Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 130 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





LÊ THỊ HƯỜNG





GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI - 2012




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ THỊ HƯỜNG





GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Hoài Thu




HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


Danh mục các hình


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN
6

1.1.
Khái niệm giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
6
1.2.
Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
18
1.3.
Vai trò của việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
31

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN
36
2.1.
Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp lao động
36
2.1.1.
Thẩm quyền theo vụ việc
36
2.1.2.
Thẩm quyền của tòa án theo các cấp
41
2.1.3.
Thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ
43
2.2.
Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án cấp sơ thẩm
46
2.2.1.
Khởi kiện, thụ lý vụ án lao động

47
2.2.2.
Chuẩn bị xét xử
53
2.2.3.
Tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm
60
2.3.
Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án cấp phúc thẩm
66
2.4.
Thủ tục xét lại bản án, quyết định lao động đã có hiệu lực
72
pháp luật

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN
81
3.1.
Nhận xét chung về thực trạng giải quyết tranh chấp lao động
tại Tòa án
81
3.1.1.
Tình hình thụ lý, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
81
3.1.2.
Những ưu điểm và nhược điểm của việc giải quyết tranh chấp
lao động tại Tòa án
85
3.1.3.

Nguyên nhân giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án còn
một số tồn tại
89
3.2.
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
98
3.2.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng
cao hiệu quả giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
98
3.2.2.
Về hoàn thiện quy định pháp luật
100
3.2.3.
Về tổ chức thực hiện
111

KẾT LUẬN
116

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
119
Danh môc c¸c b¶ng

Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
3.1

Số liệu thụ lý, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
theo thủ tục sơ thẩm từ năm 2005 - 2009
83
3.2
Số liệu thụ lý, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
theo thủ tục phúc thẩm từ năm 2005 - 2009
83
3.3
Số liệu thụ lý, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm từ năm 2005 - 2009
84
3.4
Tổng hợp kết quả xét xử các vụ án lao động tại Tòa án từ
năm 2005 - 2009
84



Danh môc c¸c H×NH

Sè hiÖu
h×nh
Tªn h×nh
Trang
3.1
Mô hình tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân khi xác định
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động
87
3.2
Mô hình tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân được hoàn thiện

104




1
MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơ chế thị trƣờng sức lao động là hàng hóa đặc biệt quan trọng,
đặc biệt vị thế yếu thƣờng thuộc về phía ngƣời lao động, để ngăn ngừa tình
trạng lạm dụng quá đáng từ phía ngƣời sử dụng lao động, Luật lao động đã có
những quy định để bảo vệ quyền và lợi ích của ngƣời lao động, đồng thời bảo
vệ quyền và lợi ích của ngƣời sử dụng lao động. Một trong các quy định đó là
các chế định về việc giải quyết các tranh chấp lao động tại Tòa án.
Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án là nội dung cơ bản của pháp
luật lao động, vì vậy Nhà nƣớc Việt Nam đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp với tình hình thực tiễn. Năm 2004 Bộ luật tố tụng dân sự đƣợc Quốc
hội thông qua đã thay thế cho Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động
đã đƣa ra một diện mạo mới đối với thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động. Năm 2002 Bộ luật lao động đƣợc sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất, đến
năm 2006 Bộ luật lao động lại tiếp tục sửa đổi, bổ sung lần thứ hai trong đó
đặc biệt sửa đổi toàn bộ Chƣơng về tranh chấp lao động. Năm 2010 Bộ luật
Tố tụng dân sự đƣợc sửa đổi, bổ sung. Nhƣ vậy với sự phát triển, hoàn thiện
của hệ thống pháp luật lao động việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
đã có nhiều thay đổi.
Bên cạnh đó tình hình thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa
án trong thời gian gần đây cho thấy Tòa án là một trong những cơ quan có
thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp lao động tuy nhiên tuy các tranh
chấp lao động xảy ra trong thực tế là nhiều, nhƣng số vụ việc đƣa đến tòa án

thì rất hạn chế. Tình trạng này phát sinh do nhiều nguyên nhân nhƣ: thủ tục
hòa giải tại cơ sở còn nhiều vƣớng mắc, sự hiểu biết pháp luật về thủ tục giải
quyết tranh chấp lao động của ngƣời lao động còn hạn chế, các tổ chức tƣ vấn

2
cho ngƣời lao động chƣa phát huy hiệu quả… hiệu quả giải quyết tranh chấp
lao động còn một số mặt hạn chế, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của thực tế. Tỷ
lệ các vụ án của tòa án cấp sơ thẩm phải cải sửa tƣơng đối cao, một số vụ án
phải kéo dài, có vụ tới ba hoặc bốn năm do phải hủy để xét xử lại; quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên không đƣợc khôi phục kịp thời. Những hạn chế
đó đã gây những tác động tiêu cực đến quan hệ lao động đặc biệt là trong cơ
chế thị trƣờng hiện nay.
Do vậy, nghiên cứu vấn đề "Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa
án theo pháp luật Việt Nam" là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn để
hoàn thiện pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong nƣớc và môi
trƣờng kinh tế quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Là một trong những vấn đề cơ bản của pháp luật lao động nói chung và
pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động nói chung vấn đề này đã đƣợc các
nhà khoa học, luật gia quan tâm nghiên cứu ở các mức độ khác nhau. Đã có
những công trình, bài viết khoa học về giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
hoặc liên quan đến giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án đã đƣợc công bố
nhƣ: Giáo trình Luật Lao động Việt Nam của Khoa luật, Đại học Xã hội và Nhân
văn quốc gia, 2000; Giáo trình Luật lao động Việt Nam, của Trƣờng Đại học
Luật Hà Nội, 2010; Thủ tục giải quyết các vụ án lao động theo Bộ luật Tố tụng
dân sự, của Phạm Công Bảy, Nxb Chính trị quốc gia, 2006; Luận văn thạc sĩ
Luật học: Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân - một số vấn đề
lý luận và thực tiễn, do Vũ Thị Thu Huyền thực hiện năm 2002; Luận án tiến
sĩ Luật học: Tài phán lao động theo quy định của pháp luật Việt Nam, do Lƣu
Bình Nhƣỡng thực hiện năm 2002; các bài viết: Những điểm mới về tranh

chấp lao động và giải quyết tranh chấp lao động theo luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật lao động năm 2006, của Nguyễn Thị Xuân Thu, Tạp
chí Luật học, số 7/2007; Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án -

