ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HẢI YẾN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
TRONG LĨNH VỰC AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG
THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
Công trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Hoài Thu
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ,
họp tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2012
Có thể tìm hiểu luận văn tại
Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
TRONG LĨNH VỰC AN TOÀN, VỆ SINH
LAO ĐỘNG
5
1.1.
Lược sử quá trình hình thành và phát triển pháp luật trong
lĩnh vực an toàn vệ sinh lao động ở nước ta hiện nay
5
1.2.
Quan niệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ
sinh lao động
8
1.3.
Nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn vệ
sinh lao động
13
1.4.
Các nguyên tắc quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn,
vệ sinh lao động
27
1.4.1.
An toàn, vệ sinh lao động được thực hiện đồng bộ, toàn diện
29
1.4.2.
Nguyên tắc đảm bảo sự tham gia của tổ chức công đoàn
trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động
29
1.4.3.
Nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lý an toàn lao
động - vệ sinh lao động
32
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
TRONG LĨNH VỰC AN TOÀN, VỆ SINH
LAO ĐỘNG
34
2.1.
Thực trạng thực thi pháp luật trong lĩnh vực an toàn, vệ
sinh lao động
34
2.1.1.
Pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động và việc thực thi ở
Việt Nam
34
2.1.2.
Pháp luật một số nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh
lao động
43
2.2.
Thanh tra, kiểm tra thực hiện công tác vệ sinh an toàn
lao động
53
2.2.1.
Ý nghĩa, mục đích của thanh tra an toàn - vệ sinh lao động
53
2.2.2.
Đối tượng và nội dung cơ bản thanh tra về an toàn, vệ
sinh lao động
54
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC AN
TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG
62
3.1.
Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động
62
3.2.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về vệ
sinh, an toàn lao động
63
3.2.1.
Hoàn thiện pháp luật về vệ sinh, an toàn lao động
63
3.2.2.
Đổi mới việc tổ chức thực hiện việc thực thi pháp luật
về vệ sinh, an toàn lao động
74
3.2.3.
Tăng cường thực hiện chế độ kiểm tra, thanh tra, giám
sát việc tuân thủ các quy định của pháp luật về vệ sinh,
an toàn lao động
83
3.2.4.
Các giải pháp mang tính hỗ trợ tích cực cho hoạt động
quản lý nhà nước về vệ sinh, an toàn lao động
85
KẾT LUẬN
87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
90
PHỤ LỤC
93
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG
LĨNH VỰC AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG
5
1.1.
Lược sử quá trình hình thành và phát triển pháp luật trong lĩnh
vực an toàn vệ sinh lao động ở nước ta hiện nay
5
1.2.
Quan niệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao
động
8
1.3.
Nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn vệ sinh lao
động
13
1.4.
Các nguyên tắc quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ
sinh lao động
27
1.4.1.
An toàn, vệ sinh lao động được thực hiện đồng bộ, toàn diện
29
1.4.2.
Nguyên tắc đảm bảo sự tham gia của tổ chức công đoàn
trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động
29
1.4.3.
Nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lý an toàn lao động -
vệ sinh lao động
32
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH
VỰC AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG
34
2.1.
Thực trạng thực thi pháp luật trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh
lao động
34
2.1.1.
Pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động và việc thực thi ở Việt
Nam
34
2.1.2.
Pháp luật một số nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động
43
2.2.
Thanh tra, kiểm tra thực hiện công tác vệ sinh an toàn lao
động
53
2.2.1.
Ý nghĩa, mục đích của thanh tra an toàn - vệ sinh lao động
53
2.2.2.
Đối tượng và nội dung cơ bản thanh tra về an toàn, vệ sinh
lao động
54
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC TRONG LĨNH VỰC AN TOÀN, VỆ SINH LAO
ĐỘNG
62
3.1.
Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong
lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động
62
3.2.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về vệ
sinh, an toàn lao động
63
3.2.1.
Hoàn thiện pháp luật về vệ sinh, an toàn lao động
63
3.2.2.
Đổi mới việc tổ chức thực hiện việc thực thi pháp luật về vệ
sinh, an toàn lao động
74
3.2.3.
Tăng cường thực hiện chế độ kiểm tra, thanh tra, giám sát
việc tuân thủ các quy định của pháp luật về vệ sinh, an toàn
lao động
83
3.2.4.
Các giải pháp mang tính hỗ trợ tích cực cho hoạt động quản
lý nhà nước về vệ sinh, an toàn lao động
85
KẾT LUẬN
87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
90
PHỤ LỤC
93
Danh môc c¸c b¶ng
Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
2.1
10 địa phương xảy ra nhiều tai nạn lao động chết người
nhất
37
2.2
So sánh tình hình tai nạn lao động 6 tháng đầu năm 2011
và cùng kỳ năm 2010
38
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề đảm bảo an toàn,
vệ sinh lao động ngày càng liên quan chặt chẽ đến sự thành đạt của mỗi doanh
nghiệp, góp phần quyết định đến sự phát triển kinh tế bền vững của mỗi quốc
gia. Xây dựng một nền sản xuất an toàn với những sản phẩm có tính cạnh tranh
cao gắn liền với việc bảo vệ sức khỏe của người lao động là yêu cầu tất yếu của sự
phát triển kinh tế bền vững và đủ sức cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu hóa.
Cùng với những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, thời gian
qua công tác an toàn, vệ sinh lao động ở nước ta đã có những chuyển biến
đáng kể về hệ thống văn bản pháp luật và bộ máy tổ chức. Chỉ thị số
132CT/TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng nhấn mạnh: Ở đâu, khi nào có
hoạt động lao động sản xuất, thì ở đó, khi đó phải tổ chức công tác bảo hộ lao
động theo đúng phương châm: "Bảo đảm an toàn để sản xuất - Sản xuất phải
đảm bảo an toàn lao động" [20].
Thể chế hóa đường lối của Đảng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật lao động năm 2002 đã dành chương IX quy định về an toàn, vệ sinh lao
động. Trên thực tế, rất nhiều ngành, nhiều địa phương, doanh nghiệp và người
sử dụng lao động đã có những biện pháp, sáng kiến cải thiện điều kiện làm
việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động và môi trường sản xuất kinh doanh.
Tuy vậy, công tác bảo hiểm lao động nói chung và công tác an toàn,
vệ sinh lao động nói riêng ở nước ta còn quá nhiều khó khăn và tồn tại cần
giải quyết. Nhiều doanh nghiệp mới chỉ được quan tâm đầu tư phát triển sản
xuất, thu lợi nhuận, thiếu sự đầu tư tương xứng để cải thiện điều kiện làm việc
an toàn cho người lao động. Vì vậy, Việt Nam đã xảy ra nhiều vụ tai nạn lao
động làm chết và bị thương nhiều người, thiệt hại tài sản của Nhà nước và
doanh nghiệp. Trong năm 2008 đã xảy ra 5836 vụ tai nạn lao động làm 6.047
người bị nạn, có 508 vụ tai nạn lao động chết người làm 573 người chết,
1.262 người bị thương nặng. Có 129 vụ có từ 2 người bị nạn trở lên, đặc biệt
là vụ nổ khí mêtan tại mỏ than Khe Chàm ngày 08/12/2008 làm 11 người chết
và 22 người bị thương nặng, vụ sập giàn cầu tại cảng Cái Lân ngày
15/07/2008 làm 7 người chết, 1 người bị thương nặng. Điều đáng lưu tâm là
số vụ tai nạn lao động được thống kê kể trên còn thấp hơn rất nhiều so với vụ
xảy ra trong thực tế.
Nguyên nhân chính trong các vụ tai nạn lao động do chủ sử dụng lao
động thiếu quan tâm cải thiện điều kiện làm việc an toàn, mặt khác do ý thức
tự giác chấp hành nội quy, quy chế làm việc bảo đảm an toàn lao động của
người lao động chưa cao, thiếu sự kiểm tra, giám sát thường xuyên của cơ
quan thanh tra Nhà nước về an toàn lao động. Hậu quả của thực tế trên không
chỉ gây thiệt hại tài sản của Nhà nước mà còn ảnh hưởng không tốt đến quá
trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Chính vì lý do đó, luận văn mạnh dạn chọn đề tài: "Quản lý nhà nước
trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động theo pháp luật lao động Việt Nam"
nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề cũng như thực tiễn của công tác này
trong đời sống xã hội hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây đã có một số bài báo khoa học, công trình
nghiên cứu về cập tới một số khía cạnh của vấn đề an toàn, vệ sinh lao động
đối với người lao động nói chung như: Về luận án tiến sỹ có đề tài: "Quản lý
nước về lao động ở Việt Nam hiện nay" của Vũ Minh Tiến, (2010). Về luận
văn thạc sĩ có đề tài "Pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động", của
Trần Trọng Đào, (2001)
- Hội thảo triển khai kế hoạch năm 2011 dự án bảo vệ sức khỏe người
lao động giai đoạn 2009-2001 ngày 9/5/2011 của Cục Quản lý Môi trường Y tế
phối hợp Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
- Số chuyên đề tháng 3/2011, sức khỏe người lao động của Bộ Y tế phối
hợp báo Sức khỏe và Đời sống, Cục Quản lý môi trường: "Tình hình và xu hướng
bệnh nghề nghiệp trong giai đoạn 2006-2010, định hướng giai đoạn 2011- 2015".
- Báo cáo công tác y tế lao động 6 tháng đầu năm 2011 (Cục Quản lý
Môi trường Y tế đã tổng hợp số liệu báo cáo sơ kết công tác y tế lao động 6
tháng đầu năm 2011 của 71 đơn vị).
Luận văn đi vào tìm hiểu, tổng hợp một vấn đề mới với hy vọng đóng
góp một góc nhìn khái quát hơn cho việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành
pháp luật lao động liên quan đến sự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực an
toàn, vệ sinh lao động.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm rõ vấn đề lý luận quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ
sinh lao động theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam.
Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh
lao động. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động và nâng cao hiệu quả áp dụng, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được các mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm
vụ cụ thể sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu làm rõ những nội dung cơ bản của quản lý nhà
nước trong lĩnh vực an toàn và vệ sinh lao động, đặc biệt là nội dung pháp
luật trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao theo pháp luật lao động Việt Nam.
Thứ hai: Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật trong lĩnh vực an
toàn, vệ sinh lao động đối với người lao động và việc thực thi trên thực tế, đánh
giá những kết quả cũng như sự bất cập, nguyên nhân của sự bất cập, tồn tại.
Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả, hiệu lực của
quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động.
4. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu
Do tính chất, phạm vi của đề tài luận văn là vấn đề rộng, trong khuôn
khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu
khía cạnh pháp lý của quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao
động và một giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà
nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động. Đây cũng là sự tự giới hạn
trong nghiên cứu
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu và giải quyết nhiệm vụ đặt ra, trên
cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin với phép duy vật biện
chứng và phép duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể như: phương pháp lịch sử, tổng hợp, so sánh, phân tích số liệu, tài liệu,
thống kê làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu, phù hợp với từng lĩnh vực của
đề tài.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quản lý nhà nước trong lĩnh vực an
toàn, vệ sinh lao động
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn vệ sinh
lao động
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà
nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động.
