Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Vai trò của Công đoàn trong công việc bảo vệ quyền lợi người lao động tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN ANH TUẤN





VAI TRÕ CỦA CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƢỜI LAO ĐỘNG TẠI DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Lê Thị Hoài Thu







HÀ NỘI - 2012


1
MUC LUC



Chƣơng 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG ĐOÀN VÀ VAI TRÕ CỦA TỔ
CHỨC CÔNG ĐOÀN.
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG ĐOÀN
1.1.1. Vị trí của công đoàn … . . . ………………………………………… ……. 7
1.1.2. Tính chất của công đoàn. …………………………………………………… 8
1.1.3. Cơ cấu tổ chức của công đoàn Việt nam……………………………………. 9
1.1.4. Chức năng, nhiệm vụ của công đoàn. 12
1.2. Vai trò của công đoàn…………………………………………………………. 16
1.2.1. Khái niệm về vai trò của công đoàn. ……………………………………… 16
1.2.2. Nội dung vai trò của công đoàn. ………………………………………… 19
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của công đoàn Việt Nam. 26
Chƣơng 2. VAI TRÕ CỦA CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƢỜI LAO ĐỘNG TẠI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI
Ở VIỆT NAM
2.1. VAI TRÒ CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC THẢO LUẬN CÁC VẤN ĐỀ VỀ
QUAN HỆ LAO ĐỘNG. 31
2.2. VAI TRÒ CÔNG ĐOÀN THAM GIA KIỂM TRA, GIÁM SÁT THI HÀNH
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG. . 36
2.3. VAI TRÕ CỦA CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC THƢƠNG LƢỢNG, KÝ KẾT
THỎA ƢỚC LAO ĐỘNG TẬP THỂ. …………………………………………… 42
2.4. VAI TRÒ CÔNG ĐOÀN THAM GIA HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG
LAO ĐỘNG. ……………………………………………………………………. 46



2
2.4.1. Trong quá trình ký kết và chấm dứt hợp đồng lao động. …………… 46
2.4.2. Trong quá trình xây dựng nội quy, quy chế của doanh nghiệp …… 47
2.4.3. Trong quá trình xử lý kỷ luật lao động và bồi thƣờng thiệt hại. …… 49
2.4.4. Trong việc cổ phần hóa, sáp nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp. 51
2.5. VAI TRÕ CỦA CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC TỔ CHỨC NÂNG CAO ĐỜI SỐNG
VẬT CHẤT TINH THẦN CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG …………………………. 52
2.6. VAI TRÒ CÔNG ĐOÀN THAM GIA GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO
ĐỘNG VÀ ĐÌNH CÔNG. ……………………………………………………… 55
2.6.1. Vai trò của công đoàn trong giải quyết tranh chấp lao động. …………… 55
2.6.2. Vai trò của công đoàn trong tổ chức và lãnh đạo đình công. …………… 58
Chƣơng 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO VAI TRÕ CỦA CÔNG
ĐOÀN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI LAO ĐỘNG TẠI DOANH
NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
3.1. NHẬN XÉT VỀ VAI TRÕ CỦA CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƢỜI LAO ĐỘNG TẠI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ
NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM …………………………………………………… 66
3.1.1. Về ƣu điểm. ……………………………………………………………… 66
3.1.2. Về hạn chế. …………………………………………………………………. 76
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI LAO ĐỘNG TẠI
DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM. ……….83
3.2.1. Về các quy định của pháp luật. ………………………………………… 83
3.2.2. Về tổ chức thực hiện. 91
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101




3





























4

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Công đoàn Việt nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân, người
lao động tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam. Là tổ chức
của người lao động, nên tổ chức và hoạt động của công đoàn gắn liền với chủ thể là
người lao động trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp phù hợp với nền chính trị,
kinh tế, xã hội của đất nước.
Luật công đoàn ban hành tháng 6 năm 1990 là cơ sở pháp lý quan trọng để tổ
chức công đoàn thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình sát hợp với quyền và lợi ích
hợp pháp của người lao động trong thời kỳ đầu đất nước chuyển từ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. So với 20
năm trước, tổ chức công đoàn và hoạt động công đoàn đang đứng trước những thách
thức lớn. Nền kinh tế đa dạng hơn về hình thức sở hữu, quan hệ lao động việc làm ngày
càng trở lên phức tạp. Khác với các doanh nghiệp nhà nước, nơi được cho rằng không
có sự tách biệt về lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động do các doanh
nghiệp đó thuộc sở hữu toàn dân, sự phân kỳ về lợi ích giữa người lao động và người
sử dụng lao động trong khu vực ngoài quốc doanh nói chung và trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng ngày càng thể hiện rõ nét.
Theo thống kê của Sở Lao động Thương binh và Xã hội Bình Dương thì 6 tháng
đầu năm nay đã có 150 vụ tranh chấp lao động tập thể và đình công tại 142 doanh
nghiệp với gần 80 ngàn công nhân tham gia, tăng gần 50% so với cùng kỳ năm 2010.
Nhiều vụ diễn ra với quy mô lớn, thời gian kéo dài nhiều ngày khiến sản xuất đình trệ
nghiêm trọng. Đáng chú ý là vụ đình công của trên 6.000 công nhân Công ty Trách
nhiệm hữu hạn Chí Hùng (vốn Đài Loan) ở huyện Tân Uyên (chuyên sản xuất giày da)
kéo dài suốt trong 8 ngày liền gây thiệt hại nặng nề đến sản xuất kinh doanh.