3
Một số bất cập và hướng hoàn thiện, của Lê Thị Hoài Thu; Giải quyết tranh
chấp lao động tại Tòa án nhân dân - từ pháp luật đến thực tiễn và một số kiến
nghị, của Phạm Công Bảy, Tạp chí Luật học, số 9/2009
Tuy nhiên hệ thống pháp luật lao động từ năm 2002 đến nay đã có
nhiều thay đổi, đặc biệt là việc ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004,
Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2010 và Chƣơng về tranh
chấp lao động của Bộ luật lao động đã đƣợc sửa đổi hoàn toàn năm 2006. Bên
cạnh đó các bài viết và công trình nghiên cứu trên mới chỉ nghiên cứu việc
giải quyết tranh chấp lao động nói chung hoặc nghiên cứu một trƣờng hợp
tranh chấp lao động cụ thể chứ chƣa có công trình nào đề cập đến việc nghiên
cứu sâu sắc, có hệ thống và toàn diện vấn đề giải quyết tranh chấp lao động
tại Tòa án. Do đó, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án vẫn là vấn đề cần
nghiên cứu về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về giải
quyết tranh chấp lao động tại Tòa án, cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tại
Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng, từ đó chỉ
ra những bất cập để đề xuất những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án trên thực tế.
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là việc giải quyết tranh chấp lao
động tại Tòa án, cụ thể là:
- Nghiên cứu khái quát chung về giải quyết tranh chấp lao động tại
Tòa án.
- Nghiên cứu thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án theo
quy định của pháp luật Việt Nam.

- Nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án ở
Việt Nam hiện nay.

4
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực
tiến giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết
tranh chấp lao động tại Tòa án dƣới góc độ của luật lao động đồng thời đề cập
đến một số quy phạm của luật tố tụng dân sự nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết
mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Luận văn nghiên cứu các quy phạm pháp luật và thực tiễn áp dụng giải
quyết các tranh chấp lao động tại Tòa án trong giai đoạn từ năm 2005-2009.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các
quan điểm của Đảng.
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
từ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các
quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về Nhà nƣớc và pháp luật, về quyền con
ngƣời và quyền công dân trong xã hội, những luận điểm khoa học trong các
công trình nghiên cứu và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa
học Việt Nam.
Luận văn sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể để làm sáng
tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tƣơng ứng, đó là các phƣơng pháp nghiên cứu
nhƣ: phƣơng pháp luận, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, kết hợp giữa
lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu….
6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Với mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn đƣa ra những vấn đề mới
sau đây:


5
- Nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn vận
hành phƣơng thức giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án.
- Luận văn chỉ ra những tồn tại của hệ thống các quy định và thực tiễn
hoạt động giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án của Việt Nam trong thời
gian qua.
- Luận văn đƣa ra kiến nghị về một số biện pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật, tăng cƣờng khâu tổ chức và hoạt động của giải quyết tranh chấp lao
động tại Tòa án của nƣớc ta.
Với những vấn đề nêu trên, tác giả của luận văn hy vọng đóng góp một
phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện hệ thống và tổ chức vận hành có hiệu quả
các loại hình giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhằm đảm bảo quyền,
lợi ích của các bên trong mối quan hệ pháp luật lao động, đảm bảo lợi ích Nhà
nƣớc và xã hội, thực hiện tốt mục tiêu mà Đảng và Nhà nƣớc đã đề ra.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Khái quát chung về giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án.
Chương 2: Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp lao động tại
Tòa án.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp lao động tại Tòa án.

6
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG
VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN

1.1. KHÁI NIỆM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẠI TÒA ÁN

Trong nền kinh tế thị trƣờng với sự tham gia của nhiều thành phần
kinh tế đã hình thành nhiều quan hệ lao động, các quan hệ lao động này ngày
càng trở nên đa dạng và phức tạp, đan xen lẫn nhau. Nội dung của quan hệ
pháp luật lao động là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật lao động. Trong quan hệ pháp luật lao động, không có chủ
thể nào chỉ có quyền hoặc chỉ có nghĩa vụ, quyền của chủ thể này bao giờ
cũng tƣơng ứng với nghĩa vụ của chủ thể phía bên kia và ngƣợc lại tạo thành
mối liên hệ pháp lý thống nhất trong một quan hệ pháp luật lao động. Ngoài
ra, các bên còn phải thực hiện và tôn trọng các quyền, nghĩa vụ mà pháp luật
đã quy định để đảm bảo trật tự, lợi ích xã hội, bảo đảm môi trƣờng lao động
và môi trƣờng sống.
Trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ lao động, quan hệ giữa
ngƣời lao động với ngƣời sử dụng lao động không phải lúc nào cũng diễn
biến một cách ổn định bình thƣờng theo đúng những thỏa thuận. Giữa họ có
thể sẽ xuất hiện những bất đồng về quyền và lợi ích trong lao động. Có những
bất đồng đƣợc các bên thỏa thuận và giải quyết đƣợc song cũng có thể có
những bất đồng mà sự thƣơng lƣợng của hai bên không thể giải quyết đƣợc.
Những bất đồng, xung đột nếu đƣợc giải quyết tốt thì sẽ không trở thành mâu
thuẫn, ngƣợc lại, nếu không đƣợc giải quyết thì dễ trở thành những mâu thuẫn
gay gắt. Quá trình giải quyết tranh chấp lao động có thể trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau, trong đó giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án là giai đoạn
có tầm quan trọng đặc biệt. Tính đặc biệt đó thể hiện ở một số khía cạnh sau đây:

7
Thứ nhất: Việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án đƣợc thực
hiện bởi tòa án với tƣ cách là cơ quan tài phán mang tính quyền lực nhà nƣớc
và đƣợc tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ.
Tranh chấp lao động có thể đƣợc giải quyết bởi nhiều cơ quan, tổ
chức, các nhân khác nhau nhƣ: Hội đồng hòa giải lao động cơ sở, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện, Hội đồng trọng tài lao động hay Tòa án nhân dân.

Tuy nhiên khác với Hội đồng hòa giải lao động cơ sở đƣợc thành lập ở
các đơn vị sử dụng lao động có thành lập công đoàn với sự tham gia của đại
diện tập thể lao động và ngƣời sử dụng lao động tại đơn vị sử dụng lao động,
hay Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh là cơ cấu hỗn hợp gồm đại diện các
bên trong quan hệ lao động, đại diện cơ quan nhà nƣớc thì Tòa án nhân dân
là cơ quan tƣ pháp, nhân danh Nhà nƣớc giải quyết các tranh chấp nói chung
và tranh chấp lao động nói riêng. Về tổ chức, trọng tài lao động đƣợc tổ chức
đơn giản và gọn nhẹ gồm: chủ tịch, thƣ ký và các trọng tài viên. Sự gọn nhẹ
trong tổ chức là điều kiện để thực hiện sự đơn giản, linh hoạt về thủ tục, sự
giảm thiểu về thời gian, kinh phí cho các bên. Còn tòa án là cơ quan tƣ pháp,
đƣợc tổ chức chặt chẽ theo ngành dọc theo hệ thống tòa án cấp huyện đến tòa
án cấp tỉnh, thành phố và đến tòa án cấp tối cao, việc giải quyết tranh chấp lao
động tại tòa án phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ, việc vi phạm thủ tục
tố tụng sẽ dẫn đến bản án, quyết định của tòa án có thể hủy. Ngoài ra đƣơng
sự có thể kháng cáo, yêu cầu tòa án xét xử lại, nếu thấy phán quyết của tòa án
không thỏa đáng. Với cơ chế nhiều cấp xét xử, pháp luật cho phép đƣơng sự
thực hiện quyền kháng cáo đối với những bản án, quyết định chƣa có hiệu lực
pháp luật của cấp xét xử sơ thẩm. Ngay cả khi bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật, đƣơng sự vẫn có quyền khiếu nại, ngƣời có thẩm quyền kháng
nghị bản án, quyết định của tòa án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Xét ở khía cạnh tích cực, trình tự xét xử nhiều cấp cho phép xem xét lại phán
quyết của tòa án một cách chắc chắn trƣớc khi cho thi hành. Về lý thuyết, tòa

8
án là hình thức tài phán đáng tin cậy nhất; sự tin cậy của tài phán tòa án dựa
trên tính khách quan và mức độ chính xác của hoạt động tố tụng.
Sử dụng tòa án vào việc quyết định về các tranh chấp lao động và các
cuộc đình công là một việc đƣợc sử dụng từ lâu. Tòa án đƣợc xác định là cơ
quan xét xử của Nhà nƣớc. Quá trình xét xử của tòa án kết thúc bằng việc ra các
bản án, quyết định về vụ tranh chấp hoặc về một vụ việc nào đó thuộc các lĩnh

vực khác nhau của đời sống xã hội nhằm góp phần bảo vệ pháp chế và lẽ phải. Ở
một số nƣớc trên thế giới, tòa án lao động thuộc hệ thống các cơ quan tƣ pháp
nhƣng không hẳn đƣợc đặt trong hệ thống dọc của tòa án thƣờng mà đƣợc tổ
chức nhƣ là một loại tòa án đặc biệt ví dụ nhƣ: Vƣơng quốc Anh, Cộng hòa liên
bang Đức, Thụy Điển, Cộng hòa Pháp, Thái Lan Tuy nhiên, quyền hậu kiểm
tối cao về mặt pháp lý đối với các tòa án lao động vẫn thuộc tòa án tối cao.
Tại Cộng hòa Liên bang Đức, Tòa lao động là một hệ thống tòa án độc
lập, có thẩm quyền giải quyết cả tranh chấp lao động các nhân và tranh chấp
lao động tập thể. Tòa án lao động gồm 03 cấp: Tòa án lao động (cấp sơ thẩm),
Tòa án lao động bang (cấp phúc thẩm), Tòa án lao động liên bang (cấp Giám
độc thẩm, tái thẩm). Thẩm phán của Hội đồng xét xử tại Tòa án lao động (cấp
sơ thẩm) và Tòa án lao động bang gồm 01 Thẩm phán chuyên nghiệp và 02
Thẩm phán danh dự (Thẩm phán không chuyên); tại Tòa án liên bang gồm 03
Thẩm phán chuyên nghiệp và 03 Thẩm phán danh dự, trong đó 01 Thẩm phán
danh dự đại diện cho giới chủ và 01 đại diện cho giới thợ.
Nhìn chung mô hình tổ chức của tòa án tƣ pháp ở các nƣớc theo hệ
thống luật châu Âu lục địa thƣờng rất đa dạng. Hệ thống tòa án ở các nƣớc
này đều có các cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cấp tối cao (Tòa phá án).
Tuy nhiên cũng có một số điểm khác. Ví dụ: tùy ở mỗi nƣớc có nhiều dạng
tòa sơ thẩm theo tính chất vụ việc và tầm quan trọng của tranh chấp mà có thể
thành lập hoặc không thành lập tòa dân sự đặc biệt (tòa án thƣơng mại, tòa án
các vấn đề xã hội).

9
Khiếu nại phát sinh từ tranh chấp cá nhân về việc làm và pháp luật lao
động (ví dụ sự tồn tại của điều khoản hoặc chấm dứt hợp đồng lao động) đƣợc
xét xử bởi tòa án lao động chuyên ngành tại Ba Lan, Hungary và Slovenia.
Hầu hết các chi phí thủ tục tòa án đó lao động đƣợc trả bởi nhà nƣớc, ngoại
trừ trong trƣờng hợp một số nơi sử dụng lao động phải bảo đảm một phần chi
phí, ví dụ Slovakia là một ngoại lệ tranh chấp lao động cá nhân đƣợc coi là vụ

án dân sự và đƣợc xử lý bởi các tòa án dân sự.
Trong khu vực Asian, những nƣớc có nền tài phán lao động phát triển
phải kể đến là Philippin, Thái Lan, Malaixia, Indonesia, Singapore.
Tại Thái Lan, tòa án lao động ở vƣơng quốc Thái Lan là loại tòa án
đặc biệt và không nằm trong hệ thống tòa án thƣờng, độc lập với tòa án tối
cao. Cơ quan chủ quản của tòa án lao động Thái Lan là Bộ Tƣ pháp Vƣơng
quốc Thái Lan.
Về mặt cơ cấu, theo luật tổ chức và hoạt động của tòa án lao động thì
tòa án lao động Thái Lan đƣợc tổ chức theo ba cấp: tòa án lao động trung
ƣơng, tòa án lao động vùng và tòa án lao động tỉnh. Tòa án lao động trung
ƣơng đặt tại thủ đô Băngkok, có thẩm quyền bao trùm trong cả nƣớc và đồng
thời có thẩm quyền trong toàn bộ thủ phủ Bangkok và một số địa bàn lân cận
nhƣ: Samut Prakarn, Samut Sakhon, Nakhon Pathom, Nonthaburi và Pathum
Thani. Việc thành lập tòa án lao động vùng và tòa án lao động tỉnh sẽ đƣợc quy
định trong một đạo luật riêng. Hiện nay, tòa án lao động trung ƣơng có mƣời
một chi nhánh đặt tại một số tỉnh là địa bàn trọng yếu về sản xuất công nghiệp,
dịch vụ, có sử dụng nhiều nhân công và thƣờng xảy ra tranh chấp lao động.
Giống với tòa án lao động của Philippin, tòa án lao động Thái Lan cũng thành
lập bộ phận pháp chế để giúp đỡ ngƣời khởi kiện hoàn thiện hồ sơ tại tòa án.
Tại Philippin, theo Bộ luật lao động Cộng hòa Philippin 1974, hệ thống
tài phán lao động gồm hai loại hình bắt buộc và tự nguyện. Loại hình tự nguyện
bao gồm các cơ cấu trọng tài tự nguyện do các bên lựa chọn. Loại hình bắt

10
buộc có ủy ban quốc gia về quan hệ lao động (NLRC, hay còn gọi là tòa án lao
động - LC). Tòa án lao động Philippin có 14 chi nhánh đƣợc đặt ở 14 vùng mà
không đặt theo tỉnh, trong đó bao gồm cả chi nhánh vùng thủ đô (Manila
Metropolis). Tòa án lao động của Cộng hòa Philippin thực chất là cơ quan tòa
án trọng tài bắt buộc đƣợc tổ chức chặt chẽ từ trung ƣơng xuống địa phƣơng
có chức năng giải quyết các tranh chấp lao động (mà chủ yếu là các khiếu nại

về tiền - money claims) và ra quyết định về các cuộc đình công. Chính vì có
cơ chế giải quyết đơn giản và dễ vận dụng nêu trên nên việc thụ lý giải quyết
các tranh chấp lao động ở Philippin thƣờng đạt đƣợc hiệu quả cao. Quá trình
tố tụng đƣợc tiến hành từ khi thụ lý đến khi thi hành án đƣợc khép kín theo
quy tắc tố tụng thống nhất. Giúp việc cho các thẩm phán, các phân ban và
toàn thể ủy ban là các nhân viên thuộc các bộ phận pháp lý về thụ lý, tƣ vấn
pháp luật, phòng máy tính, phòng thi hành án.
Bên cạnh đó một số nƣớc vẫn sử dụng mô hình tòa lao động nằm
trong hệ thống tòa án thƣờng, ví dụ: Trung Quốc, Việt Nam…
Tại Trung Quốc, các hình thức sử dụng lao động đƣợc thực hiện thông
qua hợp đồng lao động. Ngƣời lao động trên cơ sở hợp đồng lao động có
quyền và nghĩa vụ riêng, các tranh chấp lao động ở doanh nghiệp đƣợc giải
quyết thông qua Ủy ban hòa giải, thành phần gồm đại diện của công nhân,
ngƣời lao động, ban quản lý doanh nghiệp và đại diện công nhân. Ở huyện,
thành phố thuộc tỉnh, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng thành lập Ủy ban
trọng tài để giải quyết tranh chấp lao động địa phƣơng. Các tranh chấp lao động
trƣớc hết đƣợc giải quyết bởi Ủy ban hòa giải. Trƣờng hợp một trong hai bên
không muốn Ủy ban hòa giải giải quyết, hoặc việc thƣơng lƣợng giữa các bên ở
Ủy ban hòa giải không thành thì có thể yêu cầu Ủy ban trọng tài địa phƣơng xem
xét. Trƣờng hợp đạt đƣợc thỏa hiệp, Ủy ban trọng tài lập biên bản hòa giải,
nếu một trong các bên không tuân thủ quyết định của Ủy ban trọng tài thì
tranh chấp sẽ đƣợc chuyển sang cho Tòa án giải quyết.

11
Hệ thống tòa án Trung Quốc gồm Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án
nhân dân địa phƣơng, các tòa án quân sự và các tòa án đặc biệt khác. Tòa án
nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất, giám đốc việc xét xử của các tòa
án địa phƣơng và các tòa án đặc biệt khác. Tòa lao động thuộc Tòa án nhân
dân trực tiếp giải quyết các vụ án lao động.
Tại Việt Nam, từ chỗ mới chỉ tồn tại trong các quy định của Sắc lệnh

29/SL ngày 12/3/1947, việc giải quyết các tranh chấp lao động đã đƣợc ghép
vào thành một bộ phận của tố tụng dân sự. Trải qua 10 năm (từ 1985 đến 1994)
tức là từ khi Hội đồng Bộ trƣởng ra Quyết định số 10/HĐBT chuyển một số
tranh chấp lao động sang Tòa án nhân dân giải quyết đến trƣớc khi thông qua
Bộ luật Lao động, ở Việt Nam, việc giải quyết các tranh chấp lao động tại Tòa
án nhân dân đã thu đƣợc những kết quả đáng khích lệ. Với hàng ngàn vụ tranh
chấp lao động đƣợc giải quyết tại Tòa án nhân dân, ngành tòa án thực sự có
những kinh nghiệm không nhỏ trong lĩnh vực này. Việc tổng kết kinh nghiệm
hàng năm đã đƣợc đề cập trong các báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân,
trong đó có đánh giá cả những mặt ƣu điểm và những tồn tại cần uốn nắn, sửa
chữa. Đó không chỉ là những kinh nghiệm quý báu cho ngành tòa án về công
tác xét xử mà còn là những kinh nghiệm để xây dựng các quy định về tố tụng
lao động tại Tòa án nhân dân, một hình thức tố tụng độc lập với tố tụng dân
sự, một hình thức tố tụng mà trƣớc đây tố tụng lao động chỉ là một bộ phận
không chính thức.
Hệ thống Tòa án nhân dân đƣợc phân chia theo địa giới hành chính
lãnh thổ tƣơng ứng với ba cấp thẩm quyền: Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa
án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao. Tòa lao động thuộc Tòa án
nhân dân trực tiếp giải quyết các vụ án lao động. Cũng nhƣ tòa hình sự, dân
sự… Tòa lao động là một tòa chuyên trách đƣợc tổ chức trong hệ thống Tòa
án nhân dân. Hệ thống Tòa lao động gồm: Tòa lao động thuộc Tòa án nhân
dân tối cao, Tòa lao động thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh; các Thẩm phán

12
chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân cấp huyện. Ngày 01/7/1996, Tòa lao
động đƣợc thành lập trong hệ thống Tòa án nhân dân với tƣ cách là một tòa
chuyên trách, có phân tòa từ cấp tỉnh trở lên.
Theo mô hình hiện tại ở Việt Nam, Tòa án nhân dân cấp huyện không
thành lập Tòa lao động nhƣng có các Thẩm phán chuyên trách giải quyết sơ
thẩm các tranh chấp lao động. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có Tòa lao động giải

quyết sơ thẩm các vụ việc lao động theo thẩm quyền và phúc thẩm các vụ án
lao động do Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử sơ thẩm bị kháng cáo, kháng
nghị; Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm, tái thẩm
quyết định, bản án lao động Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử sơ thẩm đã có
hiệu lực pháp luật. Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao giải quyết phúc
thẩm các vụ án lao động Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm bị kháng
cáo, kháng nghị; Tòa lao động Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái
thẩm bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện và của Tòa lao động Tòa
án nhân dân cấp tỉnh, bản án phúc thẩm của Tòa lao động Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Ủy ban thẩm phán Tòa án
nhân dân cấp tỉnh. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có thẩm
quyền giám đốc thẩm, tái thẩm tất cả các bản án, quyết định của Tòa án các cấp.
Hiện nay, cùng với việc quy định chức năng giải quyết các tranh chấp
lao động, các cuộc đình công, tòa án còn đƣợc cải tiến về tổ chức, hoạt động.
Việc thành lập các tòa lao động ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng và
tòa lao động thuộc Tòa án nhân dân tối cao với tƣ cách một phân tòa độc lập
đã thể hiện một bƣớc đổi mới trong hoạt động cải cách nền tƣ pháp theo quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 15/6/2004 Quốc hội thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự, có hiệu
lực ngày 01/01/2005; ngày 29/3/2011 Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, có hiệu lực ngày 01/01/2012. Theo quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự, tòa án giải quyết các vụ án lao động theo thủ

13
tục chung quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Sau nhiều năm thực hiện việc xét
xử các vụ án lao động và giải quyết các cuộc đình công tại tòa án cho thấy những
đóng góp quan trọng của tòa án đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các cá nhân, tổ chức khi tham gia quan hệ lao động, góp phần ổn định và
làm lành mạnh quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trƣờng, thúc đẩy sản xuất,
ổn định đời sống xã hội, giữ gìn trật tự quản lý trong lĩnh vực lao động - xã

hội. Thực tiễn xét xử các vụ án lao động những năm qua đã đem lại cho
ngành tòa án nhiều kinh nghiệm bổ ích, bổ sung vào lý luận khoa học về xét
xử đồng thời cung cấp những cơ sở thực tiễn cho quá trình hoàn thiện pháp
luật lao động nói chung và pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động nói riêng.
Thứ hai: Giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án là hoạt động giải
quyết cuối cùng sau khi tranh chấp đã đƣợc giải quyết ở các giai đoạn khác
mà không đạt kết quả (trừ một số trƣờng hợp nhất định).
Tranh chấp lao động có thể đƣợc giải quyết bằng nhiều phƣơng thức
khác nhau nhƣ: thƣơng lƣợng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Mỗi biện pháp có
những đặc trƣng, ƣu điểm, hạn chế riêng. Về nguyên tắc, giải quyết tranh
chấp lao động thông qua thƣơng lƣợng đƣợc coi là bƣớc đầu tiên trƣớc khi
các bên lựa chọn hoặc phải tham gia vào một phƣơng thức mới để giải quyết
tranh chấp lao động. Khi hai bên không thƣơng lƣợng đƣợc về việc giải quyết
vụ án có thể lựa chọn ngƣời thứ ba trung lập hòa giải tranh chấp. Theo quy
định của Bộ luật Lao động Việt Nam thì ngƣời hòa giải có quyền đứng ra giải
quyết tranh chấp lao động theo thủ tục hòa giải độc lập gồm: Hội đồng hòa
giải lao động cơ sở và Hòa giải viên lao động do cơ quan lao động cấp huyện
cử ra. Tuy nhiên, có trƣờng hợp hòa giải không thành công và hòa giải chỉ là
thủ tục cần thiết để một trong các bên hoặc cả hai bên có thể sớm đƣa vụ việc
ra trƣớc cơ quan tài phán để giải quyết vụ tranh chấp lao động đó.
Việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án đƣợc tiến hành khi các
biện pháp có tính chất mềm dẻo, ôn hòa và linh hoạt hơn nhƣ thỏa thuận,