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
TRONG LĨNH VỰC AN TOÀN, VỆ SINH LAO ĐỘNG
1.1. Lƣợc sử quá trình hình thành và phát triển pháp luật trong lĩnh
vực an toàn vệ sinh lao động ở nƣớc ta hiện nay
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
mới thành lập, ngày 12/3/1947 Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh số 29 ban hành
Luật lao động, trong đó đã quy định về bảo hộ lao động ở các điều như:
Điều 133 "Các xí nghiệp phải có đầy đủ phương tiện để bảo đảm và
giữ gìn sức khỏe cho công nhân. Các nhà máy, dụng cụ phải được sắp đặt và
giữ gìn như thế nào cho phù hợp với sự bảo an" [12].
Điều 134: "Công nhân hay thợ học nghề làm trong các giấy mỏ, các
ống dẫn hơi, các ống dẫn khói, các nhà tiêu, các thùng chứa chất độc v.v
đều phải có các dụng cụ thiết bị để bảo vệ sinh mệnh và tránh tai nạn" [12].
Điều 140: "Những nơi làm việc phải rộng rãi, thoáng khí và có ánh
sáng mặt trời. Những nơi làm việc phải cách ly hẳn với nhà tiêu, những cống
rãnh để tránh mùi hôi thối" [12].
Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã xác định những quyền lợi mà người
lao động được đảm bảo như quyền làm việc, có quyền nghỉ ngơi, được bảo
hiểm xã hội, cứu tế, y tế. Phụ nữ lao động được nghỉ ngơi trước và sau khi
sinh con, bảo vệ quyền người mẹ và trẻ em (các điều 24, 30, 31, 32, 39).
Tháng 9/1991, Hội đồng Chính phủ đã thông qua và công bố ban hành
Pháp lệnh Bảo hộ lao động. Pháp lệnh có hiệu lực từ ngày 1/1/1992.
Ngày 23/6/1994 Bộ luật lao động đã được Quốc hội thông qua tại kỳ
họp thứ IX và có hiệu lực từ ngày 1/1/1995 đã đáp ứng kịp thời để điều chỉnh
các quan hệ lao động trong cơ chế thị trường, trong đó Bộ luật lao động dành
chọn Chương IX từ điều 95 đến điều 108 để điều chỉnh các quan hệ lao động
trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động.
Tuy nhiên, nội dung chính sách nhất là các biện pháp và các quy định về
an toàn, vệ sinh lao động là rất nhiều, sự phức tạp trong cơ chế quản lý của nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, các chủ sở hữu thì rất đa dạng và phong phú,
dẫn tới hệ quả là để điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ về an toàn, vệ sinh lao
động cần thiết phải nghiên cứu thật kỹ về mặt lý luận để có được những quy
định về pháp lý phù hợp. Tiếp đó ngày 31/12/1994 Chính phủ ban hành Nghị
định số 195/CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ
luật lao động về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của người lao động.
Ngày 26/3/1998, Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 13/CT/TTg nhằm
tăng cường chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác bảo hộ lao động trong tình
hình xã hội mới.
Ngày 27/12/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 110/2002/NĐ-CP
về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/CP ngày 20/1/1995
của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật lao động sửa đổi về
an toàn, vệ sinh lao động.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật lao động năm 2006. Bộ
luật lao động sửa đổi đã có những quy định rất cụ thể và chi tiết về an toàn, vệ
sinh lao động. Cho đến nay, đây là Bộ luật lao động hoàn chỉnh nhất, có
những quy định rõ ràng nhất về vấn đề này.
Cơ quan quản lý chuyên môn về lao động là Bộ Lao động - Thương
binh và xã hội cũng đã ban hành theo thẩm quyền và phối hợp với cơ quan có
thẩm quyền liên quan ban hành nhiều văn bản chỉ đạo cụ thể như:
- Thông tư liên bộ số 03/TT-LB ngày 28/1/1994 hướng dẫn công tác
huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
- Thông tư 23/LĐTBXH-TT ngày 18/11/1996 của Bộ Lao động -
Thương binh và xã hội hướng dẫn chế độ thống kê, báo cáo định kỳ về tai nạn
lao động.
- Thông tư số 13/TT-BYT ngày 2/10/1996 của Bộ Y tế hướng dẫn
thực hiện việc quản lý sức khỏe người lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Thông tư số 20/1997 TT-LĐTB&XH ngày 17/2/1998 hướng dẫn về
việc khen thưởng hàng năm về công tác bảo hộ lao động.
- Thông tư số 10/1998 TT-LĐTBXH ngày 28/5/1998 hướng dẫn thực
hiện trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân.
- Thông tư liên tịch số 03/1998 TTL-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN
ban hành ngày 26/3/1998 giữa Bộ Bộ Lao động - Thương binh và xã hội - Bộ
Y tế - Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam hướng dẫn về khai báo, điều tra tai
nạn lao động.
Ngày 20/4/1998 Thông tư liên tịch số 08/1998/TTLT-BYT-BLĐTBXH
đã được ban hành nhằm hướng dẫn thực hiện các quy định về bệnh nghề nghiệp.
Ngày 30/10/1998, thông tư liên tịch số 14/1998/TTLT-BLĐTBXH-
BYT-TLĐLĐVN hướng dẫn việc tổ chức thực hiện công tác bảo hộ lao động
trong doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh.
Thông tư liên tịch số 10/1999 TTLT-BYT-TLĐLĐVN ngày 17/03/1999
hướng dẫn chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật đối với người lao động làm việc
với các yếu tố nguy hiểm, độc hại. Ngày 23/6/1994 Quốc hội đã thông qua Bộ
luật lao động. Đây là Bộ luật lao động đầu tiên điều chỉnh mối quan hệ làm
công ăn lương với các tổ chức và cá nhân có thuê mướn và sử dụng lao động
trên cơ sở của giao kết hợp đồng lao động và các quan hệ khác có liên quan
đến quan hệ lao động, trong việc tạo lập thị trường lao động đồng bộ, thống
nhất. Có thể nói an toàn, vệ sinh lao động đã qui định thành một chương riêng
trong Bộ luật lao động (cụ thể là chương IX với 18 điều) các qui định pháp
luật trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động đã thể hiện quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta xuất phát từ con người mà trong đó sức lao động là vốn quí.
