Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Xây dựng pháp luật về phá sản Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.52 KB, 131 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







VÕ XUÂN ĐẠT




XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC












HÀ NỘI - 2011





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






VÕ XUÂN ĐẠT





XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM



Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Thu Thủy

HÀ NỘI - 2011




MỤC LỤC


Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt



MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÂY DỰNG
PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM
9
1.1.
KHÁI NIỆM PHÁ SẢN NHTM
9
1.2.
SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM
17
1.3.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG CÁC
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT ĐẶC THÙ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT
PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM
21
1.3.1.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của các ngân hàng trong việc
duy trì sự ổn định và phát triển của nền tài chính quốc gia
23
1.3.2.
Xuất phát từ sự chi phối lớn của Nhà nước đối với hoạt động
của ngân hàng
27
1.3.3.
Xuất phát từ tính rủi ro cao trong hoạt động của các NHTM
28
1.3.4.
Xuất phát từ tính đặc thù trong việc thanh toán các khoản nợ

của các NHTM
30
1.3.5.
Xuất phát từ tính đặc thù về chủ nợ và con nợ trong hoạt động
của NHTM
32
1.4.
NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM
33

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
36



Chương 2: GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN NHTM THEO QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM
37
2.1.
ĐIỀU KIỆN XÁC ĐỊNH NHTM LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN
37
2.2.
THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN NHTM
38
2.3.
NHỮNG NGƢỜI CÓ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ TRONG VIỆC NỘP
ĐƠN YÊU CẦU MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN
39

2.4.
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN NHTM
43
2.4.1.
Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
43
2.4.2.
Mở thủ tục phá sản
45
2.4.3.
Hội nghị chủ nợ
50
2.4.4.
Phục hồi hoạt động kinh doanh
52
2.4.5.
Thanh lý tài sản
58
2.4.6.
Ra quyết định tuyên bố NHTM bị phá sản
64
2.5.
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN NHTM TRONG TRƢỜNG HỢP
ĐẶC BIỆT
65
2.6.
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG, HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM
68


KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
70

Chương 3: KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN
THẾ GIỚI TRONG VIỆC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ
PHÁ SẢN NHTM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM XÂY
DƢNG, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN
NHTM Ở VIỆT NAM
71
3.1.
KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI TRONG
VIỆC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM
71


3.1.1.
Kinh nghiệm của Hòa Kỳ
71
3.1.2.
Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Nga
75
3.1.3.
Kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp
79
3.1.4.
Kinh nghiệm của Cộng hòa Armenia
81
3.2.
MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU PHÁP
LUẬT CÁC NƢỚC VỀ GIẢI QUYẾT NHTM LÂM VÀO TÌNH

TRẠNG PHÁ SẢN
90
3.2.1.
Mô hình pháp luật điều chỉnh đối với việc giải quyết phá sản
NHTM là không giống nhau
91
3.2.2.
Tính chất của thủ tục giải quyết phá sản NHTM ở các quốc gia
là khác nhau
92
3.2.3.
Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản NHTM được quy
định chặt chẽ hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác
92
3.2.4.
Thủ tục phục hồi NHTM lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh toán được tiến hành sớm; việc Tòa án mở thủ tục phá sản
thường đồng nghĩa với việc mở thủ tục thanh lý tài sản của
NHTM đó
93
3.2.5.
Pháp luật các nước chú trọng đến việc bảo vệ quyền lợi của
người gửi tiền khi NHTM bị phá sản
94
3.2.6.
Pháp luật các nước quy định vai trò can thiệp, hỗ trợ mạnh mẽ
của cơ quan quản lý hoạt động của NHTM và tổ chức BHTG
vào quá trình giải quyết phá sản các NHTM
95
3.3.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM
96
3.3.1.
Phương hướng xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phá sản
NHTM ở Việt Nam
96
3.3.1.1.
Bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật khi
xử lý NHTM lâm vào tình trạng phá sản
98


3.3.1.2.
Việc giải quyết phá sản NHTM cần được tiến hành một cách
thận trọng đồng thời đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và
kinh tế - xã hội của đất nước
98
3.3.1.3.
Việc giải quyết phá sản NHTM cần tạo cơ chế đặc biệt bảo vệ
quyền lợi của người gửi tiền
99
3.3.1.4.
Việc xử lý phá sản NHTM cần được tiến hành một cách hiệu
quả và nhanh chóng
101
3.3.2.
Một số kiến nghị cụ thể
102
3.3.2.1.

