tạo ra những
cơ sở để phát triển doanh nghiệp.
Thứ tư, cổ phần hóa phải đảm bảo nguyên tắc thực hiện công khai,
minh bạch thông tin và niêm yết trên thị trường chứng khoán
Doanh nghiệp cổ phần hóa phải thực hiện công khai, minh bạch các
thông tin về doanh nghiệp, về phƣơng án cổ phần hóa, tình hình quản lý và sử
dụng đất đai, lao động theo đúng quy định tại Luật Doanh nghiệp và các quy
định khác của pháp luật.
Doanh nghiệp cổ phần hóa có tình hình tài chính đáp ứng đủ điều kiện
niêm yết theo quy định của pháp luật về chứng khoán phải xây dựng phƣơng
án cổ phần hóa để đảm bảo cơ cấu cổ đông thực hiện niêm yết trên Sở Giao
dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán.
Cơ quan quyết định cổ phần hóa quy định việc cổ phần hóa đồng thời
với việc niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán trong phƣơng án cổ phần hóa
để công bố cho các nhà đầu tƣ biết trƣớc khi bán cổ phần lần đầu. Ngƣời đại
diện phần vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp có trách nhiệm biểu quyết tại Đại
hội đồng cổ đông lần đầu để thông qua Nghị quyết về việc niêm yết.
Trên đây là những nguyên tắc cơ bản để thực hiện cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nƣớc. Bên cạnh đó, khi tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp cần
phải tuân thủ thêm một vài nguyên tắc khác nhƣ nguyên tắc thị trƣờng,
nguyên tắc thực hiện bán cổ phần cho các nhà đầu tƣ và ngƣời lao động trong
doanh nghiệp theo đúng quy định của pháp luật.
27
1.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CỔ PHẦN HÓA CÔNG TY SUPE PHỐT PHÁT
VÀ HÓA CHẤT LÂM THAO
Trƣớc thời kỳ đổi mới, do yêu cầu phát triển kinh tế đất nƣớc vừa để
chăm lo cho đời sống của nhân dân, vừa là hậu phƣơng vững chắc cho tiền
tuyến kháng chiến, Nhà nƣớc đã tiến hành thành lập nhiều doanh nghiệp ở các
lĩnh vực quan trọng nhƣ ngành điện nƣớc, ngành than dầu, ngành nông sản -
thực phẩm và đặc biệt là ngành phân bón nhằm mục đích bình ổn giá cả và
thực hiện chế độ bao cấp cho ngƣời dân Việt Nam. Đối với ngành phân bón,
đƣợc sự hỗ trợ của Liên Xô, năm 1959 Nhà nƣớc đã tiến hành thành lập Nhà
máy supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao - Đây là một doanh nghiệp nhà
nƣớc trực thuộc Tổng công ty Hóa chất Việt Nam nhằm cung cấp phân bón
cho ngành nông nghiệp gần nhƣ lớn nhất cả nƣớc. Nhà nƣớc bỏ 100% vốn
đầu tƣ cho nhà máy kinh doanh sản xuất phân bón, phục vụ nhu cầu thiết yếu
cho nền nông nghiệp. Bên cạnh đó, dƣới sự hỗ trợ của Liên Xô, Nhà nƣớc còn
thực hiện nhiều chính sách phúc lợi để chăm lo đời sống cho công nhân viên
trong nhà máy nhƣ xây dựng nhà tập thể, nhà trẻ mẫu giáo, trƣờng tiểu học
cấp I, cấp II, nghĩa trang… Điều đó để đánh giá rằng, trong những năm trƣớc
đây nhà nƣớc đã bỏ vốn đầu tƣ toàn bộ cho doanh nghiệp không những chỉ
nhằm kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận mà còn thực hiện chính sách bao cấp
cho cán bộ công nhân viên trong công ty.
Sau nhiều năm hoạt động, nhà máy đã cung cấp lƣợng phân bón khá
lớn cho ngành nông nghiệp trong nƣớc, ngay cả xuất khẩu ra nƣớc ngoài nhƣng
do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan dẫn tới nhà máy kinh doanh gặp
nhiều khó khăn và thua lỗ. Nhà nƣớc phải đứng ra bù lỗ cho doanh nghiệp và
vẫn tiến hành lo đầy đủ các chế độ phúc lợi cho cán bộ công nhân viên trong
nhà máy. Trƣớc yêu cầu của thời kỳ đổi mới cùng với sự phát triển kinh tế
chung của cả nƣớc, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, mặc dù nhà máy
supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao đã đƣợc đổi tên thành Công ty Supe
28
phốt phát và hóa chất Lâm Thao nhằm cơ cấu và bố trí lại doanh nghiệp
nhƣng thực tế công ty vẫn không kịp chuyển mình để đáp ứng đƣợc yêu cầu
mới đặt ra, và còn bộc lộ khá nhiều yếu kém nhƣ: Quy mô sản xuất kinh
doanh nhỏ bé, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý non kém; tổ chức,
bộ máy cồng kềnh; cơ chế quản lý trong các doanh nghiệp chƣa hợp lý, kém
hiệu quả; khả năng cạnh tranh yếu trên thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế.
Trƣớc tình hình đó, Đảng và Nhà nƣớc ta đã thực hiện nhiều biện
pháp sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhà máy
nhằm phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nƣớc trong nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, cổ phần hóa đƣợc coi là một
giải pháp quan trọng để cải thiện tình hình này nhằm nâng cao hiệu quả sản
xuất, kinh doanh của công ty Supe nói riêng và các doanh nghiệp nhà nƣớc
nói chung. Tăng cƣờng huy động vốn đầu tƣ từ xã hội, để cải tiến công nghệ
kỹ thuật cũ kỹ lạc hậu, xóa bỏ tƣ tƣởng nhà nƣớc bao cấp của công nhân viên,
tạo ý thức làm việc tốt hơn cho công nhân viên trong công ty, dần xóa bỏ đi
cơ chế quản lý cứng nhắc, yếu kém và khắc phục tình trạng lãi giả, lỗ thật còn
đang tồn tại trong công ty.
Bên cạnh đó cổ phần hóa công ty còn là cơ hội để công ty có thể tự
chủ kinh doanh, bố trí lại cơ cấu tổ chức trong công ty, tinh giảm biên chế và
có cơ hội để phát triển kinh doanh, tìm kiếm khách hàng mới và nâng cao
năng suất lao động. Cổ phần hóa công ty supe sẽ giải quyết đƣợc những vấn
đề nhƣ: Thực hiện cổ phần hóa công ty là để giải quyết mâu thuẫn giữa quan
hệ sản xuất và lực lƣợng sản xuất; thực hiện cổ phần hóa nhằm xã hội hóa lực
lƣợng sản xuất, thu hút thêm nguồn lực sản xuất. Vì khi thực hiện cổ phần
hóa, ngƣời lao động sẽ gắn bó, có trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành
ngƣời chủ thực sự của doanh nghiệp và đƣợc hƣởng thù lao và lợi nhuận dựa
trên chính sức lực của mình bỏ ra. Ngoài ra, phƣơng thức quản lý đƣợc thay
đổi sẽ tạo nên sự năng động, tự chủ hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh