ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI
VỚI LAO ĐỘNG NỮ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC
HIỆN BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ
9
1.1.
Khái quát chung về bảo hiểm xã hội
9
1.1.1.
Khái niệm bảo hiểm xã hội
9
1.1.2.
Bản chất của bảo hiểm xã hội
11
1.1.3.
Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội
12
1.2.
Sự cần thiết phải bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ
15
1.2.1.
Khái niệm lao động nữ và tính đặc thù của lao động nữ
15
1.2.2.
Sự cần thiết phải thực hiện bảo hiểm xã hội đối với lao
động nữ
20
1.3.
Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ
23
1.3.1.
Chủ thể của bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ
23
1.3.2.
Các chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ
24
1.4.
Một số quy định của pháp luật quốc tế về bảo hiểm xã hội
đối với lao động nữ
26
1.4.1.
Các công ước quốc tế
27
1.4.2.
Pháp luật một số nước
30
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HIỂM
XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ
37
2.1.
Chế độ nghỉ chăm sóc con ốm
37
2.1.1.
Điều kiện hưởng chế độ nghỉ chăm sóc con ốm
37
2.1.2.
Chế độ và quyền lợi
37
2.2.
Chế độ thai sản
41
2.2.1.
Điều kiện hưởng chế độ thai sản
42
2.2.2.
Chế độ và quyền lợi
43
2.3.
Chế độ hưu trí
55
2.3.1.
Chế độ hưu trí bắt buộc
56
2.3.1.1.
Chế độ hưu trí hàng tháng
56
2.3.1.2.
Chế độ hưu trí một lần
64
2.3.2.
Chế độ hưu trí tự nguyện
65
2.3.2.1.
Chế độ hưu trí hàng tháng
65
2.3.2.2.
Chế độ hưu trí một lần
66
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI
VỚI LAO ĐỘNG NỮ
68
3.1.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội đối với
lao động nữ
68
3.1.1.
Nâng cao nhận thức cho lao động nữ về bảo hiểm xã hội
68
3.1.2.
Nâng cao tính đồng bộ và khả thi của hệ thống pháp luật
68
3.1.3.
Đảm bảo sự ổn định và bền vững của nguồn tài chính
69
3.1.4.
Hoàn thiện mô hình quản lý và nâng cao năng lực bộ máy
quản lý nhà nước
69
3.2.
Một số giải pháp hoàn thiện bảo hiểm xã hội đối với lao
động nữ
70
3.2.1.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội đối với lao
động nữ
71
3.2.2.
Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp
luật bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ
80
3.2.3.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn đối
với việc bảo vệ lao động nữ
82
3.2.4.
Công tác cán bộ
83
3.2.5.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền với việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã
hội đối với lao động nữ
84
KẾT LUẬN
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ là lực lượng lao động đông đảo, có vị trí, vai trò vô cùng quan
trọng trong gia đình và xã hội. Cũng như bất kỳ người lao động nào trong
quan hệ lao động, lao động nữ có nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội để được
bù đắp phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút trong các trường hợp họ bị
giảm hoặc mất khả năng lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi
già hay do sự tác động của kinh tế thị trường. Tuy nhiên với tính đặc thù của
mình, lao động nữ cần chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp để không chỉ giúp lao
động nữ thực hiện tốt chức năng lao động mà còn phải thực hiện tốt chức
năng tái sản xuất sức lao động cho xã hội. Vốn được coi là phái yếu trong mọi
quan hệ xã hội (trong đó có quan hệ lao động), lao động nữ luôn luôn phải
đấu tranh để được bình đẳng với nam giới. Ăngghen đã chỉ ra rằng: "Trong ba
hình thức bất bình đẳng lớn nhất của lịch sử nhân loại thì quan hệ bất bình
đẳng giữa nam và nữ chính là nguồn gốc đích thực về mặt lịch sử, xã hội của
những mâu thuẫn cơ bản… " [24]. Ngày nay, sự bất bình đẳng đó vẫn tồn tại
ở hầu khắp các khu vực và trên thế giới. Điều đó đã hạn chế sự vươn lên của
phụ nữ khiến họ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, trong lao động và trong
quá trình thực hiện thiên chức của mình. Vì thế, việc đề ra các chủ trương,
biện pháp để bảo vệ phụ nữ là một trong những mối quan tâm hàng đầu của
các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Và bảo hiểm xã hội là một
trong những biện pháp, chính sách quan trọng được các quốc gia sử dụng để
bảo vệ họ.