Trên cơ sở các qui định của Bộ luật lao động và các văn bản hướng
dẫn thi hành, các Bộ, ngành, đơn vị sử dụng lao động trong phạm vi hoạt
động, tính chất nghề nghiệp xây dựng tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn lao động
của ngành (đơn vị) mình.
1.2. Quan niệm quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh
lao động
Trong khoa học quản lý, quản lý nhà nước thường được hiểu: là sự tác
động thực tế mang tính tổ chức và điều chỉnh của nhà nước (thông qua hệ
thống các cơ cấu của nhà nước) lên sinh hoạt xã hội, cá nhân, tổ chức của con
người nhằm mục đích chấn chỉnh trật tự, duy trì hoặc cải tạo nó, dựa trên cơ
sở quyền lực của nhà nước.
Quản lý nhà nước thực chất là sự biểu hiện khả năng của nhà nước
trong việc tổ chức và điều chỉnh đời sống xã hội. Quản lý không phải là một
cái gì nằm trên xã hội, bên ngoài xã hội, bên ngoài con người mà nằm bên
trong xã hội. Quản lý biểu hiện chất lượng xã hội. Trong thiên nhiên, các hiện
tượng tự nhiên xảy ra một cách tự phát theo quy luật tự nhiên, dựa trên các
quy luật sinh học mà thế giới động vật, thực vật đã phát triển một cách tự
nhiên. Nhưng xã hội chỉ có thể phát triển được nhờ ý thức, tri thức của con
người, con người nhờ ý thức, tri thức của mình mà nhận thức được thế giới
xung quanh, nghĩ về thế giới ấy và hình thành nên các kế hoạch để xây dựng
cuộc sống của mình.
Khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách có ý thức được thực
hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
trong cơ quan nhà nước.
Để quản lý nhà nước cần phải đặt ra các quy tắc hành vi, ứng xử của
con người (ban hành văn bản quy phạm pháp luật) và ban hành các quyết định
quản lý, nhưng không vì thế mà quan niệm quản lý nhà nước là ban hành văn
bản quy phạm pháp luật và ban hành các quyết định quản lý cá biệt cụ thể.
Điều này là cần thiết trong quản lý nhà nước, nhưng nếu đi theo logic này tất
yếu dẫn đến tình trạng: quản lý tức là thông qua các văn bản giấy tờ hoặc tổ
chức triền miên các cuộc họp. Bởi vậy điều quan trọng đối với các nhà quản
lý, các nhà hành chính phải luôn ghi nhớ đó là sự tác động mang lại hiệu quả
nhất định. Cho nên quản lý với tư cách là sự tác động phải được quán triệt
trong toàn bộ bộ máy quản lý trong từng cơ quan, trong ý thức của từng người
cán bộ, công chức nhà nước. Chính sự tác động này phải tạo ra những thay
đổi thật sự trong đời sống của toàn xã hội, cải tạo được xã hội, nếu không
quản lý mất đi ý nghĩa xã hội của nó.
Quản lý nhà nước có các đặc trưng sau đây:
Một là, tác động quản lý mang tính tổ chức
Tác động quản lý nhà nước là rất phong phú, đa dạng, có nhiều đặc
trưng và có ý nghĩa riêng. Khác với các hình thức tác động khác như đào tạo,
giáo dục, tác động quản lý nhà nước là một hình thức tác động có tổ chức và
mang tính điều chỉnh, có nghĩa là sự tác động này phải đặt con người vào các
mối quan hệ tổ chức nhất định, nhờ quan hệ sản xuất, quan hệ công vụ
Bản thân thuật ngữ tổ chức có nghĩa là xây dựng các mối quan hệ giữa
con người với con người trong cộng đồng, xã hội, trong mọi lĩnh vực của
cuộc sống con người. Tổ chức là sự tập hợp mọi người để đạt được những
mục đích nhất định. Các mục đích ấy chính là cơ sở để xây dựng một tổ chức
này hay tổ chức khác. Tổ chức không phải là những hoạt động mà tổ chức
chính là tạo ra các điều kiện cho các hoạt động thực tiễn. Thực tiễn đã chỉ ra
rằng không ít trường hợp nhiều khi chúng ta thành lập ra vô số các tổ chức,
các bộ phận cấu thành của cơ quan, tổ chức nhà nước mà thành lập ra không
biết để làm gì, từ đó dẫn đến tình trạng làm cho bộ máy nhà nước cồng kềnh,
kém hiệu quả, nhiều cơ quan của nó hoạt động mang tính hình thức.
Hai là, quản lý nhà nước mang tính điều chỉnh; mang tính chất quyền
lực; quản lý nhà nước tính khoa học; quản lý mang tính liên tục.
Để hiểu quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động cần
phải làm rõ một số khái niệm có liên quan: vệ sinh lao động, điều kiện lao
động, kỹ thuật an toàn.
Vệ sinh lao động được hiểu là: Tổng thể các tiêu chuẩn môi trường lao
động (ánh sáng, chống bụi, nóng lạnh, gió, tiếng ồn, độ ẩm…); bảo hộ an toàn
lao động, trang thiết bị bảo hộ lao động, máy móc, thiết bị sản xuất, chế độ ăn
uống tối ưu thích hợp với mỗi loại lao động; vệ sinh cá nhân của người lao
động; nhà ở và các tiện nghi sinh hoạt; quản lý sức khỏe cho người lao động
và gia đình
Việc nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố có hại đối với sức khỏe người
lao động để đề xuất các biện pháp cải thiện điều kiện làm việc bảo vệ sức
khỏe, nâng cao khả năng lao động và phòng ngừa bệnh nghề nghiệp. Vệ sinh
lao động là nghiên cứu đặc điểm các yếu tố có hại trong sản xuất, những biến
đổi sinh lý, sinh hóa, tâm - sinh lý của người lao động để đề ra các biện pháp
đề phòng hạn chế ảnh hưởng tác hại; xây dựng tiêu chuẩn vệ sinh, chế độ,
kiểm tra thực hiện; xây dựng tiêu chuẩn khám tuyển, khám sức khỏe định kỳ,
bệnh nghề nghiệp.