5
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, theo thống kê từ đầu năm đến nay đã có 132 vụ

tranh chấp lao động, đình công tập thể với số lượng công nhân tham gia trên 72 ngàn
người (tăng trên 120% so với cả năm 2010). Đặc biệt, mới đây nhất, tại Công Trách
nhiệm hữu hạn Pouyuen ở quận Bình Tân (chuyên sản xuất giày da) có tới 12 ngàn
công nhân tham gia đình công, kéo dài trong 8 ngày (từ 21/6 đến 29/6) khiến công ty
này phải cho toàn bộ 92 ngàn công nhân của toàn công ty nghỉ việc một tuần nhưng
vẫn trả lương…[30]
Lý do mà công nhân đưa ra để họ tổ chức đình công ở tất cả các doanh nghiệp
đều tập trung vào các vấn đề như phải làm tăng ca, điều kiện làm việc không bảo đảm,
lương, thưởng quá thấp không đủ sống, thực hiện một số nội quy, quy định quá khắt
khe không những không khuyến khích người lao động mà còn có tác động ngược trở
lại.
Việc giải quyết nhanh chóng các tranh chấp lao động nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên trong quan hệ lao động sẽ có những tác động tích cực đến thị
trường lao động cũng như nền kinh tế xã hội. Khi xảy ra mâu thuẫn, xung đột trong
mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động, vai trò của công đoàn là
hết sức quan trọng. Sự tham gia của công đoàn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của
người lao động đã được quy định trong các văn bản pháp luật của nhà nước như: Hiến
pháp, Bộ luật lao động, Luật công đoàn và các văn bản hướng hẫn thi hành. Tuy nhiên,
trên thực tế trong những năm qua vai trò của công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài rất mờ nhạt, công đoàn còn lúng túng, thụ động khi tranh chấp lao
động xảy ra. Vì vậy, làm thế nào để nâng cao hiệu quả, vai trò của công đoàn trong
việc bảo vệ quyền lợi người lao động, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa
đang là vấn đề được nhiều người quan tâm. Với những lý do đó, Tác giả chọn đề tài:
“Vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi ngƣời lao động tại doanh
nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ở Việt nam” làm luận văn thạc sỹ luật học của
mình, với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả của tổ chức công đoàn trong việc

6
bảo vệ quyền lợi người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở
Việt nam.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động là một trong
những chức năng nguyên thủy nhất của tổ chức công đoàn. Tuy nhiên, trong thời gian
vừa qua, đã liên tiếp xảy ra các vụ đình công của công nhân lao động trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong các khu công nghiệp trên phạm vi cả nước.
Điều này có một phần nguyên nhân từ sự yếu kém trong hoạt động của tổ chức công
đoàn. Đã có một số đề tài, công trình nghiên cứu về vai trò của công đoàn trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như: Dương Văn Sao (2003), Nâng cao hiệu
quả hoạt động của công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
Nguyễn Thị Phương Thúy (2008), Những vấn đề pháp lý về việc tham gia của công
đoàn trong giải quyết tranh chấp lao động và đình công – Luận văn thạc sỹ luật học;
Đinh Thị Bình (2000), Công đoàn với chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người lao động trong cơ chế thị trường ở Việt nam, khóa luận tốt nghiệp; Viện nghiên
cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh (2008), Tổ chức công đoàn trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Nguyễn Xuân Thu (2008)Cơ chế ba bên trong việc
giải quyết tranh chấp lao động ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học; và một số bài báo
đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý… Các công trình, bài viết trên mới chỉ đi sâu
nghiên cứu vai trò của công đoàn trong các doanh nghiệp nói chung, hoặc chỉ nghiên
cứu vai trò của công đoàn trong phạm vi hẹp hơn (giải quyết tranh chấp lao động và
đình công) hoặc chỉ tập trung vào việc tìm kiếm giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
của công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà không đề câp đến
thực trạng hoạt động của công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
cũng như góc độ pháp lý của vấn đề, đồng thời thiếu sự so sánh đối chiếu với các quy
định của pháp luật nước ngoài. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ
thống và đầy đủ về vấn đề: “Vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người

7
lao động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt nam” là việc làm mang
ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.

Luận văn làm sáng tỏ về mặt lý luận những vấn đề về vai trò của công đoàn
trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài ở Việt nam. Trên cơ sở xem xét các quy định của pháp luật về vai trò của công
đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài và thực tiễn thực hiện. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của công trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Mục đích nghiên cứu của đề tài được cụ thể hóa ở những nhiệm vụ nghiên cứu
sau:
- Nghiên cứu những vấn đề khái quát chung về công đoàn.
- Nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề lý luận và thực tiễn việc thực hiện vai
trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động trong các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
- Đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong việc thực hiện vai trò bảo vệ quyền lợi
người lao động của công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của công đoàn trong việc bảo
vệ quyền lợi người lao động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động tại các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam tập trung vào việc thực hiện các chức
năng đã được pháp luật quy định. Trên cơ sở đánh giá tính hiệu quả của công đoàn

8
trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam.
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về cách thức
thành lập, vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, kết hợp

với việc tham khảo tổng hợp các ý kiến của một số cán bộ công đoàn trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt nam, các chuyên gia luật, kinh tế, cũng như
tham khảo kinh nghiệm tổ chức và hoạt động công đoàn một số nước để bước đầu đưa
ra các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền
lợi người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả lấy phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu.
Ngoài ra, các phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh, đối chiếu, khảo sát thu thập,
điều tra xã hội học… được sử dụng phù hợp với từng mặt, từng lĩnh vực nghiên cứu
của đề tài. Các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề lao động, việc làm,
các quy định của Hiến pháp trong lĩnh vực lao động, công đoàn, các quy phạm pháp
luật lao động được sử dụng với tư cách là cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý cho quá trình
nghiên cứu.
6. Kết quả của luận văn.
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận về vai trò của công đoàn trong
việc bảo vệ quyền lợi người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
ở Việt Nam; Đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn việc
thực hiện từ đó đưa ra các kiến nghị đồng bộ cả về mặt lập pháp và tổ chức thực hiện
nhằm nâng cao hiệu quả vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao
động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Đó sẽ là những

9
đóng góp của luận văn đối với công tác nghiên cứu khoa học, công tác lập pháp và việc
áp dụng pháp luật vào thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành 03 chương, cụ thể
như sau:
Chương 1: Khái quát chung về công đoàn và vai trò của tổ chức công đoàn.
Chương 2: Vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động

trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của công đoàn trong việc
bảo vệ quyền lợi người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam.


10
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG ĐOÀN VÀ VAI TRÕ CỦA TỔ
CHỨC CÔNG ĐOÀN.
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG ĐOÀN.
1.1.1. Vị trí của công đoàn.
Điều 10 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy
định: “Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và người lao
động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ
quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia
quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, giáo dục cán bộ, công nhân viên chức và người lao động xây
dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Điều 1 Luật Công đoàn ghi nhận: “Công đoàn là tổ chức chính trị-xã hội rộng
lớn của giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam, tự nguyện lập ra dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là thành viên của hệ thống chính trị xã hội Việt
Nam, là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động”.
Như vậy, công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị, là trung tâm
tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân, lao động.
Công đoàn là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng.
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội được hình thành do nhu cầu của đông
đảo người lao động. Công đoàn thu hút sự tham gia đông đảo của công nhân viên chức,
người lao động không phân biệt giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn
giáo.
Công đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội có tính chất nghiệp đoàn. Tính chất

này biểu hiện ở thành phần tham gia và mục đích tồn tại của công đoàn. Các thành viên
công đoàn thuộc về lực lượng lao động, đã hoặc đang làm một công việc nhất định. Do
đó, công đoàn có thể coi là tổ chức nghề nghiệp rộng lớn nhất, thu hút sự tham gia
đông đảo nhất của mọi tầng lớp lao động trong xã hội.

11
Mặt khác, công đoàn còn là một tổ chức chính trị - xã hội có vị trí quan trọng
trong xã hội, có ảnh hưởng to lớn đến đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Công
đoàn là tổ chức đại diện cho người lao động, tham gia bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
cho họ và tham gia quản lý kinh tế xã hội.
Công đoàn còn là người tuyên truyền chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước
đến với quần chúng, người lao động; Có trách nhiệm xây dựng Đảng, bồi dưỡng công
nhân ưu tú kết nạp Đảng. Có thể nói, công đoàn là cộng sự đắc lực của nhà nước bởi
những hoạt động của công đoàn đã thực sự góp phần xây dựng chính quyền nhà nước,
vì mục đích tồn tại của nhà nước, vì lợi ích của giai cấp công nhân.
Sự thừa nhận của xã hội, của Nhà nước trên các phương diện khác nhau đã
khẳng định vị trí của công đoàn, đồng thời tạo ra điều kiện pháp lý xã hội cho hoạt
động công đoàn để công đoàn thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình.
1.1.2. Tính chất của công đoàn.
Tính chất của một tổ chức là những đặc điểm riêng có của tổ chức đó để phân
biệt với tổ chức khác mà nếu không còn những đặc điểm riêng thì tổ chức đó không
còn đúng với bản chất của nó nữa. Công đoàn là tổ chức không mang tính chất đảng
phái mà là tổ chức liên minh của giai cấp công nhân và người lao động. Vì vậy công
đoàn là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và lao động Việt Nam
[40]
Giai cấp công nhân vừa là nguồn gốc vừa là cơ sở xã hội hình thành, tồn tại
phát triển tổ chức công đoàn. Bởi công đoàn ra đời là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của công nhân. Hình thức tổ chức của công đoàn là liên hiệp công nhân lao
động theo nghề nghiệp (Trade Union) và dựa trên nguyên tắc tự nguyện…Từ những
“đặc điểm riêng đó” đã xác định Công đoàn Việt Nam có hai tính chất: tính chất quần

chúng và tính chất giai cấp.
Trước hết là tính chất giai cấp của công nhân. Giai cấp công nhân là cơ sở xã
hội để hình thành, tồn tại và phát triển của tổ chức công đoàn. Nhấn mạnh tính chất

12
giai cấp của công đoàn có ý nghĩa để hiểu đúng vị trí, vai trò của công đoàn trong xã
hội. Công đoàn là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động của công đoàn mang
tính chất chính trị và tính chất xã hội. Công đoàn không phải là tổ chức nhà nước,
không phải là tổ chức mang tính chất đảng phái. Tổ chức công đoàn được xây dựng
ngày càng lớn mạnh để đảm bảo sự thống nhất hành động của giai cấp công nhân Việt
Nam. Đội ngũ cán bộ công đoàn được xây dựng, rèn luyện theo đường lối cán bộ của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Tổ chức của công đoàn theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
nguyên tắc tổ chức của giai cấp công nhân.
Công đoàn là hình thức tổ chức quần chúng của công nhân, của người lao
động, điểm đó đã xác định tính chất quần chúng của công đoàn. Công đoàn Việt Nam
từ khi ra đời, tồn tại và phát triển đã mang đầy đủ tính chất giai cấp của giai cấp công
nhân và tính quần chúng rộng rãi. Tính chất đó được biểu hiện trong tổ chức và hoạt
động của công đoàn Việt Nam. Công đoàn kết nạp tất cả công nhân viên chức và người
lao động vào tổ chức mình, không phân biệt nghề nghiệp, tín ngưỡng, thành phần kinh
tế, dân tộc. Cơ quan lãnh đạo công đoàn Việt Nam do đoàn viên tín nhiệm bầu ra qua
các kỳ đại hội, cán bộ công đoàn đều trưởng thành từ phong trào của quần chúng. Hoạt
động của công đoàn là hoạt động của đông đảo quần chúng công nhân, viên chức và
người lao động. Nội dung của hoạt động công đoàn đáp ứng yêu cầu, nguyên vọng và
vì lợi ích của công nhân, viên chức và người lao động.
Hai tính chất của công đoàn có mối quan hệ gắn bó với nhau. Nếu chỉ coi trọng
tính chất giai cấp thì về mặt tổ chức sẽ bị bó hẹp, tự thu mình lại và trên thực tế sẽ khó
tồn tại đúng với bản chất tổ chức công đoàn. Ngược lại, nếu chỉ coi trọng tính chất
quần chúng thì sẽ dẫn đến xa rời mục tiêu chính trị, biến thành phường hội, sai lệch
phương hướng hành động cách mạng và cũng không đúng với bản chất công đoàn
cách mạng.

1.1.3. Cơ cấu tổ chức của công đoàn Việt nam.

13
Cơ cấu tổ chức là vấn đề cơ bản nhất trong công tác tổ chức. Cơ cấu tổ chức
phản ánh sự phân công lao động trong một tổ chức, hoặc là sự phân bổ nhiệm vụ của
bộ máy tổ chức cho các cơ sở tổ chức trực thuộc. Khi nhìn vào cơ cấu bộ máy tổ chức
đó có thể thấy được các nhiệm vụ chủ yếu của tổ chức, trên cơ sở đó mà phân biệt tổ
chức này với tổ chức khác.
Cơ cấu tổ chức còn phản ánh mối quan hệ công tác giữa các bộ phận cấu thành,
cơ sở của hệ thống tổ chức. Bảo đảm số nhân sự cần thiết trong các đơn vị cấu thành.
Cơ cấu tổ chức phải bảo đảm, tạo điều kiện cho việc luân chuyển và xử lý thông tin
giữa các đơn vị trực thuộc.
Theo quy định của pháp luật, tổ chức công đoàn Việt Nam gồm 4 cấp cơ bản
sau:
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
- Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi là liên đoàn lao
động tỉnh, thành phố) và công đoàn ngành trung ương;
- Công đoàn cấp trên cơ sở;
- Công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn.
Trong đó, mỗi cấp công đoàn có nhiệm vụ khác nhau.
Đối tượng chỉ đạo trực tiếp của Tổng liên đoàn lao động Việt nam là các liên
đoàn lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, công đoàn ngành trung ương và
cơ quan tổng liên đoàn lao động, các đơn vị trực thuộc. Tổng liên đoàn lao động Việt
nam là cơ quan cao nhất quyết định phương hướng, chủ trương, nội dung, chương trình
hoạt động của công đoàn nhằm thực hiện nghị quyết đại hội công đoàn toàn quốc và
nghị quyết của Đảng cộng sản Việt nam, chỉ đạo công tác tổng kết thực hiện và nghiên
cứu lý luận công đoàn.
Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố có đối tượng chỉ đạo trực tiếp là các liên
đoàn lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, các công đoàn cơ sở và nghiệp
đoàn đóng trên địa bàn không phân biệt cấp quản lý và thành phần kinh tế. Chỉ đạo trực


14
tiếp công đoàn tổng công ty (thuộc tỉnh); công đoàn khu công nghiệp, khu chế xuất,
các công đoàn ngành địa phương, công đoàn cơ sở trung ương (những công đoàn cơ sở
không có công đoàn ngành trung ương). Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố quyết định
thành lập các công đoàn và nghiệp đoàn thuộc địa phương quản lý, thảo luận với công
đoàn ngành trung ương trước khi quyết định thành lập hoặc giải thể các công đoàn
ngành địa phương. Chỉ đạo các cấp công đoàn ở địa phương tổ chức đại hội, quyết định
công nhận ban chấp hành và uỷ ban kiểm tra công đoàn ngành địa phương, các công
đoàn trực thuộc địa phương quản lý. Hướng dẫn công tác phát triển đoàn viên, xây
dựng công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn vững mạnh, công nhận và đề nghị Tổng liên
đoàn lao động Việt nam khen thưởng những công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn vững
mạnh. Ngoài ra, liên đoàn lao động tỉnh còn quản lý các cán bộ công đoàn chuyên trách
liên đoàn lao động tỉnh, thành phố, công đoàn ngành địa phương, liên đoàn lao động
quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, công đoàn cơ sở, thực hiện quy hoạch kế
hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ, thực hiện chế độ chính sách với cán bộ thuộc diện
quản lý.
Công đoàn ngành trung ương có đối tượng chỉ đạo là công đoàn tổng công ty,
công đoàn trong các cơ quan bộ, công đoàn trong các ban của Đảng, đoàn thể trung
ương và các công đoàn cơ sở trực thuộc. Công đoàn ngành trung ương có trách nhiệm
phối hợp với liên đoàn lao động tỉnh, thành phố chỉ đạo hướng dẫn công đoàn ngành,
địa phương các nội dung thuộc ngành, nghề. Đối tượng chỉ đạo, nhiệm vụ của công
đoàn ngành trung ương được quy định cụ thể trong điều lệ của công đoàn Việt Nam và
trong các nghị quyết được ban hành ở các nhiệm kỳ đại hội công đoàn Việt Nam.
Công đoàn cấp trên cơ sở bao gồm liên đoàn lao động quận, huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và các công đoàn tổng công ty, công đoàn ngành địa phương, công đoàn
công ty, khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung chịu sự chỉ đạo trực tiếp (hoặc phối
hợp) của liên đoàn lao động tỉnh, thành phố (trung ương) và công đoàn ngành trung