Về thủ tục phá sản
102
3.3.2.2.
Về trách nhiệm thông báo TCTD lâm vào tình trạng phá sản
106
3.3.2.3.
Về những người có quyền và nghĩa vụ trong việc nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản
108
3.3.2.4.
Về hoạt động kinh doanh của TCTD sau khi có quyết định mở
thủ tục phá sản
110
3.3.2.5
Sửa đổi quy đinh về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời
112
3.3.2.6.
Sửa đổi bổ sung các loại tài sản của NHTM
112
3.3.2.7.
Cần quy định đầy đủ hơn về việc xử lý các khoản nợ của khách
hàng đối với NHTM
114
3.3.2.8.
Cần hướng dẫn cụ thể về thủ tục kiểm kê tài sản của NHTM
116

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
119


KẾT LUẬN
120

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
122







DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHTG
:
Bảo hiểm tiền gửi
FDIC
:
Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang
NHNN
:
Ngân hàng nhà nước
NHTM
:
Ngân hàng thương mại
TCTD
:
Tổ chức tín dụng














1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Phá sản là một hiện tượng khách quan và tất yếu trong quy luật phát
triển của nền kinh tế thị trường, kinh tế thị trường càng phát triển thì phá sản
càng phổ biến. Phá sản vừa là hiện tượng tích cực vừa là hiện tượng tiêu cực
bởi vì phá sản là hiện tượng và xu hướng tất yếu của quá trình cạnh tranh,
chọn lọc tự nhiên nhằm loại trừ những doanh nghiệp yếu kém, kìm hãm sự
phát triển nền kinh tế, góp phần cơ cấu lại nền kinh tế. Mặt khác phá sản
doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng kéo
theo những hậu quả về kinh tế xã hội nhất định, đặc biệt làm cho người lao
động mất việc làm, gây ra sự mất ổn định của nền kinh tế - xã hội
Ngành ngân hàng đang đứng trước những áp lực cạnh tranh ngày càng
lớn từ các cam kết mở cửa thị trường tài chính - ngân hàng sau khi Việt Nam
đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Mặc dù
cho đến thời điểm này Việt Nam chưa có một ngân hàng nào phải thực hiện
các thủ tục phá sản, nhưng trên thế giới đã có một số ngân hàng lớn lâm vào

tình trạng phá sản và phải áp dụng thủ tục giải quyết phá sản đối với những
ngân hàng này, cho nên trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới, với
nhiều ảnh hưởng từ các nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến sự phá
sản các NHTM ở Việt Nam là một hiện tượng có thể xẩy ra trong tương lai.
Trên thế giới đối với các ngân hàng mất khả năng thanh toán, lâm vào tình
trạng phá sản, pháp luật các nước đều có những quy định riêng biệt áp dụng
để giải quyết các ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản. Đối với Việt Nam,
Luật Phá sản doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30 tháng 12 năm 1993, có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01 tháng 07 năm 1994 là văn bản luật đầu tiên điều chỉnh toàn diện
về phá sản doanh nghiệp. Tiếp đó Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

2
Việt Nam đã ban hành Luật Phá sản số 21/2004/QH11 ngày 15 tháng 06 năm
2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2004 thay thế Luật Phá
sản doanh nghiệp năm 1993 (sau đây gọi chung là Luật Phá sản năm 2004) đã
tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp dụng thủ tục phá sản đối với các
doanh nghiệp, hợp tác xã nói chung, các NHTM nói riêng. Sự ra đời của Luật
Phá sản năm 2004 đã góp phần quan trọng trong việc hình thành một cơ chế
pháp lý đồng bộ cho hoạt động xử lý nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ và con nợ, bảo đảm trật tự, kỷ cương
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, làm cho môi
trường kinh doanh trở nên lành mạnh hơn.
Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp, hợp tác xã ra
đời, tồn tại và hoạt động sản xuất, kinh doanh nhiều ngành nghề và lĩnh vực
khác nhau, do đó vị thế của các doanh nghiệp, hợp tác xã trong nền kinh tế
cũng có sự khác nhau. Đối với những doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh
những ngành nghề đặc thù có ảnh hưởng rất lớn tới những lĩnh vực quan
trọng của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước như lĩnh vực quốc phòng, an
ninh, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm , đòi hỏi Nhà nước cần phải có những