14
thƣơng lƣợng, trọng tài ở các giai đoạn trƣớc đó đã đƣợc sử dụng nhƣng
không đạt kết quả. Đối với đa số các tranh chấp lao động thì trƣớc khi khởi
kiện ra tòa án thủ tục thƣơng lƣợng, hòa giải hay trọng tài là điều kiện cần
thiết để thụ lý vụ án lao động tại tòa án. Chỉ khi không đạt đƣợc kết quả ở các
giai đoạn này, tranh chấp lao động mới đƣợc đƣa ra giải quyết ở tòa án. Tuy
nhiên, trong một số trƣờng hợp đặc biệt, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp

pháp của đƣơng sự nhanh chóng nhằm tiếp tục quan hệ lao động, các bên chủ
thể có thể khởi kiện thẳng ra tòa án yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động dù
chƣa qua thủ tục thƣơng lƣợng, hòa giải.
Tại Việt Nam, từ năm 1945 đến cuối những năm 1980 các phƣơng
thức giải quyết tranh chấp lao động nhƣ thƣơng lƣợng, hòa giải, trọng tài hầu
nhƣ bị xem nhẹ, việc giải quyết tranh chấp lao động bằng con đƣờng hành
chính và sử dụng tòa án đƣợc coi trọng hơn cả. Sở dĩ có tình trạng này là do
thời kỳ đó phát triển hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
Việc thƣơng lƣợng, hòa giải giải quyết tranh chấp lao động giữa nhà nƣớc và
công nhân, viên chức nhà nƣớc đƣợc coi là vấn đề không thể tồn tại vì nhà
nƣớc là ngƣời có quyền tuyển chọn, sử dụng, đảm bảo quyền lợi của công
dân. Nhà nƣớc sẽ can thiệp vào các vụ việc do công nhân, viên chức khiếu
nại, tố cáo để đảm bảo các quyền lợi cho họ chứ không thể là một bên tranh
chấp đối với ngƣời lao động. Điều này đƣợc chứng minh bằng việc đề cao
nguyên tắc thỏa thuận để giải quyết tranh chấp lao động giữa ngƣời lao động
Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam
và tranh chấp lao động giữa ngƣời lao động làm việc theo hợp đồng lao động
với các đơn vị sử dụng lao động trong nƣớc.
Nhìn chung, quy định về việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân
cũng nhƣ tranh chấp lao động tập thể giai đoạn từ 1945 đến trƣớc khi có Bộ
luật Lao động năm 1994 thì các phƣơng thức giải quyết tranh chấp lao động
nhƣ thƣơng lƣợng, hòa giải, trọng tài rất hạn chế. Việc giải quyết tranh chấp

15
lao động thông qua phƣơng thức giải quyết khiếu nại, tố cáo và cuối cùng là
tòa án nhân dân vẫn là chủ yếu. Tuy nhiên, từ khi có Pháp lệnh Hợp đồng lao
động năm 1990 thì việc giải quyết tranh chấp lao động quy định trƣớc hết
phải thông qua thƣơng lƣợng. Bộ luật Lao động đƣợc ban hành và sửa đổi, bổ
sung quy định các phƣơng thức để giải quyết tranh chấp lao động đó là
thƣợng lƣợng, hòa giải, trọng tài và tòa án, theo đó tranh chấp lao động đƣợc

giải quyết tại tòa án khi các biện pháp khác là thƣợng lƣợng, hòa giải, trọng
tài trƣớc đó không đạt kết quả.
Thứ ba: Các phán quyết của tòa án về vụ án tranh chấp lao động đƣợc
đảm bảo thi hành bằng các biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc thông qua cơ quan
thi hành án. Mục đích hàng đầu của đƣơng sự khi khởi kiện là nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chính vì vậy, sự bảo đảm thi hành phán
quyết của tòa án bằng sức mạnh cƣỡng chế nhà nƣớc đƣợc coi là một ƣu
điểm, tạo ra sự khác biệt trong cơ chế thi hành phán quyết của các loại cơ
quan tài phán.
Biên bản hòa giải thành khi hòa giải tại Hội đồng hòa giải lao động cơ
sở hay Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh không đƣợc đảm bảo bằng các
biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc mà do các bên đƣơng sự tự nguyện thực hiện
chứ không đƣợc đảm bảo bằng biện pháp cƣỡng chế Nhà nƣớc. Nếu các bên
không thực hiện thì bên kia không có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án ra
quyết định cƣỡng chế thực hiện bởi đây không phải là cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. Các bên không
không thể yêu cầu tòa án giải quyết lại vụ tranh chấp về nội dung mà chỉ có
thể yêu cầu tòa án xem xét lại vấn đề thủ tục để công nhận hay hủy bỏ quyết
định trọng tài. Chính điều này làm cho quyết định trọng tài khó đƣợc thực
hiện triệt để trên thực tế nếu thiếu cơ chế phối hợp giữa trọng tài lao động và
tòa án nhân dân cũng nhƣ hệ thống cơ quan thi hành án. Nhƣng đối với các
bản án, quyết định của tòa án thì các bên có nghĩa vụ phải thi hành, nếu các

16
bên đƣơng sự không tự nguyện thi hành thì sẽ bị cƣỡng chế thi hành thông
qua hoạt động của cơ quan thi hành án.
Sở dĩ phán quyết của tòa án có tính cƣỡng chế bởi Tòa án nhân dân là
cơ quan nằm trong hệ thống tƣ pháp, nhân danh Nhà nƣớc để giải quyết các
tranh chấp nói chung và tranh chấp lao động nói riêng, thông qua đó bảo vệ
quyền lợi, tài sản của cá nhân, công dân, tổ chức… theo quy định của pháp luật.