15

ương. Đối tượng chỉ đạo trực tiếp của công đoàn cấp này là các công đoàn cơ sở và
nghiệp đoàn đã được phân cấp quản lý theo điều lệ công đoàn Việt Nam.
Công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn có đối tượng chỉ đạo trực tiếp là các công đoàn
bộ phận; tổ công đoàn. Công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn ra quyết định thành lập và
công nhận ban chấp hành công đoàn bộ phận và tổ công đoàn; chỉ đạo công đoàn bộ
phận và tổ công đoàn, thực hiện có hiệu quả công tác chính trị, tư tưởng, phát triển
đoàn viên, xây dựng công đoàn bộ phận tổ công đoàn và công đoàn cơ sở vững mạnh.
Với một cơ cấu chặt chẽ thống nhất như vậy, công đoàn có điều kiện thuận lợi
trong hoạt động chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động và đưa chính sách
pháp luật vào đời sống, giúp cho đại bộ phận người lao động và người sử dụng lao
động thực hiện tốt chính sách của nhà nước vì sự phát triển của doanh nghiệp và của xã
hội.
1.1.4. Chức năng, nhiệm vụ của công đoàn.
1.1.4.1. Chức năng của công đoàn.
Chức năng của một tổ chức là sự phân công tất yếu, sự quy định chức trách một
cách tương đối, ổn định và hợp lý trong điều kiện lịch sử và xã hội nhất định của tổ
chức, để phân biệt tổ chức này với tổ chức khác. Chức năng của công đoàn được biểu
hiện bằng những phương hướng, những mặt hoạt động chủ yếu để thực hiện bản chất
và vai trò của công đoàn trong xã hội. Công đoàn có các chức năng sau:
Thứ nhất: công đoàn có chức năng bảo vệ lợi ích của người lao động
Do trình độ dân trí còn thấp, những tàn dư của xã hội cũ để lại và những tư
tưởng độc đoán, trù dập, ức hiếp người lao động của người sử dụng lao động đã dẫn
đến nhiều hiện tượng vi phạm đến quyền, lợi ích và đời sống của người lao động.
Những hiện tượng này không thể ngay một lúc xoá bỏ hết được vì thế, công đoàn phải
là đại diện bảo vệ quyền lợi cho công nhân nói riêng và người lao động nói chung.
Trong điều kiện hiện nay, với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chức
năng bảo vệ lợi ích công nhân lao động của công đoàn càng hết sức quan trọng.

16
Muốn bảo vệ lợi ích công nhân lao động, công đoàn cần phải làm gì? Một loạt nội

dung hoạt động cần được tiến hành để thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích, đó là:
công đoàn tham gia cùng chính quyền tìm việc làm và tạo điều kiện làm việc cho công
nhân lao động; công đoàn tham gia vào việc ký kết hợp đồng lao động của công nhân
lao động; ký thoả ước lao động tập thể; giải quyết tranh chấp lao động.
Công đoàn tham gia trong lĩnh vực tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, quản lý
và sử dụng quỹ phúc lợi tập thể, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động, kinh tế, gia đình,
giải quyết khiếu nại, tố cáo, phát huy dân chủ, bình đẳng công bằng xã hội, phát triển
các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, du lịch, tham quan nghỉ mát.
Thứ hai, công đoàn có chức năng tham gia quản lý.
Để thực hiện tốt chức năng tham gia quản lý cần đẩy mạnh những nội dung
hoạt động cụ thể như: tổ chức phong trào thi đua lao động sản xuất trong công
nhân lao động. Biện pháp tổng hợp nhất là để công nhân lao động trực tiếp tham
gia quản lý; vận động, tổ chức công nhân lao động tham gia việc xây dựng và thực hiện
kế hoạch sản xuất kinh doanh, tham gia quản lý lao động, giải quyết lao động dôi dư,
tham gia quản lý tiền lương, tiền thưởng của công nhân lao động, tham gia trong việc
quản lý vật tư, kỹ thuật, tài chính nhằm giảm mức tiêu hao trên một đơn vị sản phẩm,
tham gia xây dựng và thực hiện chế độ chính sách liên quan đến người lao
động, tham gia xây dựng và thực hiện cơ chế quản lý kinh tế mới.
Thứ ba, công đoàn có chức năng giáo dục.
Một trong những nội dung quan trọng nhằm thực hiện chức năng giáo dục là
làm cho người lao động nhận thức đầy đủ về lợi ích cá nhân gắn liền với kết quả sản
xuất kinh doanh của đơn vị. Muốn có lợi ích phải thực hiện tốt nghĩa vụ, làm tròn trách
nhiệm của mình trong quá trình sản xuất kinh doanh. Từ đó củng cố kỷ luật lao động,
xây dựng ý thức tự giác, tự nguyện trong lao động, công tác. Công đoàn giáo dục công
nhân lao động vững tin vào đường lối chính sách của Đảng, vào thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới, luôn tỉnh táo cảnh giác và đấu tranh với những khuynh hướng sai

17
lầm, ảo tưởng, mơ hồ, cơ hội. Nội dung chức năng giáo dục của công đoàn ngày nay
còn được mở rộng toàn diện hơn nhất là giáo dục pháp luật, giáo dục thẩm mỹ, giáo