quy định pháp luật đặc thù để xử lý các doanh nghiệp, hợp tác xã này khi lâm
vào tình trạng phá sản, chứ không thể áp dụng những quy định chung về giải
quyết phá sản các doanh nghiệp thông thường khác. Khoản 2 Điều 2 Luật Phá
sản năm 2004 quy định: “Chính phủ quy định cụ thể danh mục và việc áp
dụng Luật này đối với doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng,
an ninh; doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực khác thường xuyên, trực tiếp cung ứng
sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu”. Với quy định này, Chính phủ có thẩm
quyền, trách nhiệm cụ thể hóa việc áp dụng Luật Phá sản đối với các doanh
nghiệp đặc thù, trong đó có các tổ chức tín dụng (TCTD). Tùy thuộc vào tính
chất, đặc điểm, lĩnh vực hoạt động, ảnh hưởng đối với kinh tế, xã hội của các

3
doanh nghiệp đó mà việc phá sản các doanh nghiệp này có những khác biệt so
với quy trình phá sản các doanh nghiệp thông thường khác. Hơn nữa, có thực
tế là mặc dù cùng thuộc nhóm các doanh nghiệp đặc biệt (an ninh, quốc
phòng, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…), song do tính chất hoạt động, lĩnh
vực hoạt động, ảnh hưởng đối với kinh tế, xã hội mà việc phá sản của những
doanh nghiệp thuộc nhóm đặc biệt này cũng không giống nhau. Dưới góc độ
này, việc phá sản các TCTD đòi hỏi cần có quy trình phá sản đặc biệt để bảo
đảm được quyền lợi của công chúng, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Luật Phá sản năm 2004, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 05/2010/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2010, có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 03 năm 2010, quy định việc áp dụng
Luật Phá sản đối với các TCTD (sau đây gọi chung là Nghị định số
05/2010/NĐ-CP). Sự ra đời của Nghị định số 05/2010/NĐ-CP là một bước
đột phá mới trong lĩnh vực xây dựng pháp luật nước ta, điều này thể hiện sự
nhận thức về tầm quan trọng và những điểm đặc thù về tổ chức và hoạt động
của TCTD nói chung và NHTM nói riêng phải được tính đến khi đặt vấn đề
giải quyết phá sản loại hình tổ chức này.

Việc giải quyết phá sản các NHTM cần phải có những quy định đặc thù
về trình tự, thủ tục, xuất phát từ tổ chức và hoạt động của loại hình doanh
nghiệp này cũng như những ảnh hưởng của việc giải quyết phá sản loại hình
doanh nghiệp này mang lại đối với nền kinh tế - xã hội. Do đó chúng ta cần
phải có những nghiên cứu chuyên sâu để xây dựng và hoàn thiện các quy định
của pháp luật liên quan đến việc giải quyết phá sản loại hình doanh nghiệp
này là một vấn đề hết sức cần thiết và có tính thực tiễn. Chính vì vậy, tôi
quyết định chọn đề tài “Xây dựng pháp luật về phá sản ngân hàng thương
mại ở Việt Nam” làm Luận văn Thạc sĩ luật học của mình. Về phương diện lý
luận và thực tiễn nó sẽ góp phần tốt hơn trong quá trình giải quyết những vấn
đề cấp thiết nêu trên.

4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề phá sản đang thực sự là một chủ đề thu hút sự chú ý và nghiên
cứu của nhiều luật gia và các nhà nghiên cứu khoa học khác ở Việt Nam.
Trong những năm gần đây cùng với những áp lực đặt ra trong việc xây dựng
và hoàn thiện khung pháp luật của một nền kinh tế chuyển đổi, đặc biệt là
trong xu thế hội nhập quốc tế thì các hoạt động nghiên cứu về pháp luật phá
sản đã có thêm nhiều công trình được thực hiện dưới nhiều hình thức, với
nhiều cấp độ khác nhau. Trong đó, có công trình nghiên cứu toàn diện các vấn
đề liên quan đến pháp luật phá sản, nhưng cũng có công trình chỉ nghiên cứu
một khía cạnh nhất định liên quan đến pháp luật phá sản. Liên quan đến việc
nghiên cứu chủ đề này có thể kể đến các công trình nghiên cứu như: Báo cáo
phúc trình Đề tài “Đánh giá thực trạng, thực hiện nghiên cứu, phân tích để
khuyến nghị hoàn thiện Luật Phá sản doanh nghiệp và các quy định pháp luật
có liên quan”, Dự án VIE/98-001 năm 2002; công trình nghiên cứu khoa học
cấp Bộ của TS. Nguyễn Văn Dũng về “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp
dụng các quy định của Luật phá sản về thủ tục phá sản” năm 2004; công
trình nghiên cứu “Pháp luật phá sản của Việt Nam” của PGS-TS. Dương