Khi đƣơng sự không tự giác thi hành bản án, quyết định của tòa án, cơ quan
thi hành án có quyền tổ chức cƣỡng chế buộc đƣơng sự phải thực hiện nghĩa
vụ của mình theo quyết định của tòa án. Với đặc điểm này, hiệu lực thi hành
phán quyết của tòa án sẽ cao hơn phán quyết của Hội đồng hòa giải lao động
cơ sở và Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh.
Do đó các tranh chấp lao động khởi kiện tại tòa án đƣợc giải quyết dứt
điểm và có khả năng bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên. Khi các biện pháp hòa giải, trọng tài không đạt kết quả thì các chủ thể có
quyền khởi kiện ra tòa án. Quyết định, bản án của tòa án là quyết định giải
quyết cuối cùng. Mục đích của việc giải quyết tranh chấp lao động là dàn xếp
những mâu thuẫn trong quan hệ lao động, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể và trong một số trƣờng hợp còn nhằm mục đích để quan hệ
lao động tiếp tục duy trì. Do đó việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án
đƣợc tiến hành khi các biện pháp ôn hòa, mềm dẻo ở các giai đoạn trƣớc đã
sử dụng nhƣng không đạt kết quả.
Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án cũng có
nhƣng nhƣợc điểm nhất định nhƣ:
- Việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án đƣợc thực hiện bởi cơ
quan tài phán mang tính quyền lực Nhà nƣớc, đƣợc tiến hành theo quy trình,
thủ tục chặt chẽ không khỏi khiến cho ngƣời sử dụng lao động cũng nhƣ
ngƣời lao động cảm thấy bị gò bó và đôi khi quá cứng nhắc. Bên cạnh đó tâm
lý của ngƣời Á châu thích sự hòa giải ổn thỏa giữa các bên hơn là phải bắt

17
buộc chấp nhận một bản án của tòa án. Thực tế đã chứng minh, ngay cả khi
ngƣời lao động có đƣợc xử thắng kiện trong một tranh chấp tại tòa, họ cũng
khó có thể đƣợc chấp nhận vào làm lại công việc cũ mà không có bất kỳ sự
phân biệt nào so với giai đoạn trƣớc. Các bên tranh chấp đều mong muốn sớm
kết thúc tranh tụng để tập trung vào công việc của riêng mình trong khi đó
thời gian giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án giải quyết thƣờng kéo dài

do xét xử nhiều cấp ảnh hƣởng đến hoạt động kinh doanh của ngƣời sử dụng
lao động và đời sống của ngƣời lao động. Do các tranh chấp lao động thƣờng
trực tiếp liên quan đến việc làm, thu nhập của ngƣời lao động nên các thủ tục
tố tụng có thể làm cho ngƣời lao động cũng nhƣ ngƣời sử dụng lao động ngại
ngần khi tham gia hoạt động tố tụng của tòa án hay nói cách khác là theo đuổi
một vụ kiện.
- Cơ hội để cá nhân, cơ quan, tổ chức đƣa vụ việc tranh chấp lao động
ra tòa án và đƣợc tòa án chấp nhận giải quyết là không nhiều và không dễ
dàng. Ví dụ: Một ngƣời kiện cá nhân hoặc tổ chức để đòi bồi thƣờng thiệt hại
do thƣơng tổn về sức khỏe. Việc trƣớc hết mà ngƣời khởi kiện phải chứng
minh và đƣợc tòa án chấp nhận là giữa ngƣời khởi kiện với ngƣời bị kiện đã
tồn tại quan hệ pháp lý về hợp đồng lao động. Trong rất nhiều trƣờng hợp, đây là
việc không dễ chút nào. Bằng chứng là nhiều vụ việc sau nhiều năm tòa án mới
thụ lý giải quyết đƣợc. Giả sử rằng ngƣời khởi kiện chứng minh đƣợc họ là
ngƣời lao động, các bên có ký kết hợp đồng lao động, vì lý do nào đó mà chủ
doanh nghiệp không cho vào nơi làm việc nên ngƣời lao động kiện ra tòa án
về việc bị đơn phƣơng chất dứt hợp đồng lao động. Vậy đây là việc kiện gì,
tòa án có thụ lý để giải quyết hay không? Những ví dụ nêu trên cho thấy để cá
nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện đƣợc quyền của họ và để tòa án thụ lý giải
quyết vụ tranh chấp thì còn có nhiều thứ mà không phải ai cũng làm đƣợc.
- Chi phí tốn kém do đƣơng sự phải trả lệ phí, thù lao cho ngƣời bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp…

18
Trên cơ sở những phân tích trên, có thể hiểu: Giải quyết tranh chấp lao
động tại tòa án là hoạt động giải quyết tranh chấp lao động do Tòa án là cơ
quan tài phán mang tính quyền lực nhà nước tiến hành với những trình tự, thủ
tục nhất định và phán quyết được thi hành bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước.
1.2. CÁC NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẠI
TÒA ÁN

Những nguyên tắc cơ bản là những tƣ tƣởng chỉ đạo xuyên suốt quá
trình giải quyết các tranh chấp lao động, bao gồm cả quá trình tố tụng tại Tòa
án nhân dân để giải quyết các tranh chấp lao động đó.
Bộ luật Lao động Việt Nam quy định việc giải quyết các tranh chấp
lao động đƣợc tiến hành theo những nguyên tắc sau:
1- Thƣơng lƣợng trực tiếp và tự dàn xếp giữa hai bên tranh
chấp tại nơi phát sinh tranh chấp; 2- Thông qua hòa giải, Trọng tài
trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên, tôn trọng lợi ích
chung của xã hội và tuân theo pháp luật; 3- Giải quyết công khai,
khách quan, kịp thời, nhanh chóng, đúng pháp luật; 4- Có sự tham
gia của đại diện công đoàn và của đại diện ngƣời sử dụng lao động
trong quá trình giải quyết tranh chấp [24, Điều 158].
Nguyên tắc thương lượng, hòa giải, trọng tài:
Việc giải quyết tranh chấp lao động phải chú trọng và đƣa lên hàng
đầu các phƣơng thức thƣơng lƣợng, hòa giải, trọng tài. Trong trƣờng hợp
thông qua các phƣơng thức đó mà tranh chấp giữa các bên không thể giải
quyết đƣợc hoặc các bên không đồng ý với kết quả giải quyết thì có quyền sử
dụng phƣơng thức tiếp theo, đó là kiện ra tòa án hoặc tiến hành đình công (đối
với tập thể lao động).
Đặc điểm của quan hệ lao động là các bên có quyền tự do thỏa thuận
hợp đồng lao động, thỏa ƣớc lao động tập thể trong khuôn khổ của pháp luật