Ở Việt Nam, pháp luật về bảo hiểm xã hội đã có những quy định riêng
tương đối phù hợp với những nét đặc thù của lao động nữ và có hiệu quả
trong việc bảo vệ lợi ích của họ, nhất là trong chế độ trợ cấp thai sản. Các quy
định này một phần giúp cho lao động nữ phục hồi sức khỏe, một phần giúp họ
2
vượt qua được những khó khăn về kinh tế để vươn lên, ổn định đời sống,
nâng cao thể lực, trí lực và năng suất lao động. Tuy nhiên vẫn còn khá nhiều
quy định bất cập, cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Và thực tiễn ở Việt Nam, dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, trong
một số vấn đề, quyền bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ chưa được đảm
bảo thực hiện một cách đầy đủ vì nguyên nhân từ chính pháp luật (ví dụ trong
vấn đề cho thuê lại lao động mà hiện tại Luật lao động Việt Nam chưa điều
chỉnh). Đó là lý do cơ bản tôi chọn đề tài: "Pháp luật về bảo hiểm xã hội đối
với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay". Trên cơ sở làm sáng tỏ một cách có
hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm nói chung, bảo hiểm xã hội
đối với lao động nữ nói riêng, nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng pháp
luật bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện hành đối với lao động nữ, so sánh, đối
chiếu với pháp luật bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ của một số nước,
luận văn đưa ra một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo
hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam. Việc hoàn thiện các quy định pháp
luật liên quan đến bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ cũng là yêu cầu để
đảm bảo tính tương thích và góp phần thực hiện tốt hơn Luật bình đẳng giới.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay cũng đã có một số bài báo, bài viết về vấn đề này
nhưng cũng chỉ nói chung mà chưa đi sâu nghiên cứu chi tiết pháp luật về bảo
hiểm xã hội đối với lao động nữ cũng như thực trạng về bảo hiểm xã hội đối
với lao động nữ ở nước ta. Trong xu thế hiện nay, việc nghiên cứu một cách
có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những
giải pháp của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn
thiện các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả có tham khảo các tạp chí khoa học
pháp lý: Nhà nước pháp luật, thông tin khoa học pháp lý, bảo hiểm xã hội,
Nghiên cứu lập pháp, các công trình nghiên cứu khoa học của người đi trước
3
thông qua mạng, báo chí Như bài viết của TS. Nguyễn Hữu Chí: "Hoàn
thiện thực thi pháp luật về lao động nữ trong doanh nghiệp ngoài Nhà nước";
TS. Nguyễn Thị Kim Phụng với bài viết: "Nội luật hóa CEDAW về bảo hiểm
xã hội đối với lao động nữ khi dự thảo Luật bảo hiểm xã hội"; tác giả Đào
Duy Phương về: "Chế độ bảo hiểm xã hội về thai sản theo pháp luật hiện
hành"… Tuy nhiên, các công trình của các tác giả mới chỉ tập trung nghiên
cứu trong những phạm vi hẹp mang tính chất nghiên cứu , trao đổi, là các công
trình nghiên cứu khoa học ngắn gọn trên các tạp chí có tính gợi mở . Việc
nghiên cứu , tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đê
̉
hoàn thiện pháp luật về vấn đề này là điều cần thiết.
Ngoài ra, trên cơ sở tìm hiểu các thành quả mà người đi trước đã đạt
được, tác giả tiếp tục nghiên cứu và kiến nghị đưa ra các giải pháp để góp
phần hoàn thiện thực trạng chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ. Một
trong những vấn đề góp phần làm nên thành công của luận văn là việc nghiên
cứu các tài liệu, vì thế nên việc tiếp cận và tìm hiểu các văn bản pháp lý liên
quan đến chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ là hết sức cần thiết.
Người viết tập trung nghiên cứu các văn bản pháp luật Việt Nam gồm đạo
luật quan trọng có giá trị cao nhất đảm bảo quyền con người, đặc biệt là
quyền của phụ nữ như: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp
năm 1980, Hiến pháp năm 1992. Tìm hiểu hệ thống pháp luật trước khi có
Luật lao động ra đời như các Sắc lệnh 29, Sắc lệnh 54, Sắc lệnh 76, Sắc lệnh
77, Sắc lệnh 105 của Hồ Chủ Tịch, các Điều lệ bảo hiểm ban hành kèm theo
Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995, Nghị định số 45/CP ngày 15/07/1995,
Luật lao động năm 1994, các văn bản hướng dẫn Luật lao động năm 1994,
Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 19/01/2003 của Chính phủ về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị
định số 12/CP ngày 26/01/1995, Luật bảo hiểm xã hội năm 2006, Nghị định
số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 hướng dẫn một số điều của Luật bảo hiểm
xã hội về bảo hiểm bắt buộc, Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008
4
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo hiểm xã hội
về bảo hiểm thất nghiệp, Nghị định số 190/2007/NĐ-CP ngày 28/12/2007
hướng dẫn một số điều của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm tự nguyện
Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm
xã hội đối với lao động nữ, nhằm tạo lập hành lang pháp lý về bảo hiểm xã
hội đối với lao động nữ ở Việt Nam. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích
đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị.
4. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích nghiên cứu đề tài là tìm hiểu làm sáng tỏ các quy định và hệ
thống chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam về phương diện
pháp lý và thực tiễn thực hiện. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn
thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ và nâng cao chất lượng
thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ trong thời gian tới.
Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ đặt ra cho quá trình nghiên cứu là:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về bảo hiểm xã hội nói chung,
bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ nói riêng.
- Phân tích và làm rõ các quy định cũng như thực trạng áp dụng chế
độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ theo pháp luật hiện hành. Đồng thời
xem xét thực tế thực hiện cũng như các kết quả đạt được cần phát huy và các
hạn chế cần khắc phục.
- Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật quốc tế và pháp luật của một số
nước về bảo hiểm xã hội, đưa ra những đề xuất để hoàn thiện các quy định về
chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam.
4.Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
41. Cở sở khoa học
Thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hướng tới một công
5
bằng dân chủ văn minh, đảm bảo quyền con người, tất cả vì con người, do
con người cho nên vấn đề đảm bảo chính sách an sinh nhất là chế độ bảo hiểm
xã hội đối với lao động nữ là một trong những mục tiêu lớn thể hiện tính ưu
việt của chế độ chủ nghĩa. Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 khẳng định:
"Chính sách bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, điều kiện lao động
và sinh hoạt, giáo dục văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân
tộc coi nhẹ chính sách tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa" [15]. Tại Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 nhấn mạnh một
lần nữa: "Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm và an sinh xã hội " [18].