Điều kiện lao động được hiểu là tổng thể các yếu tố về kinh tế, xã hội,
tổ chức, kỹ thuật, tự nhiên thể hiện qua quá trình công nghệ, công cụ lao
động, đối tượng lao động, môi trường lao động, con người lao động, và sự tác
động qua lại giữa chúng tạo nên những điều kiện cần thiết cho hoạt động của
con người trong quá trình sản xuất.
Cải thiện điều kiện lao động cho người lao động làm việc trong môi
trường lao động an toàn có ý nghĩa cực kỳ to lớn.
Điều kiện lao động đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động là mục đích,
mục tiêu không chỉ của một doanh nghiệp, một quốc gia mà là còn của toàn
thể loài người. Để đạt được điều kiện lao động đảm bảo an toàn, vệ sinh lao
động cần thiết phải đầu tư không chỉ là đưa ra khẩu hiệu, khuyến khích về mặt
tinh thần, mà còn cả cơ chế tổ chức thực hiện, cần quan tâm đầu tư cơ sở vật
chất. Ở nước ta để có điều kiện lao động đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động
không dễ dàng. Hiện nay hàng triệu người lao động phải lao động trong điều
kiện lao động khắc nghiệt, có nơi nguy cơ tai nạn tới mức báo động, đồng thời
còn bị ô nhiễm môi trường trầm trọng. Vì vậy để bảo vệ sức khỏe cho người
lao động cần cố gắng cải thiện điều kiện lao động cho người lao động đến độ
mà chúng ta có thể. Vì vậy cải thiện điều kiện lao động và đặt ra các yêu cầu
đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động là một trong những nhiệm vụ trọng yếu để
phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp góp phần phát triển sản xuất,
tăng năng suất lao động xã hội. Nói khác đi đó là muốn tiến hành sản xuất
được thuận lợi thì phải tiến hành công tác an toàn, vệ sinh lao động áp dụng
các biện pháp cần thiết nhằm:
- Bảo đảm an toàn thân thể người lao động, không xảy ra chết người,
bị thương tật, tàn phế do tai nạn lao động gây nên.
- Bảo vệ sức khỏe cho người lao động, không bị mắc bệnh nghề
nghiệp hoặc các bệnh tật khác do điều kiện lao động gây ra.
- Bồi dưỡng hồi phục kịp thời và duy trì sức khỏe cho người lao động
sau khi sản xuất.
- Công tác bảo hộ lao động có vị trí rất quan trọng trong sản xuất và là
một trong những yêu cầu khách quan của sản xuất dưới bất cứ nền sản xuất nào.
Kỹ thuật an toàn được hiểu là hệ thống các biện pháp và phương tiện
về tổ chức và kỹ thuật nhằm phòng ngừa sự tác động của các yếu tố nguy
hiểm trong sản xuất đối với người lao động. Kỹ thuật an toàn là một hệ thống
các phương tiện kỹ thuật và các thao tác làm việc nhằm bảo đảm cho người
lao động tránh khỏi chấn thương.
Phương tiện kỹ thuật bao gồm máy móc, thiết bị, bộ phận, chi tiết
trang bị, dụng cụ
Chấn thương gây ra tai nạn, biểu hiện cụ thể là vết thương hoặc sự hủy
hoại cơ thể con người. Chấn thương có thể dẫn đến chết người, làm mất khả
năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn. Phương tiện kỹ thuật và thao tác làm
việc là hai yếu tố kỹ thuật an toàn, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu
được trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại, đồng bộ mà thao tác làm việc
không tuân thủ quy trình, quy phạm thì dễ gây sự cố, tai nạn. Ngược lại, nếu
người lao động làm việc theo trình tự, quy trình, quy phạm mà phương tiện
kỹ thuật cũ, lạc hậu, thiếu đồng bộ cũng dễ xảy ra sự cố tai nạn. Vì vậy nếu
trang bị phương tiện kỹ thuật phải đồng thời với việc thao tác theo quy trình.
Được góc độ pháp lý, cần phải xây dựng nội quy, quy trình, các quy phạm an
toàn và trong quá trình sản xuất phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình, quy
phạm này.
Như vậy, an toàn, vệ sinh lao động là tình trạng, điều kiện lao động
không gây ra sự nguy hiểm trong sản xuất. Từ góc độ luật học có thể hiểu, an
toàn, vệ sinh lao động là một chế định pháp luật là tổng hợp những quy phạm
của Nhà nước quy định các biện pháp bảo đảm an toàn lao động, nhằm ngăn
ngừa tai nạn lao động và khắc phục những hậu quả của tai nạn lao động, cải
thiện điều kiện lao động cho người lao động
Từ những vấn đề nêu trên, có thể hiểu: quản lý nhà nước trong lĩnh
vực an toàn, vệ sinh lao động là sự tác động mang tính tổ chức và điều chỉnh
của nhà nước (thông qua hệ thống các cơ quan nhà nước) đến việc bảo đảm an
toàn, vệ sinh lao động nhằm bảo đảm điều kiện lao động không gây ra sự
nguy hiểm cho người lao động trong sản xuất, chấn chỉnh trật tự, duy trì, hoạt
động bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động dựa trên cơ sở quyền lực của nhà
nước bằng pháp luật.