19
lao động. Vì vậy khi tranh chấp lao động xảy ra việc các bên thƣơng lƣợng,
dàn xếp để thỏa thuận đảm bảo cho quyền và nghĩa vụ của các bên phù hợp
với điều kiện của từng bên vừa ngăn ngừa hậu quả xấu xảy ra do tranh chấp
lao động. Để thực hiện tốt nguyên tắc này, cần phải tuyên truyền giáo dục ý thức
pháp luật cho ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động, đặc biệt cần phải tạo
ra cơ chế để đại diện của ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động thƣờng
xuyên gặp nhau, trao đổi với nhau những vấn đề nảy sinh trong quá trình sản

xuất, từ đó cùng nhau giải quyết kịp thời những mâu thuẫn mới phát sinh.
Hòa giải là nguyên tắc xuyên suốt quá trình giải quyết tranh chấp, là
thủ tục bắt buộc ở các cấp, các giai đoạn. Mục đích của hòa giải là làm cho
các bên hiểu nhau, hiểu pháp luật để các bên lựa chọn hƣớng giải quyết phù
hợp, đảm bảo đƣợc sự duy trì quan hệ lao động sau tranh chấp. Để việc hòa
giải đạt hiệu quả đòi hỏi các bên phải biết tôn trọng lợi ích của nhau, lợi ích
của cả xã hội và có phƣơng pháp hòa giải thích hợp.
Nguyên tắc giải quyết công khai, khách quan, kịp thời, nhanh chóng
và đúng pháp luật.
Do quan hệ lao động có đặc thù ảnh hƣởng lớn tới đời sống của ngƣời
lao động, sản xuất và toàn xã hội nên đòi hỏi phải giải quyết nhanh chóng, kịp
thời các tranh chấp lao động. Để làm đƣợc điều đó đòi hỏi các cơ quan có
thẩm quyền phải khách quan, công khai và đúng pháp luật.
Việc giải quyết các vụ án lao động tại tòa án không đƣợc áp dụng hình
thức xét xử "bí mật" đồng thời đảm bảo rút ngắn thời gian tố tụng. Ngoài ra,
việc giải quyết các tranh chấp lao động phải đảm bảo tính khách quan, vô tƣ,
đúng thời điểm khi có yêu cầu và nhất định phải tuân thủ các quy định của
pháp luật trong quá trình tố tụng bao gồm các quy định của nhà nƣớc về nội
dung vụ việc và các trình tự, thủ tục. Việc xét xử phải đảm bảo tính khách
quan, không có sự thiên vị hoặc bị cố ý làm sai lệch sự thật. Việc xét xử phải
nhanh chóng, không đƣợc kéo dài hoặc trì hoãn làm ảnh hƣởng tới quyền và

20
lợi ích hàng ngày của ngƣời lao động và sinh hoạt bình thƣờng của xã hội, đặc
biệt khi có tranh chấp lao động tập thể. Việc xét xử phải tuân thủ các quy định
cả về luật nội dung và các quy định về thủ tục giải quyết.
Nguyên tắc tham gia của đại diện người lao động và đại diện người
sử dụng lao động trong quá trình giải quyết tranh chấp
Đại diện của các bên thƣờng là những ngƣời am hiểu pháp luật, hiểu
điều kiện của các bên vì vậy có thể giúp cơ quan có thẩm quyền đánh giá về

tranh chấp chính xác hơn, từ đó đƣa ra đƣợc các phƣơng án giải quyết phù
hợp. Tuy nhiên, hiện nay sự tham gia của đại diện ngƣời sử dụng lao động
chƣa thực sự rõ nét, khi xảy ra tranh chấp ngƣời lao động thƣờng phải tự
mình tham gia quá trình giải quyết tranh chấp lao động.
Những nguyên tắc trên là những nguyên tắc chung nhất có tính định
hƣớng cho việc giải quyết tranh chấp lao động mà việc giải quyết tranh chấp
lao động ở các phƣơng thức hòa giải, trọng tài, xét xử đều phải tuân thủ
những nguyên tắc đó. Tuy nhiên việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án
là một giai đoạn tố tụng khác với các phƣơng thức giải quyết tranh chấp lao
động khác nên ngoài việc tuân theo các nguyên tắc chung của việc giải quyết
tranh chấp lao động thì còn phải tuân theo các nguyên tắc chung của hoạt
động tố tụng quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong tố tụng dân sự, việc
thực hiện đúng các nguyên tắc của luật tố tụng dân sự tạo điều kiện cho việc
giải quyết vụ án và thi hành án đƣợc thuận lợi, ngăn chặn đƣợc những tiêu cực
nảy sinh trong quá trình tố tụng, bảo đảm cho các đƣơng sự có thể bảo vệ đƣợc
quyền, lợi ích hợp pháp của họ trƣớc tòa án. Những nguyên tắc cụ thể điều
chỉnh các hoạt động tố tụng giải quyết các tranh chấp lao động tại tòa án gồm:
Nguyên tắc pháp chế
Bảo đảm pháp chế là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nƣớc, đảm bảo cho hoạt động của bộ máy nhà nƣớc nhịp
nhàng, đồng bộ, đảm bảo công bằng xã hội. Đảm bảo pháp chế xã hội chủ

×