Cuộc giải phóng phụ nữ gắn liền với cuộc giải phóng dân tộc luôn là
mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời hướng tới. Từ khi bôn ba tìm
đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều lần đề cập đến bảo hiểm xã
hội. Hồ Chí Minh tố cáo thực dân Pháp câu kết với bọn phản động, người lao
động Việt Nam một cổ hai tròng, không được hưởng bất kỳ một chế độ, chính
sách bảo hiểm nào. Năm 1924 Hồ Chí Minh đã vạch ra sự thống trị của bọn
thực dân phong kiến ở Việt Nam, những nhà máy có hàng ngàn công nhân
phải làm từ 12-13 tiếng, ngày lễ ngày nghỉ không được đếm xỉa đến nhưng
"không có bảo hiểm cho tuổi già, không có trợ cấp lúc thương tật, ốm đau" [25].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo hiểm xã hội là một chính sách cơ
bản đối với người lao động: Nghĩa là không chỉ đặt ra đối với công nhân mà
cả nông dân và những người lao động khác. Tư tưởng này ở Chủ tịch Hồ Chí
Minh xuất hiện ngay từ năm 1930. Trong bài báo cáo về Nghị quyết của
Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương về phong trào nông dân đòi giảm
sưu thuế, giảm giờ tăng công, đặc biệt "đòi bảo hiểm xã hội, ngày nghỉ được
trả công" [26]. Vấn đề bảo hiểm cho nông dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặt ra cách đây 3/4 thế kỷ đến nay vẫn có ý nghĩa thời sự.
Ngay từ khi có Hiến pháp năm 1946 Nhà nước ta đã rất quan tâm đến
quyền lợi của phụ nữ, rút ngắn khoảng cách phân biệt đối xử. Lần đầu tiên
6
trong lịch sử Nhà nước Việt Nam quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi
công dân được Hiến pháp ghi nhận: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông" quy
định này tạo tiền đề và cơ sở cho chuyển biến to lớn về vị trí, vai trò của phụ
nữ trong pháp luật và thực tế Việt Nam sau này. Hiến pháp năm 1959 kế thừa
nguyên tắc tiến bộ của Hiến pháp 1946 tại Điều 24 quy định:
Cùng làm việc như nhau phụ nữ được hưởng lương như
nam giới. Nhà nước đảm bảo cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên
chức được nghỉ trước và sau khi đẻ được hưởng nguyên lương. Nhà
nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em, bảo đảm phát triển
các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân
và gia đình [31].
Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 kế thừa và đảm bảo quyền
bình đẳng của phụ nữ ở mức độ cao hơn, tại Điều 63 Hiến pháp năm 1992 đã
đề cập một cách toàn diện hơn sự bình đẳng nam nữ, nhấn mạnh chính sách
thai sản của phụ nữ: "Lao động nữ và nam làm việc như nhau thì tiền lương
ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên
chức Nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi
sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật" [34].
Luật hóa các nhu cầu an sinh là một bước tiến quan trọng của hệ thống
chính sách xã hội. Dựa trên hai nguyên tắc của an sinh là san sẻ trách nhiệm
và thực hiện công bằng cho nên bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm xã
hội đối với lao động nữ nói riêng đảm bảo an toàn cho các thành viên trong xã
hội (chủ yếu là người lao động có tham gia bảo hiểm xã hội), cho phép họ
sống có ý nghĩa trong các trường hợp: ốm đau, thai sản, nghỉ hưu. Hơn nữa,
Việt Nam đang từng bước hội nhập khu vực và quốc tế trên tất cả các lĩnh vực
trong đó có pháp luật. Việt Nam đã chính thức phê chuẩn Công ước về xóa
mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ - CEDAW và trở thành thành viên
thứ 35 của Công ước này. Nước ta là một trong số các quốc gia có nhiều ưu
7
tiên cho phụ nữ, đặc biệt các Công ước ILO như Công ước số 3 năm 1919,
Công ước số 103 năm 1952 là tiêu chuẩn quốc tế để đảm bảo quyền của phụ
nữ được đặc biệt quan tâm.
Như vậy, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, Hiến
pháp, các văn bản pháp luật, các điều ước quốc tế đa phương và song phương
là cơ sở pháp lý đáp ứng đòi hỏi thực tế của cuộc sống, là cơ sở khoa học cho
chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở nước ta.
4.2. Cơ sở thực tế
Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được coi là hàng hóa, sự
thuê mướn nhân công phát triển, quan hệ lao động trở nên bất ổn cho người
lao động làm công ăn lương như ốm đau, tai nạn lao động, thai sản cho nên
cần có sự san sẻ rủi ro và chính sách trợ giúp của nhà nước và người sử dụng
lao động. Những nguyên nhân khách quan và chủ quan đã khiến người lao
động rơi vào cảnh bất lợi nên nhu cầu an sinh càng cao như nhu cầu trợ giúp
thường xuyên đối với đối tượng yếu thế có nguy cơ bị loại trừ như người già,
người sinh con giúp họ thăng bằng thu nhập bị giảm sút hay bị mất. Chế độ
bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ như: ốm đau, thai sản, hưu trí. Ước tính
ở nước ta mỗi năm có gần hai triệu người bước vào độ tuổi lao động, với
những đặc thù về giới như thể lực, tâm sinh lý, cùng với chức năng làm mẹ và
trách nhiệm chăm sóc gia đình đã gặp rất nhiều khó khăn. Vì thế, cần phải có
chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ để khuyến khích tạo điều kiện
thuận lợi cho những người lao động khi tham gia vào quan hệ lao động.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được những yêu cầu và mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong
quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà
nước pháp quyền chủ nghĩa;
8
- Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây
dựng Nhà nước pháp quyền chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường;
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
sau: Phương pháp phân tích, so sánh luật học; phương pháp đánh giá, bình
luận, diễn giải, quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra học…
6. Ý nghĩa luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu tìm tòi khai thác, xây dựng luận văn, người viết
xin đóng góp một vài ý kiến nhỏ bé của mình vào quá trình hoàn thiện pháp
luật bảo hiểm xã hội đặc biệt là chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở
Việt Nam với mong muốn giữa pháp luật và thực tế cuộc sống tìm được tiếng
nói thống nhất, các quy định pháp luật có hiệu lực nhằm bảo vệ quyền lợi của
lao động nữ.