1.3. Nội dung quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực an toàn vệ sinh lao động
Có thể thấy quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động
là một bộ phận, một phần của quản lý nhà nước về lao động.
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động là việc nhà
nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền quản lý hoạt động an toàn, vệ sinh
lao động thông qua việc nhà nước lập chương trình quốc gia về bảo hộ lao
động, ban hành các văn bản pháp luật, đầu tư, tự nghiên cứu khoa học trong
lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động, hỗ trợ phát triển các cơ sở sản xuất, trang
thiết bị an toàn, vệ sinh lao động.
Theo Điều 180 Bộ luật lao động - Quản lý nhà nước về lao động bao
gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
1. Nắm cung cầu và sự biến động cung cầu lao động làm cơ sở để
quyết định chính sách quốc gia, quy hoạch, kế hoạch về nguồn nhân lực, phân
bố và sử dụng lao động toàn xã hội;
2. Ban hành và hướng dẫn thi hành các văn bản pháp luật lao động;
3. Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình quốc gia về việc
làm, di dân xây dựng các vùng kinh tế mới, đưa người đi làm việc ở nước ngoài;
4. Quyết định các chính sách về tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn
lao động, vệ sinh lao động và các chính sách khác về lao động và xã hội; về
xây dựng mối quan hệ lao động trong các doanh nghiệp;
5. Tổ chức và tiến hành nghiên cứu khoa học về lao động, thống kê,
thông tin về lao động và thị trường lao động, về mức sống, thu nhập của
người lao động;
6. Thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật lao động và xử lý các vi
phạm pháp luật lao động, giải quyết các tranh chấp lao động theo quy định
của Bộ luật này;
7. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với nước ngoài và các tổ chức
quốc tế trong lĩnh vực lao động.
Quyền quản lý nhà nước về lao động thực chất là sự thể hiện quyền
lực nhà nước trong lĩnh vực lao động nhằm bảo vệ tốt nhất cho các chủ thể
tham gia quan hệ lao động. Nhà nước phải thực hiện bổn phận đảm bảo gìn
giữ, bảo vệ, sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn nhân lực. Bởi lẽ, nhân lực là
yếu tố không thể thiếu để thực hiện các hoạt động lao động - hoạt động quan
trọng nhất của con người nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần
của xã hội. Nhà nước phải có trách nhiệm lớn nhất trong việc tổ chức các hoạt
động kinh tế - xã hội, trong đó có việc sử dụng lao động trong các doanh
nghiệp và các đơn vị sử dụng lao động khác. Về phương diện kinh tế - xã hội,
việc quản lý lao động của Nhà nước có vai trò đặc biệt trong việc quản lý
nguồn nhân lực quốc gia, khắc phục những khía cạnh tiêu cực của lao động,
làm cho các quan hệ lao động, quá trình lao động trở nên có tổ chức và có
hiệu quả hơn. Về phương diện pháp lý, Nhà nước là chủ thể có quyền lực
pháp lý lớn nhất, có quyền ban hành và thực thi pháp luật, áp dụng các trách
nhiệm pháp lý đối với tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật.
Như vậy, cơ sở của việc thiết lập quyền quản lý lao động của Nhà
nước trước hết xuất phát từ vị trí, vai trò của Nhà nước trong xã hội, đó là
thiết lập, củng cố và duy trì trật tự xã hội trên thị trường lao động, bảo đảm
việc bảo vệ liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức - những người lao động trong xã hội - thông qua quyền quản lý
nguồn nhân lực và quản lý lao động bằng pháp luật để có chính sách phát
triển, phân bố nguồn nhân lực, phát triển đa dạng các hình thức sử dụng lao
động và giới thiệu việc làm thông qua hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về
lao động các cấp; khuyến khích việc quản lý lao động dân chủ, công bằng,
văn minh trong doanh nghiệp và mọi biện pháp, kể cả việc trích thưởng từ lợi
nhuận của doanh nghiệp, làm cho người lao động quan tâm đến hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp, nhằm đạt hiệu quả cao trong quản lý lao động, sản
xuất của doanh nghiệp; hướng dẫn người lao động và người sử dụng lao động
xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa và ổn định, cùng nhau hợp tác vì sự
phát triển của doanh nghiệp…
Là chủ sử dụng lao động, người sử dụng lao động có quyền quản lý
người lao động. người sử dụng lao động là người tổ chức, theo dõi, giám sát
việc thực hiện các nhiệm vụ của người lao động trong quá trình lao động. Bởi
lẽ, khi tham gia quan hệ lao động, mỗi người lao động thực hiện các nghĩa vụ
từ hợp đồng lao động mang tính cá nhân, đơn lẻ, song hoạt động lao động của
người lao động là hoạt động mang tính xã hội, vì thế hiệu quả của hoạt động
lao động phụ thuộc vào sự phối hợp, tương tác qua lại của cả tập thể người lao
động dưới sự điều hành của người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động
là người được hưởng lợi từ kết quả lao động của người lao động, có nghĩa vụ
trả lương và các quyền lợi khác cho người lao động kể từ thời điểm hợp đồng
lao động có hiệu lực pháp luật. Quyền quản lý lao động của người sử dụng lao
động là quyền không thể thiếu trong quá trình duy trì mối quan hệ lao động đã
được thiết lập giữa các bên tham gia quan hệ lao động.
Như vậy, hoạt động quản lý lao động của người sử dụng lao động là
quyền mà Nhà nước dành cho các chủ sử dụng lao động. Quá trình thực hiện
quản lý lao động, người sử dụng lao động phải tuân thủ các quy định về tuyển
dụng, bố trí, sắp xếp việc sử dụng lao động, bảo đảm môi trường làm việc an
toàn cho người lao động. Quyền quản lý lao động của người sử dụng lao động
là sự ràng buộc, kiểm soát sự quản lý của người sử dụng lao động trong
khuôn khổ pháp luật và tương quan với sự bình đẳng có tính bản chất của
quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường.