dục truyền thống, giáo dục đạo đức cho công nhân lao động, đó là những nội dung
cơ bản thể hiện trên phạm vi rộng lớn của chức năng giáo dục mà công đoàn xứng
đáng với vai trò “trường học” của mình.
Như vậy, chức năng của công đoàn là một chỉnh thể, một hệ thống đồng bộ,
trong đó chức năng bảo vệ lợi ích mang ý nghĩa là trung tâm, là mục tiêu hoạt
động của công đoàn; chức năng tham gia quản lý mang ý nghĩa điều kiện, phương tiện
đạt mục tiêu; chức năng giáo dục mang ý nghĩa tạo động lực tinh thần, là điều kiện xã
hội để công đoàn hoàn thành nhiệm vụ của mình.
1.1.4.2. Nhiệm vụ của công đoàn.
Nhiệm vụ của công đoàn là toàn bộ những mục tiêu mà công đoàn cần đạt tới, là
những vấn đề đặt ra mà công đoàn cần giải quyết. Thực hiện những nhiệm vụ đó chính
là thực hiện các chức năng đã được xác định của công đoàn trong một giai đoạn nhất
định, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của giai đoạn ấy. Nhiệm vụ của công đoàn là
yếu tố dễ biến động hơn so với chức năng. Mỗi nhiệm vụ cũng có thể có sự quan tâm ở
các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào từng giai đoạn nhất định. Trong giai đoạn hiện
nay, công đoàn có những nhiệm vụ sau:
- Đại diện cho người lao động tham gia với cơ quan Nhà nước xây dựng và
thực hiện các chương trình kinh tế xã hội, các chính sách, các cơ chế quản lý kinh tế,
các chủ trương chính sách có liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm của người lao
động.
- Tập hợp, giáo dục và tuyên truyền pháp luật để người lao động hiểu rõ
quyền và nghĩa vụ của mình, của các cơ quan và tổ chức. Từ đó tạo cho người lao động
các phương thức xử sự phù hợp trong các mối quan hệ xã hội và pháp lý.
- Thực hiện các quyền đã được pháp luật ghi nhận một cách có hiệu quả để bảo
vệ, chăm lo đến lợi ích và đời sống của người lao động.

18
- Tham gia các quan hệ trong nước và quốc tế nhằm xây dựng các mối quan hệ
đối nội, đối ngoại rộng rãi, góp phần thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, tạo điều kiện tốt cho môi trường lao động xã hội.

Những nhiệm vụ này đã được thể chế trong các văn bản pháp luật của Nhà
nước và chi tiết hoá thành những nhiệm vụ trực tiếp của công đoàn trong quá trình hoạt
động ở các tổ chức công đoàn cơ sở. Song, muốn quá trình hoạt động đó đạt được
hiệu quả, công đoàn cần có những điều kiện nhất định bao gồm:
+ Quyền tự do công đoàn.
+ Tư cách pháp nhân.
+ Quyền sở hữu tài sản.
+ Sự bảo trợ của Nhà nước và các đơn vị sử dụng lao động.
+ Các điều kiện khác.
Các điều kiện này vừa mang tính chất pháp lý, vừa mang tính chất kinh tế xã hội
có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của công đoàn, chi phối và quyết định quá
trình thực hiện các nhiệm vụ đề ra.
1.2. Vai trò của công đoàn.
1.2.1. Khái niệm về vai trò của công đoàn.
Theo TS. Lê Thanh Hà – Phó viện trưởng Viện Công nhân và công đoàn : vai trò của
một tổ chức là sự tác động của tổ chức đó đến tiến trình phát triển của lịch sử và cách mạng,
được phản ánh trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá tư tưởng mà tổ chức đó
tồn tại và phát triển.
Trong chủ nghĩa tư bản, công đoàn có vai trò là trường học đấu tranh giai cấp.
Công đoàn vận động, tổ chức công nhân, lao động đấu tranh chống lại giai cấp tư sản,
bảo vệ quyền lợi của công nhân, lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt,
biểu hiện từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị, với mục đích là lật đổ chủ nghĩa
tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người.

19
Khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vai trò của Công đoàn được
mở rộng hơn. Công đoàn là trường học lớn của công nhân, viên chức, lao động. Là
trường học quản lý, công đoàn giúp cho người công nhân, viên chức và lao động biết
quản lý mà trước mắt là tham gia quản lý sản xuất, quản lý xí nghiệp, quản lý các công
việc xã hội. Là trường học kinh tế, Công đoàn vận động công nhân, viên chức và lao

động tham gia tích cực vào việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, hoàn thiện các chính
sách kinh tế, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất,
kinh doanh. Công đoàn giáo dục công nhân, viên chức và lao động thái độ lao động
mới. Vấn đề giáo dục lao động là một bước phát triển mới của vai trò công đoàn, và chỉ
có trong chủ nghĩa xã hội. Cùng với giáo dục lao động, công đoàn tiến hành giáo dục
chính trị, tư tưởng, giáo dục pháp luật, giáo dục văn hoá, giáo dục lối sống, giáo dục
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, hình thành nhân sinh quan, thế giới quan khoa
học cho công nhân, viên chức và lao động. Sự mở rộng vai trò của công đoàn là phù
hợp với tính tất yếu khách quan, tính quy luật vận động và phát triển của tổ chức công
đoàn, phù hợp với quy luật chung của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản.[20]
Như vậy, vai trò của một tổ chức là nói đến sự tác động của tổ chức đó đến tiến
trình phát triển của lịch sử và cách mạng, được phản ánh trên lĩnh vực kinh tế, chính
trị, xã hội và tư tưởng mà tổ chức đó tồn tại và phát triển. Sự tác động của tổ chức công
đoàn được dựa trên cơ sở tính chất, vị trí của tổ chức thông qua các hoạt động phong
trào cách mạng của quần chúng công nhân lao động. Để các phong trào hành động cách
mạng của quần chúng trước hết công đoàn phải có quá trình tập hợp, tuyên truyền,
hướng dẫn công nhân, viên chức, lao động.
Trong môi trường lao động, sự hiện diện của công đoàn có tầm quan trọng đặc
biệt. Là một tổ chức xã hội sinh ra trong quá trình phát triển công nghiệp của xã hội,
công đoàn là sản phẩm tự nhiên của công nhân lao động. Tổ chức công đoàn ban đầu