Bản thân người nghiên cứu hiện đang làm về công tác tổ chức và nguồn
nhân lực, do vậy công việc có liên quan đến giải quyết chế độ cho người lao
động nên việc quyết định chọn đề tài "Pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với
lao động nữ ở Việt Nam hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn
công trình nghiên cứu phục vụ tốt cho chuyên môn, nghề nghiệp của mình. Tác
giả cũng mong muốn sẽ có nhiều công trình nghiên cứu tiếp theo hoàn thiện
tiếp những hạn chế mà tác giả nghiên cứu chưa sâu hoặc chưa đề cập tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ và
sự cần thiết phải thực hiện bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội đối với
lao động nữ
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ
9
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HIỆN
BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội ra đời trên thế giới vào giữa thế kỷ 19 được xác lập ở
Đức bao gồm chế độ bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp, bảo
hiểm tuổi già, tàn tật sau đó trước tác dụng tích cực của bảo hiểm xã hội
trong quan hệ lao động nhiều nước bắt đầu áp dụng hệ thống bảo hiểm xã hội.
Ở khía cạnh kinh tế và pháp lý sẽ có các khái niệm về bảo hiểm xã hội
khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, bảo hiểm xã hội
là sự: "Bảo đảm những quyền lợi vật chất cho công nhân, viên chức khi
không làm được vì ốm đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn lao động" [51].
Theo tác giả Trần Quang Hùng và Tiến sĩ Mạc Văn Tiến:
Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải các biến cố
hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm bằng các hình thức và
sử dụng một qũy tài chính tập trung sự đóng góp của người sử dụng
lao động và người lao động nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho
người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội [21].
Cuốn: "Thuật ngữ lao động Thương binh xã hội" Tập 1 nhà xuất bản
lao động 1999, bảo hiểm xã hội được hiểu là:
Sự bảo đảm của xã hội đối với người lao động thông qua
việc huy động các nguồn đóng góp của người sử dụng lao động,
10
người lao động và sự hỗ trợ của nhà nước để trợ cấp người lao động
khi họ bị mất sức lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn do ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già
chết nhằm đảm bảo an toàn xã hội [46].
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm
khả năng lao động hoặc mất việc làm do những rủi ro xã hội thông qua việc
hình thành, sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia
bảo hiểm xã hội, nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao
động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Như vậy, đã có rất nhiều quan điểm khi đưa ra khái niệm bảo hiểm xã
hội song có một điểm chung là bảo hiểm xã hội có tác dụng giúp người lao
động trong những lúc khó khăn hiểm nghèo, ốm đau, tai nạn, thai sản trên
cơ sở đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động có sự hỗ trợ của
Nhà nước trước khi có biến cố xảy ra và khi người lao động gặp phải thì quỹ
bảo hiểm xã hội sẽ giúp họ cân bằng phần thu nhập bị giảm sút hay bị mất,
giúp họ trang trải phần chi tiêu bị tăng cao khi gặp các rủi ro khó khăn.
Dưới góc độ kinh tế: là phạm trù kinh tế tổng hợp, là sự bảo đảm thu
nhập nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi bị giảm hoặc mất khả
năng lao động.
Dưới góc độ xã hội: bảo hiểm xã hội thuộc phạm trù xã hội, là một
trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm mục đích bảo đảm
đời sống xã hội là chính chứ không nhằm mục đích kinh doanh. Tính xã hội
còn biểu thị ở tính tương trợ cộng đồng và sự ưu đãi của xã hội dành cho
người lao động và các thành viên khác trong xã hội. Khi người lao động tham
gia đóng bảo hiểm xã hội, họ không chỉ đóng góp cho mình mà còn hỗ trợ,
giúp đỡ những người lao động khác gặp khó khăn, rủi ro trong cuộc sống.
11
Dưới góc độ pháp lý: Chế độ bảo hiểm xã hội là tổng hợp những quy
định của Nhà nước, quy định các hình thức đảm bảo điều kiện vật chất và tinh
thần cho người lao động và trong một số trường hợp là thành viên gia đình họ
khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động.
Luật bảo hiểm xã hội thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2007 đã chính thức quy định chế độ bảo hiểm xã hội tại
Điều 3: "Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ
sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội" [41].
1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Khi
trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến mức độ nào đó thì hệ
thống bảo hiểm xã hội có điều kiện ra đời, phát triển. Vì vậy các nhà kinh tế
cho rằng, sự ra đời và phát triển của bảo hiểm xã hội phản ánh sự phát triển
của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, lạc hậu, đời sống của nhân
dân thấp kém thì không thể có một hệ thống bảo hiểm xã hội vững mạnh. Trái
lại, kinh tế càng phát triển, tiến bộ thì hệ thống bảo hiểm xã hội càng đa dạng,
các chế độ bảo hiểm xã hội càng phong phú và mở rộng hơn, do đó đời sống
xã hội nói chung và đời sống người lao động nói riêng ngày càng được cải
thiện và nâng lên một tầng cao mới.
Thực chất, bảo hiểm xã hội là sợ hỗ trợ nhằm khắc phục hậu quả của
những "rủi ro xã hội". Sự hỗ trợ này được thực hiện thông qua quá trình tổ
chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của các
bên tham gia bảo hiểm xã hội. Như vậy, bảo hiểm xã hội cũng là quá trình
phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, bảo hiểm xã hội là một
bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát
sinh nhu cầu bảo hiểm xã hội như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
12
nghề nghiệp, già yếu, chết… Vì vậy, mục đích của bảo hiểm xã hội là thực
hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ.
Bảo hiểm xã hội mang bản chất kinh tế và cả bản chất xã hội. Tuy
nhiên, tính kinh tế và tính xã hội của bảo hiểm xã hội không tách rời mà đan
xen vào nhau. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức, phân phối lại thu nhập nên đời
sống của người lao động và gia đình họ được đảm bảo trước những khó khăn,
bất trắc, rủi ro. Về mặt xã hội, do có sự "san sẻ rủi ro" của bảo hiểm xã hội,
người lao động chỉ phải đóng góp một khoản tiền nhỏ trong thu nhập của
mình cho quỹ bảo hiểm xã hội, nhưng xã hội sẽ có một khoản tiền lớn để
trang trải những rủi ro xảy ra. Ở đây, bảo hiểm xã hội đã thực hiện nguyên tắc
"lấy số đông bù số ít". Bảo hiểm xã hội thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp,
trong đó mỗi cá nhân được coi là một mắt xích của hệ thống giá trị xã hội.
Bảo hiểm xã hội tạo cho những người bất hạnh những điều kiện cần thiết để
khắc phục rủi ro, có cơ hội để phát triển và hòa nhập vào cộng đồng. Bảo
hiểm xã hội kích thích tính tích cực xã hội trong mỗi con người, hướng con
người tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống, vì một xã hội nhân ái, công
bằng, an toàn.
1.1.3. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ tuân thủ đầy đủ những nguyên
tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc, đó là:
- Nhà nước thống nhất quản lý bảo hiểm xã hội
Nguyên tắc này đã được ghi nhận trong Điều 56 Hiến pháp 1992:
"Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định
thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm
xã hội đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương;
khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người
lao động" [34].
13
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của
đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa Để đảm bảo thực hiện hài
hòa các nội dung nói trên và đạt được mục tiêu mà bảo hiểm xã hội đặt ra thì
việc thực hiện bảo hiểm xã hội trước hết là trách nhiệm của Nhà nước. Trách
nhiệm đó thể hiện: Nhà nước là người trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và quản lý
toàn bộ sự nghiệp bảo hiểm xã hội và kiểm tra việc thực hiện các quy định đó.
Nhà nước tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội ở từng thời kỳ mà quy định chính
sách quốc gia về bảo hiểm xã hội, nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc
bảo đảm vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình
họ khi người lao động bị suy giảm khả năng lao động hoặc gặp các rủi ro, khó
khăn khác.
Mặt khác, quỹ bảo hiểm xã hội với ý nghĩa là một quỹ tích lũy hình
thành trên cơ sở đóng góp của ba bên (Nhà nước - Người sử dụng lao động -
Người lao động) nhằm giúp đỡ về mặt vật chất cho người lao động khi họ gặp
các rủi ro, khó khăn không chỉ tham gia quan hệ lao động mà cả khi đã chấm
dứt quan hệ lao động. Do đó, bên cạnh nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm của người
sử dụng lao động, thì Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội
trong trường hợp cần thiết, Nhà nước cho phép áp dụng các biện pháp về bảo
toàn giá trị quỹ, đảm bảo sự an toàn về tài chính cho quỹ bảo hiểm xã hội.
- Thực hiện bảo hiểm xã hội trên cơ sở cân đối mức đóng và hưởng
bảo hiểm, kết hợp với nguyên tắc "lấy số đông bù số ít"
Bảo hiểm xã hội là một trong những hình thức phân phối tổng sản
phẩm quốc dân nên việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải dựa trên nguyên tắc
cân đối giữa mức đóng và hưởng bảo hiểm. Nghĩa là, phải đảm bảo hợp lý
giữa đóng góp của người lao động cho xã hội thể hiện thông qua mức tiền
công, tiền lương, thời gian đóng góp cho quỹ bảo hiểm xã hội để từ đó quy
định mức trợ cấp và độ dài thời gian hưởng trợ cấp phù hợp với sự đóng góp
cho xã hội của người lao động.
14
Tuy nhiên, khi xem xét nguyên tắc này cần đặt chúng trong mối quan
hệ phù hợp với các nguyên tắc khác của bảo hiểm xã hội. Bởi vì, bảo hiểm xã
hội bên cạnh nội dung pháp lý còn chứa đựng trong mình nội dung xã hội
theo nguyên tắc "lấy số đông bù số ít". Do đó, người lao động đóng góp quỹ
bảo hiểm xã hội và mức hưởng bảo hiểm trong những trường hợp nhất định
không hoàn toàn căn cứ vào mức đóng bảo hiểm của người lao động đó.
- Thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi trường hợp giảm hoặc mất khả
năng lao động và cho mọi người lao động.