Nhà nước thực hiện việc quản lý lao động trong nền kinh tế thị trường
trước hết là để bảo vệ các bên tham gia quan hệ lao động, bảo đảm quyền tự
do của các bên tham gia quan hệ lao động, phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi
phạm pháp luật các bên tham gia quan hệ lao động. Mục đích việc quản lý lao
động của Nhà nước thể hiện sự điều hành cả ở tầm vĩ mô và vi mô đối với quá
trình quản lý lao động, tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thi hành chính sách,
pháp luật lao động và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình lao động.
Quản lý nhà nước về lao động có tác động trực tiếp đến mọi mặt của
đời sống xã hội, đặc biệt là các chính sách của Nhà nước đối với xã hội.
Trong các giai đoạn phát triển khác nhau, Nhà nước buộc phải giải quyết hài
hòa giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, do
vậy, phải coi trọng chính sách xã hội là động lực để phát triển kinh tế, nhưng
đồng thời lại phải coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các
chính sách xã hội. Việc đưa ra các bảo đảm cho người lao động, nhất là về
chính sách xã hội là điều hết sức cần thiết, nhưng phải cân nhắc mức độ phù
hợp theo từng thời kỳ để nâng dần từng bước, có tính đến các khả năng kinh
tế chung của đất nước và khả năng chi trả của người sử dụng lao động, cần xét
tới phạm vi, biện pháp và bước đi nếu không sẽ có thể gây thiệt hại cho chính
bản thân người lao động, trước hết là về việc làm, sau là không đạt được mục
tiêu của chính sách, không bảo vệ được người lao động trong thực tế.
Việc thực hiện quản lý lao động của người sử dụng lao động trước hết
là sự thể hiện quyền của người sử dụng lao động trong quan hệ lao động, thể
hiện quan hệ lệ thuộc của người lao động vào người sử dụng lao động, là một
trong những đặc điểm cơ bản của quan hệ pháp luật lao động.
Thông qua hoạt động quản lý lao động của người sử dụng lao động sẽ
bảo đảm việc tổ chức thực hiện quá trình lao động, theo dõi, giám sát người lao
động trong quá trình lao động theo ý đồ của họ. Bằng các hành vi quản lý, người
sử dụng lao động tiến hành việc tuyển chọn người lao động, phân công, sắp xếp
công việc, bảo đảm điều kiện làm việc, tổ chức quản lý quá trình lao động
Như vậy, mục đích của việc quản lý lao động của người sử dụng lao
động chính là bảo đảm cho quá trình lao động diễn ra có trật tự, tránh tổn thất
tài sản của người sử dụng lao động và kiểm soát hiệu quả việc sử dụng sức lao
động của người lao động nhằm đạt được lợi nhuận tối đa. Bên cạnh đó, thông
qua hoạt động quản lý lao động, người sử dụng lao động có thể nắm bắt được
tâm tư, nguyện vọng của người lao động để có biện pháp bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của người lao động hữu hiệu nhất và thông qua đó, thực hiện tốt
các nghĩa vụ mà pháp luật quy định trong quá trình lao động.
Nhà nước thực hiện quyền quản lý lao động trên cả ba mặt: ban hành
cơ chế, chính sách, pháp luật về lao động; tổ chức thực hiện pháp luật lao
động; theo dõi, kiểm tra, giám sát người sử dụng lao động trong việc tuân thủ
pháp luật lao động trong quá trình lao động; xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật lao động của các bên tham gia quan hệ lao động. Đây là hoạt động quản
lý lao động của Nhà nước nhằm tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các
bên tham gia quan hệ lao động bằng việc quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ
của các bên tham gia quan hệ lao động cũng như các thiết chế thực thi quyền
và nghĩa vụ đó trong thực tiễn; quy định cụ thể nội dung, phương thức quản lý
nhà nước về lao động, các biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp
luật lao động của các bên tham gia quan hệ lao động. Đến nay, hệ thống các
văn bản pháp luật về quản lý lao động ở nước ta có thể nói là tương đối đầy
đủ, ở nhiều cấp độ văn bản pháp luật khác nhau. Cụ thể là:
- Hiến pháp năm 1992 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã tạo cơ sở để
xác định các nguyên tắc, nội dung định hướng cơ bản của pháp luật lao động
như: quyền – nghĩa vụ cơ bản của công dân (người lao động và chủ sử dụng
lao động cũng là công dân), quyền - nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh (doanh nghiệp là tổ chức sản xuất, kinh doanh), tổ chức
và hoạt động công đoàn và của tổ chức đại diện người sử dụng lao động
Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định
thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã
hội đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến
khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động
(Điều 56).