20
đơn giản chỉ là tổ chức được thành lập ra nhằm đấu tranh và hạn chế sự bóc lột của giới
chủ chứ thực ra chưa phải là một tổ chức có nhiều quyền năng như ngày nay.
Cùng với sự phát triển của quá trình lao động và sinh hoạt xã hội, công đoàn dần
chiếm được vị trí vai trò quan trọng trong hệ thống các tổ chức xã hội cũng như trong
đời sống của người lao động.
Từ chỗ chỉ được thừa nhận ở phạm vi hẹp, ngày nay công đoàn được thừa nhận
trong phạm vi toàn xã hội. Theo Hiến pháp năm 1992, công đoàn là tổ chức chính trị -

xã hội của giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam. Công đoàn "là tổ chức
chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và và của người lao động Việt Nam
(gọi chung là người lao động) tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam; là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam; là trường học
chủ nghĩa xã hội của người lao động" (Điều 1 khoản 1 Luật Công đoàn).
Như vậy, công đoàn, xét về phương diện xã hội – là một tổ chức xã hội, cũng
như các tổ chức xã hội khác (đoàn thanh niên, hội phụ nữ) được hình thành trước hết
do nhu cầu của chính các thành viên mà họ tự nguyện lập ra. Vì vậy, tính chất quần
chúng bao giờ cũng là tính chất lớn nhất của tổ chức công đoàn.
Nhưng nếu đi sâu vào nghiên cứu, chúng ta có thể thấy công đoàn là một hiện
tượng hết sức đặc biệt. Công đoàn là một tổ chức xã hội có tính nghiệp đoàn. Tính
nghiệp đoàn thể hiện ở thành phần tham gia của công đoàn và mục đích tồn tại của nó.
Các thành viên của công đoàn không phân biệt thành phần xã hội, hơn thế nữa họ đang
làm một nghề nhất định và công đoàn luôn đại diện cho họ để bảo vệ lợi ích gắn liền
với nghề nghiệp.
Về vị trí của tổ chức công đoàn, trong các điều khoản của Luật Công đoàn quy
định cho công đoàn một tư cách pháp nhân (Điều 1 khoản 3), có quyền đại diện cho
công nhân trong thương lượng tập thể hay trong các tranh chấp trước toà (Điều 11
khoản 1, 2 và 3). Ngay cả khi không là thành viên công đoàn, công nhân cũng có quyền
yêu cầu Công đoàn đứng ra đại diện cho mình trước pháp luật (Điều 11 khoản 4). Hơn

21
thế nữa, Công đoàn còn được quy định quyền lập pháp (trình dự thảo luật, điều 5 khoản
1), quyền hành pháp (tham gia quản lý nhà nước, điều 4 khoản 1) và các quyền tư pháp
(giám sát việc thi hành luật pháp, yêu cầu người thuê lao động có trách nhiệm giải
trình, ). Công đoàn còn được quy định có quyền tham gia vào công việc quản lý các
doanh nghiệp, công ty. Quyền tự do tham gia hay không tham gia công đoàn cũng
được quy định rõ ràng.
Trong xã hội, công đoàn không chỉ là một tổ chức quần chúng thông thường, mà
nó còn là một tổ chức chính trị - xã hội; vì vậy, công đoàn có một vị trí vai trò rất quan

trọng trong xã hội. Công đoàn không chỉ đại diện cho người lao động, bảo vệ lợi ích
cho người lao động mà công đoàn còn đại diện cho họ tham gia vào quản lý kinh tế. Do
đó mà pháp luật đã ghi nhận: công đoàn có quyền cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân viên chức và
những người lao động khác, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra,
giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế … (Điều 10 – Hiến pháp
năm 1992).
Như vậy, với sự thừa nhận của xã hội, của Nhà nước trên những phương diện
khác nhau đã khẳng định vai trò của tổ chức công đoàn – vừa là một tổ chức xã hội,
vừa là một thực thể pháp lý. Nó cho ta thấy vai trò và tầm quan trọng của công đoàn
đối với phong trào của giai cấp công nhân và những người lao động; trong mối quan hệ
với các tổ chức khác và Nhà nước. Đồng thời, vị trí, vai trò đó đã tạo ra những điều
kiện pháp lý – xã hội cho toàn bộ hoạt động của công đoàn mà không phải bất cứ tổ
chức xã hội nào cũng có được những điều kiện như vậy.
1.2.2. Nội dung vai trò của công đoàn.
Nghiên cứu vai trò của công đoàn trong điều kiện hiện nay có ý nghĩa quan
trọng không chỉ về mặt lý luận, thực tiễn, mà cả mặt tư tưởng.

22
Thời kỳ chưa có chính quyền, Công đoàn có vai trò là trường học đấu tranh giai
cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc. Lªnin nãi: “ Công đoàn có vai trò là trường
học quản lý, trường học kinh tế, trường học chủ nghĩa cộng sản" [29].
Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, công đoàn có vai trò là trường học chủ
nghĩa xã hội của người lao động: công đoàn tham gia quản lý sản xuất, quản lý xí
nghiệp…; tham gia tích cực vào việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, hoàn thiện các
chính sách kinh tế…; giáo dục thái độ lao động mới, giáo dục chính trị, tư tưởng, pháp
luật, văn hoá, lối sống
Ngày nay trong giai đoạn cách mạng mới, đất nước bước vào thời kỳ công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, vai trò của công đoàn Việt Nam ngày càng phát triển, mở
rộng thông qua các phong trào cách mạng của công nhân viên chức – lao động tác động

trên các lĩnh vực:
Trong lĩnh vực kinh tế: Vai trò của công đoàn là tham gia đổi mới cơ chế quản
lý, củng cố nguyên tắc tập trung dân chủ, đẩy mạnh hoạt động công đoàn trong các
thành phần kinh tế song vẫn đảm bảo kinh tế nhà nước giữ vai trò then chốt, chủ đạo.
Một mặt, công đoàn đẩy mạnh hoạt động tại các doanh nghiệp. Mặt khác, công đoàn hỗ
trợ các thành phần kinh tế phát triển đúng hướng.
Với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, công
đoàn thực hiện việc động viên các công nhân lao động, sản xuất góp phần phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa bằng cách tổ chức
phong trào thi đua lao động sản xuất trong cả nước và trong mọi ngành nghề trong toàn
quốc.
Theo quy định của pháp luật “các cơ quan Nhà nước, đơn vị, tổ chức phối hợp
với công đoàn tổ chức thi đua phong trào lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, hoàn
thành nhiệm vụ kinh tế xã hội, chương trình công tác của cơ quan đơn vị tổ chức”
(Điều 4 Nghị định 133/HĐBT ngày 20/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng hướng dẫn thi
hành Luật Công đoàn).