Ý nghĩa xã hội của bảo hiểm xã hội chỉ được thực hiện khi bảo hiểm
xã hội áp dụng rộng rãi với tất cả mọi người lao động, không có sự phân biệt
nào. Nguyên tắc này đảm bảo cho người lao động làm việc trong bất kỳ thành
phần kinh tế nào, bất kỳ loại hình tổ chức nào, khi gặp rủi ro làm giảm hoặc
mất thu nhập từ lao động đều được hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội. Tuy
nhiên, tùy vào điều kiện kinh tế - xã hội từng thời kỳ mà đối tượng tham gia,
thụ hưởng bảo hiểm và các trường hợp bảo hiểm sẽ được xác định khác nhau.
Nền kinh tế càng phát triển, khả năng mở rộng đối tượng tham gia và các
trường hợp bảo hiểm càng được đảm bảo ở một mức độ cao hơn. Vì thế, với nền
kinh tế đang ở trình độ thấp như nước ta hiện nay, đây vừa là một nguyên tắc,
vừa là mục tiêu mà chính sách bảo hiểm xã hội cần đạt được trong tương lai.
- Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội không được cao hơn mức tiền lương
khi đang làm việc, nhưng không được thấp hơn mức bảo hiểm tối thiểu do
Nhà nước quy định và trong những trường hợp nhất định phải đảm bảo cuộc
sống tối thiểu cho người được bảo hiểm.
Trợ cấp bảo hiểm xã hội nhằm thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động như: ốm
đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí Vì vậy, về nguyên
tắc, mức trợ cấp bảo hiểm xã hội không cao hơn mức tiền lương khi đang làm
việc. Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh
15
nguyên tắc phân phối lại quỹ bảo hiểm xã hội cho những người lao động tham
gia bảo hiểm xã hội. Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội không được cao hơn mức
tiền lương của người lao động khi đang làm việc vừa có tác dụng bảo đảm sự
công bằng giữa người lao động đang cống hiến sức lao động (hưởng lương)
và người lao động cống hiến sức lao động ít hơn hoặc phải nghỉ việc hưởng
bảo hiểm xã hội, vừa có tác dụng phòng ngừa và loại bỏ tình trạng lợi dụng,
trục lợi bảo hiểm xã hội từ phía người lao động. Tuy nhiên, cũng cần tính đến
những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của người được bảo hiểm. Do đó, Nhà nước
cần phải quy định khống chế mức trợ cấp bảo hiểm xã hội tối thiểu nhằm bảo
vệ quyền lợi cho người được hưởng bảo hiểm xã hội. Mức trợ cấp bảo hiểm
xã hội tối thiểu được quy định, thay đổi tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội cụ
thể và thường căn cứ vào một số yếu tố liên quan như mức sống tối thiểu, tiền
lương tối thiểu, nhu cầu chi tiêu tối thiểu khi có bảo hiểm xã hội phát sinh.
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ
1.2.1. Khái niệm lao động nữ và tính đặc thù của lao động nữ
Chiếm khoảng 50% dân số thế giới, phụ nữ hiện đang gánh vác gần
75% thời gian lao động, bao gồm cả lao động xã hội và lao động trong gia
đình. Điều này đã phần nào nói lên vị trí, vai trò của người phụ nữ nói chung
và lao động nữ nói riêng trong xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà nhà xã hội
học không tưởng người Pháp thế kỷ XIX Phuriê lại nhấn mạnh: "Mức độ giải
phóng phụ nữ là thước đo trình độ của xã hội văn minh và tiến bộ nhân loại".
Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta đã chỉ rõ: "Nói phụ nữ là
nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một
nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội
chỉ một nửa". Người chỉ rõ: "Phải đảm bảo chú ý đến sức lao động của phụ
nữ". Mặc dù Bộ luật lao động dành hẳn chương X để quy định về lao động
nữ, Luật bảo hiểm xã hội cũng có nhiều quy định về lao động nữ nhưng lại
không có một khái niệm chính thức về lao động nữ. Tuy nhiên, chúng ta có
16
thể hiểu: lao động nữ là người lao động mà xét về mặt giới tính được xác định
là phụ nữ.
Xét dưới góc độ xã hội, lao động nữ là một lực lượng lao động xã hội,
bao gồm những người lao động là phụ nữ tham gia vào quan hệ lao động. Lao
động nữ đóng một vài trò quan trọng trong đời sống xã hội không chỉ vì họ là
lực lượng lao động mà họ còn là những người tham gia xây dựng, cải tạo xã
hội. Dưới góc độ pháp lý, với tư cách là người lao động, lao động nữ là một
chủ thể pháp lý, là một bên của quan hệ pháp luật lao động, do đó họ có
những quyền và nghĩa vụ pháp lý do pháp luật quy định. Chính từ sự khác
biệt về giới tính mà lao động nữ có những đặc điểm khác biệt so với lao động
nam. Những đặc điểm này tạo nên tính đặc thù của lao động nữ, mà từ đó
pháp luật lao động nước ta có những quy định riêng nhằm bảo vệ họ trong
lĩnh vực bảo hiểm xã hội.
Đặc điểm của lao động nữ được quy định khách quan bởi những đặc
điểm về giới tính và các đặc trưng về chính trị - kinh tế - xã hội.
- Về mặt chính trị: Trong xã hội nguyên thủy, chế độ mẫu hệ với việc
phụ nữ làm chủ gia đình đã tạo lập nên quyền chính trị sơ khai cho nữ giới.