- Bộ luật lao động hiện hành điều chỉnh một lĩnh vực rộng lớn có tác
động sâu rộng tới toàn bộ đời sống xã hội, tất cả các thành phần kinh tế, mọi
doanh nghiệp, các tổ chức, cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ và mọi người lao
động. Cùng với Bộ luật lao động, Nhà nước còn ban hành một số luật liên quan
đến lĩnh vực lao động, như Luật Công đoàn năm 1990, Luật Người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006, Luật Bảo hiểm xã
hội năm 2006; Luật Bảo hiểm y tế năm 2008, Luật Dạy nghề năm 2006
- Cụ thể hóa Bộ luật lao động và các đạo luật trên, Chính phủ đã ban
hành hơn 40 Nghị định, các Bộ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tổng liên đoàn
Lao động Việt Nam cũng ban hành hoặc phối hợp ban hành khoảng 100
Thông tư, Thông tư liên tịch quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể việc thi hành
các quy định về pháp luật lao động như Nghị định 39/2003/NĐ-CP ngày
18/4/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao
động về việc làm; Nghị định 139/2006/NĐ-CP ngày 20/11/2006 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động và Luật Giáo dục
về dạy nghề; Nghị định 126/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng;
Người sử dụng lao động thực hiện quyền quản lý lao động của mình
thông qua các hoạt động cơ bản là tuyển chọn, sắp xếp, bố trí lao động; ban
hành nội quy, quy chế, mệnh lệnh, quyết định nhằm bảo đảm việc sắp xếp, bố
trí lao động; tổ chức, điều hành các hoạt động của người lao động; kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ đã giao cho người lao động; xử lý vi
phạm của người lao động… Thông qua các hình thức này, hoạt động quản lý
lao động của người sử dụng lao động có liên quan trực tiếp đến việc tạo lập
môi trường lao động cho người lao động. Các hình thức thực hiện quyền quản
lý lao động của người sử dụng lao động phải thực hiện trên cơ sở quy định
của pháp luật. Trong quá trình quản lý lao động nếu người sử dụng lao động
có hành vi vi phạm pháp luật sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý.
Hoạt động quản lý lao động của Nhà nước được bảo đảm thực hiện
bằng quyền lực nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan quản lý lao động.
Pháp luật lao động hiện hành quy định trách nhiệm, quyền hạn của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý nhà nước về lao động. Theo đó,
Ủy ban quan hệ lao động có chức năng tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về cơ
chế, chính sách, giải pháp xây dựng quan hệ lao động lành mạnh; xây dựng cơ
chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan đến vệc phòng ngừa, giải
quyết tranh chấp lao động, đình công. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực việc làm, dạy nghề, lao
động, tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội, an toàn lao động… trong phạm
vi cả nước theo quy định tại Nghị định 186/2006/NĐ-CP ngày 25/12/2007
của Chính phủ. Công tác quản lý nhà nước về lao động ở địa phương do Ủy
ban nhân dân các cấp thực hiện thực hiện theo quy định của Thông tư liên tịch
số 10/2008/TTLT-LĐTBXH-BNV ngày 10/07/2008 giữa Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội với Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, huyện và nhiệm vụ quản lý nhà nước về lao động của Ủy ban nhân dân
cấp xã. Một đặc điểm đáng chú ý khi đề cập đến cơ quan quản lý lao động, đó
là sự tham gia của tổ chức công đoàn trong công tác quản lý nhà nước về lao
động trong doanh nghiệp và tổ chức đại diện của người lao động là Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh hợp tác xã Việt Nam.
Người sử dụng lao động thực hiện quyền quản lý lao động của mình
thông qua hợp đồng lao động, sổ lao động, hệ thống thang bảng lương, nội
quy, kỷ luật lao động và thỏa ước lao động tập thể và các biện pháp khác. Các
quy định pháp luật hiện hành đã tạo điều kiện và trao quyền cho người lao
động, người sử dụng lao động thỏa thuận những điều kiện lao động thuận lợi
cho người lao động như giảm giờ làm việc trong tuần, tăng số ngày nghỉ hàng
năm, ngày nghỉ vì việc riêng, tiền lương, thưởng hàng tháng, thưởng lương
tháng thứ 13, thưởng từ lợi nhuận của doanh nghiệp; nghỉ học tập, hội họp
đoàn thể tính vào giờ làm việc; hỗ trợ tiền ăn giữa ca, tiền xăng xe, tiền tàu xe
khi nghỉ hàng năm, tiền thuê nhà trọ; gửi lao động đi bồi dưỡng nâng cao trình
độ; mua bảo hiểm thương mại, bảo hiểm nhân thọ cho một số người lao động…
Như vậy, khác với biện pháp quản lý lao động của Nhà nước thông qua
các biện pháp mang tính cưỡng chế nhà nước như xử lý hình sự, xử phạt vi
phạm hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho các bên thỏa thuận xây dựng
quan hệ lao động hài hòa cả ở tầm vĩ và vi mô, thì biện pháp quản lý lao động
của người sử dụng lao động mang tính chất tác động đến hành vi xử sự cụ thể
của người lao động trong quá trình lao động. Các biện pháp tác động quản lý nhà
nước của người sử dụng lao động vừa mang tính cưỡng chế trên cơ sở pháp luật,
vừa mang tính động viên, khuyến khích người lao động trong quá trình lao động.
Quy định về tiêu chuẩn trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động
Tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh lao động là những qui định có tính chất
nghiêm ngặt hay bắt buộc đối với các đơn vị sử dụng lao động. Tiêu chuẩn an
toàn, vệ sinh lao động có hai loại: Một là, tiêu chuẩn cấp nhà nước (áp dụng
cho tất cả các đơn vị sử dụng lao động); hai là, tiêu chuẩn cấp ngành (áp dụng
trong phạm vi ngànhh đó). Tiêu chuẩn cấp nhà nước do Bộ Khoa học Công
nghệ xây dựng và ban hành có sự tham gia của Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội, Bộ Y tế, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Với tư cách là chủ thể
lớn nhất quản lý an toàn, vệ sinh lao động. Nhà nước đã ban hành hệ thống
tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh lao động với trên 150 loại được áp dụng trong
nhiều ngành kinh tế kỹ thuật khác nhau.
Tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh lao động cấp ngànhh do các bộ, cơ quan
ngang bộ có trách nhiệm xây dựng, ban hành, hướng dẫn áp dụng tại các đơn
vị sử dụng lao động trong phạm vi ngànhh đó. Việc ban hành tiêu chuẩn cấp
ngànhh phải có sự tham gia của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế.
Mục đích của việc ban hành tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh lao động cấp ngành là
hạn chế nguy cơ gây tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.