23
Theo quy định pháp luật thì sau khi thảo luận với công đoàn, thủ trưởng cơ
quan đơn vị, tổ chức quyết định mục tiêu, nội dung, chế độ khen thưởng, thi đua; công
đoàn đề ra biện pháp động viên phong trào thi đua, khen tưởng các tổ chức cá nhân có
thành tích.
Trong lĩnh vực chính trị: Là thành viên trong hệ thống chính trị, dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, công đoàn có vai trò xây dựng và nâng cao hiệu quả
hoạt động của hệ thống chính trị, củng cố và giữ vững bộ máy nhà nước. Để nâng cao
vị thế chính trị của mình, công đoàn phải là “cầu nối” tăng cường mối liên hệ mật thiết
giữa Đảng và nhân dân, đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của người lao động, từng
bước hoàn thiện nền dân chủ, đảm bảo thực thi pháp luật để nhà nước thực sự là của
dân, do dân, vì dân. Trước diễn biến phức tạp của đời sống kinh tế - xã hội hiện nay,
công đoàn phải góp phần cùng với nhà nước đảm bảo sự ổn định về chính trị, bởi có

tạo được ổn định về chính trị mới tiến hành đổi mới kinh tế có hiệu quả và hoàn thành
tốt các mục tiêu kinh tế đặt ra trong quá trình hội nhập quốc tế.
Như vậy, công đoàn có trách nhiệm to lớn cùng với các tổ chức trong hệ thống
chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoàn thành tốt nhiệm vụ chính
trị trong giai đoạn hiện nay.
Trong lĩnh vực xã hội: Nền kinh tế thị trường đã làm thay đổi sâu sắc tất cả các
mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội song cũng đem lại không ít những tiêu cực, ảnh
hưởng đến tâm lý, đời sống của người lao động. Vì vậy, công đoàn phải góp phần xây
dựng giai cấp công nhân, bảo đảm sự thống nhất của giai cấp công nhân Việt Nam,
không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, tính tổ chức kỷ luật, trình độ văn
hoá, khoa học kỹ thuật để giai cấp công nhân thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển đất nước. Công đoàn phải tuyên truyền giáo dục người lao động chống
tiêu cực và tệ nạn xã hội, xây dựng phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật và tính sáng tạo cho
người lao động.

24
Công đoàn góp phần củng cố liên minh công - nông và trí thức xây dựng khối
đoàn kết toàn dân. Đây là cơ sở xã hội vững chắc, tăng cường sức mạnh của nhà nước.
Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá: nền kinh tế thị trường có nhiều ưu điểm, tích
cực song nền kinh tế này còn là “mảnh đất” làm nảy sinh những tiêu cực xã hội. Hơn
lúc nào hết, công đoàn cần phát huy vai trò của mình trong việc giáo dục công nhân,
viên chức, người lao động nâng cao lập trường giai cấp, phát huy những giá trị cao đẹp,
truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp thu những thành tựu tiên tiến của văn minh nhân
loại. Đó là yếu tố quan trọng làm cho vai trò của công đoàn ngày càng mở rộng phát
triển. Ngày nay, tổ chức công đoàn đã, đang và sẽ thu hút được đông đảo lực lượng
người lao động. Công đoàn có vai trò thúc đẩy người lao động tích cực sáng tạo để trở
thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế đất nước.
Vai trò của công đoàn trong cơ chế ba bên: Theo quan điểm của tổ chức lao
động quốc tế (ILO):“ Cơ chế ba bên có nghĩa là bất cứ một hệ thống các mối quan hệ

nào trong đó Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động là các nhóm độc
lập, mỗi nhóm thực hiện những chức năng riêng. Điều đó đơn thuần chỉ là sự chuyển
đổi thành các mối quan hệ xã hội của các nguyên tắc dân chủ, tự do chính trị, đa số sự
tham gia của mỗi cá nhân vào những quyết định có liên quan đến họ Nguyên tắc là
những vấn đề chung không có một đối tác đơn lẻ, một hệ thống quan hệ lao động, một
hệ thống quan hệ lao động dựa trên sự kết hợp điều kiện lịch sử, chính trị, xã hội, văn
hóa và mỗi hệ thống phát triển theo nguyên tắc của cuộc chơi dưới ánh sáng của nhiều
thông số đó”.[37]
Nhằm làm rõ quan điểm cơ chế ba bên của ILO, cuốn “ Thuật ngữ quan hệ công
nghiệp và các khái niệm liên quan” đưa ra định nghĩa: “ Cơ chế ba bên là sự tương tác
tích cực của chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động (qua các đại diện
của họ) như là các bên bình đẳng và độc lập trong các cố gắng tìm kiếm giải pháp cho
các vấn đề cùng quan tâm. Một quá trình ba bên có thể bao gồm việc tham khảo ý kiến,
thương thuyết hoặc cùng ra quyết định, phụ thuộc vào cách thức đã được nhất trí giữa

×