Khi trình độ xã hội phát triển, do tính chất công việc nên nam giới thay thế
phụ nữ nắm giữ quyền lực, theo đó chế độ mẫu hệ cũng mất đi, chế độ phụ
quyền xuất hiện và kéo dài trong nhiều hình thái xã hội. Đặc biệt là xã hội
phong kiến, tư tưởng "trọng nam khinh nữ" như một định chế ghi dấu ấn sâu
sắc trong tư tưởng của mọi tầng lớp xã hội. Người phụ nữ thời kỳ này thực sự
là nô lệ của gia đình. Từ khi sinh ra đến khi chết đi, thân phận của họ phải
phụ thuộc vào cha, chồng, con trai, không được học hành, không có tự do
thân thể, không có bất cứ quyền gì, quyền chính trị cũng không phải là ngoại
lệ. Chỉ đến khi xã hội chủ nghĩa ra đời, chế độ người bóc lột người bị xóa bỏ,
vai trò, địa vị của người phụ nữ trong xã hội mới lại được quan tâm, coi trọng.
Là một nước nằm trong hệ thống nhà nước xã hội chủ nghĩa, ngay sau khi
17
giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta khẳng định vị thế của phụ nữ bắt
đầu bằng việc ghi nhận phụ nữ được quyền tham gia bầu cử, ứng cử vào cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất (Quốc hội); quyền bình đẳng nam nữ được
ghi trong bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta (1946) và từng bước
được thực hiện trong đời sống kinh tế - xã hội và gia đình.
Bước sang thế kỷ XXI, cũng như các quốc gia trên khắp thế giới, ở
Việt Nam, xu hướng chính trị hướng vào quyền con người và sự tiến bộ phụ
nữ được xem như sự tiến bộ của một nửa xã hội. Tuy nhiên, giữa mục tiêu và
thực tiễn bảo đảm quyền chính trị của lao động nữ còn một khoảng cách
không nhỏ. So với nam giới, tỷ lệ nữ giới trong các vị trí ra quyết định còn
thấp, chưa tương xứng với tỷ lệ về giới giữa nam và nữ. Bên cạnh đó, vẫn còn
những định kiến về vai trò của nữ giới trong chính trị rất nặng nề do nhiều
nguyên nhân như: nhận thức sai lệch về vai trò của phụ nữ, sự ích kỷ của nam
giới, thiếu nguồn hỗ trợ nâng cao năng lực của phụ nữ Điều này đòi hỏi cần
phải có sự quan tâm hơn nữa của các cấp ủy Đảng và Nhà nước, sự cảm
thông, chia sẻ sâu sắc của xã hội để người phụ nữ nói chung, lao động nữ nói
riêng có được quyền chính trị một cách thực tế.
- Về mặt kinh tế - xã hội: Lao động nữ không chỉ là lực lượng lao động
chiếm tỷ lệ lớn trong lao động xã hội, mà còn là những người tham gia xây
dựng, cải tạo xã hội. Khả năng làm việc, sức sáng tạo của họ không thua kém
đàn ông. Lao động nữ cùng với lao động nam tạo ra của cải vật chất cho xã
hội, thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển. Ngày nay, lao động nữ đã có
mặt ở hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề, thậm chí trong cả những công việc
mà trước đây gần như duy nhất dành cho nam giới như chế tạo máy, khoa học
vũ trụ Với những bước tiến mới của văn minh nhân loại, lao động nữ cũng
chịu khó học hỏi, nhanh chóng nắm bắt những tri thức cần thiết để hòa nhập
vào sự phát triển chung của thế giới, đóng góp vào công cuộc đổi mới của đất
nước. Tuy nhiên, khi tham gia vào thị trường lao động, lao động nữ bị hạn chế
trong một số lĩnh vực do sự khác biệt về giới. Họ chủ yếu tham gia các lĩnh
18
vực sản xuất dịch vụ, một số công việc mang tính truyền thống đối với lao
động nữ như dệt may, da giày, chế biến hải sản Trong khi đó còn rất nhiều
ngành nghề, lĩnh vực đang thiếu lao động trầm trọng. Hơn nữa, quan niệm bất
bình đẳng giới đã tồn tại hàng nghìn năm, không dễ gì xóa bỏ hẳn trong một
thời gian ngắn. Ngay trong các cơ quan, xí nghiệp vẫn còn khá phổ biến tư tưởng
không muốn nữ làm thủ trưởng, ngăn cản họ phát huy tiềm năng của mình.
Chính những đặc trưng riêng về mặt xã hội cùng những bất cập còn tồn tại làm
cản trở người lao động trong tiến trình giải phóng mình, khẳng định năng lực
và phẩm chất, giảm thiểu khả năng cống hiến cho xã hội. Vì vậy, cần phải đẩy
mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ của phụ nữ, bình đẳng giới, xóa bỏ
mọi rào cản chính trị, kinh tế, tư tưởng để lao động nữ hòa nhập vào xã hội,
góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Ngoài những đặc điểm về chính trị, kinh tế - xã hội, nghiên cứu về lao
động nữ không thể không xem xét vấn đề về giới với các đặc điểm như: thể
lực, sức khỏe, tâm lý, sinh lý cũng làm nên tính đặc thù của họ.
Xét về thể lực, sức khỏe, thông thường nữ giới yếu hơn nam giới nên
họ thích hợp với công việc nhẹ nhàng. Xét về mặt sinh lý, bước vào thời kỳ
lao động, phụ nữ phải trải qua các giai đoạn đặc biệt như thời kỳ thai nghén,
sinh con, cho con bú làm ảnh hưởng không nhỏ, thậm chí làm giảm sút sức
khỏe của họ. Ngoài ra, lao động nữ có thời kỳ phát triển thể chất, tinh thần,
thời kỳ lão hóa khác nam giới, nhu cầu ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí cũng khác.
Chính sự khác nhau của cấu tạo cơ thể về mặt sinh học mà lao động nữ có
chức năng riêng của mình, vừa là lao động sản xuất ra của cải vật chất, vừa là
lao động tái sản xuất sức lao động con người. Do đó, lao động nữ thường gặp
nhiều khó khăn trong công việc và điều này ảnh hưởng lớn tới sự phát triển
tài năng, sự thăng tiến của bản thân.
Xét về mặt tâm lý, phần lớn lao động nữ Việt Nam có bản tính rụt rè,
nhút nhát, chưa quen với tác phong làm việc công nghiệp. Lao động nữ ở
19
thành thị thường tự tin hơn, bản lĩnh hơn do có học thức, lại có điều kiện tiếp
xúc với môi trường làm việc năng động. Còn những vùng nông thôn nơi kinh
tế chưa phát triển đồng đều, lao động nữ vẫn có mặc cảm tự ti vì thiếu kiến
thức, thiếu thông tin. Các nghề như giúp việc gia đình, phục vụ nhà hàng,
phục vụ ăn uống, chăm sóc người già, người bệnh rất thích hợp với lao động
phổ thông và nhu cầu lao động trong các nghề này tương đối lớn; nhưng phần
đông chị em lại có định kiến mặc cảm với nghề, họ coi đó là những nghề thấp
kém. Khi không có trình độ học thức, hạn chế về mặt thông tin, tư tưởng an
phận phụ thuộc vẫn còn hiện hữu. Một số lao động nữ ở nông thôn muốn
thoát khỏi công việc đồng ruộng có tâm lý tìm kiếm việc làm ở những khu
công nghiệp phát triển. Người may mắn thì có việc làm tử tế với thu nhập ổn
định, phần đông còn lại đều gặp khó khăn, thậm chí rơi vào các tệ nạn xã hội
như ma túy, mại dâm hoặc bị bán qua biên giới
Mặt khác, trong cuộc sống, phần lớn phụ nữ thường mang tâm lý gia
đình là tất cả, gánh nặng gia đình đè lên vai họ. Từ trong tư duy, có một bộ
phận lao động nữ vẫn chưa nhận thức được vai trò cũng như quyền lợi của
bản thân, họ chưa tự giải phóng được chính bản thân mình. Vấn đề đặt ra là
phải đổi mới tư duy, nhất là nâng cao trình độ học thức cho họ. Cần thiết phải
giáo dục pháp luật, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bình đẳng giới để lao
động nữ từ nông thôn đến thành thị có tư duy tiến bộ, nhìn nhận đúng vị thế,
tự đấu tranh giải phóng và khẳng định năng lực của bản thân mình.
Qua phân tích những đặc điểm nói trên có thể thấy rõ những vấn đề rất
"riêng" của lao động nữ, đòi hỏi phải có một chính sách phù hợp, phản ánh
đúng vai trò, vị trí của lao động nữ trong đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, từ trước đến nay, phụ nữ thường chiếm hơn một nửa dân
số và cũng là một lực lượng lao động chủ yếu của xã hội góp phần tạo ra của
cải vật chất, xây dựng và thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển. Là một lực
lượng lao động xã hội đông đảo, lao động nữ đã tỏ rõ vai trò, khả năng, sức
20
sáng tạo của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thích ứng với sự hội
nhập và phát triển của nền kinh tế thế giới. Kinh tế thị trường đã và đang tạo
ra nhiều thuận lợi và cơ hội cho lao động nói chung và lao động nữ nói riêng.
Xu hướng phụ nữ tham gia vào quá trình sản xuất ngày càng tăng cả về số
lượng và chất lượng. Với tính đặc thù của mình, lao động nữ cần được sự
quan tâm đúng mức từ phía Nhà nước, xã hội để họ có được vị trí độc lập
trong đời sống xã hội và gia đình, là nền móng vững chắc cho sự phát triển và
tiến bộ đầy đủ của phụ nữ trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
1.2.2. Sự cần thiết phải thực hiện bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ
Ở Việt Nam, do ảnh hưởng của thời kỳ phong kiến kéo dài mà những
quan điểm bất bình đẳng giữa nam và nữ vẫn tồn tại dai dẳng cho đến tận
nay. Những quan điểm về tam tòng tứ đức; tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử đã làm cho phụ nữ mất đi sự độc lập cần thiết, luôn
phụ thuộc vào gia đình và người gia trưởng. Điều đó khiến lao động nữ ít
quan tâm đến ngoài xã hội. Đã từ lâu, ngoài thiên chức làm mẹ, lao động nữ
luôn gắn với nghĩa vụ chăm lo đến các công việc gia đình, nuôi dạy con cái.
Những công việc này mất rất nhiều thời gian và họ ít có điều kiện để học
tập, trao đổi kiến thức nâng cao trình độ lành nghề khi tham gia vào các
quan hệ lao động.
Từ những đặc điểm mang tính đặc thù đó, lao động nữ đã gặp không ít
khó khăn khi tham gia vào các quan hệ lao động:
Thứ nhất: do thể lực yếu nên lao động nữ không làm việc được trong
những ngành nghề, công việc nặng nhọc, độc hại. Điều đó ảnh hưởng đến khả
năng lựa chọn việc làm của lao động nữ. Mặt khác, với thiên chức làm mẹ,
khi con bị ốm đau, lao động nữ thường phải nghỉ việc để chăm sóc con. Chính
trong thời gian này, do phải nghỉ việc nên thu nhập của lao động nữ tạm thời
bị gián đoạn. Thêm vào đó, kinh phí chữa bệnh tật cho bản thân hay trong
trường hợp con ốm tăng lên đáng kể. Do vậy, cần phải có nguồn đảm bảo cho