Đăng Huệ, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2005 Ngoài ra, nghiên cứu dưới các
khía cạnh khác nhau của pháp luật phá sản có thể kể đến một số bài viết, công
trình nghiên cứu của một số tác giã đã được đăng trên các tạp chí như: “Một
số vấn đề về thực tiễn phá sản doanh nghiệp”, của tác giả Trần Khắc Hoàng
đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 6/2002; “Về thực trạng pháp luật phá
sản Việt Nam hiện nay”, của TS. Dương Đăng Huệ đăng trên Tạp chí Nhà
nước và pháp luật số 1/2003; “Tài sản phá sản và phân chia tài sản của con
nợ bị phá sản”, của tác giả Hà Thị Thanh Bình đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp số 5/2003 hay “Đặc điểm của Quy chế xác định tài sản doanh
nghiệp phá sản của Việt Nam và những đề xuất sửa đổi” của tác giả Trương
Hồng Hải, đăng trên Tạp chí Luật học số 1/2004;

5
Đối với vấn đề nghiên cứu pháp luật về giải quyết phá sản đối với
TCTD, có thể kể đến một số công trình như: “Định hướng xây dựng pháp luật
phá sản các TCTD”, của tác giả Nguyễn Văn Vân đăng trên Tạp chí Khoa
học pháp lý số 8/2002; “Một số vấn đề về áp dụng Luật Phá sản năm 2004
đối với các TCTD”, của tác giả Viên Thế Giang đăng trên Tạp chí Ngân hàng
số 2/2005; Khóa luận tốt nghiệp “Áp dụng pháp luật về phá sản doanh nghiệp
đối với TCTD” của Đặng Thanh Bình, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
Luận văn Thạc sĩ luật học “Những quy định đặc thù trong việc giải quyết phá
sản TCTD” của Cao Đăng Vinh, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm
2009 Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên được thực hiện trước khi
Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2010/NĐ-CP.
Nhìn chung, chủ đề nghiên cứu về những đặc thù trong việc giải quyết
phá sản đối với TCTD nói chung và NHTM nói riêng vẫn chưa được nhiều
nhà khoa học pháp lý và những người làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên
cứu một cách toàn diện và sâu sắc. Kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định
số 05/2010/NĐ-CP quy định việc áp dụng Luật Phá sản đối với các TCTD
cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về văn

bản pháp luật này cũng như các vấn đề có liên quan đến việc giải quyết phá
sản các TCTD. Mặc dù Nghị định 05/2010/NĐ-CP đã được Chính phủ ban
hành, nhưng nhiều vấn đề xung quanh việc giải quyết phá sản các TCTD nói
chung và NHTM nói riêng còn chưa được làm rõ, và có phương án xử lý phù
hợp. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu các nội dung liên quan đến pháp
luật quy định về việc giải quyết phá sản NHTM nhằm phân tích một cách đầy
đủ và toàn diện về những đặc thù trong việc giải quyết phá sản đối với loại
hình doanh nghiệp này để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về phá sản TCTD nói chung và NHTM nói riêng là cần
thiết và có ý nghĩa thực tiễn.

6
3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu những quy định hiện hành của
pháp luật Việt Nam liên quan đến giải quyết phá sản TCTD nói chung và
NHTM nói riêng; ngoài ra, tác giả còn nghiên cứu những quy định của pháp
luật một số nước trên thế giới về phá sản NHTM.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu pháp luật về phá sản NHTM ở Việt
Nam có thể nói là một chủ đề khá rộng, có nhiều khía cạnh liên quan đến chủ
đề này cần được nghiên cứu làm sáng tỏ. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài này tác giả không có tham vọng nghiên cứu hết tất cả các vấn đề
xung quanh các quy định pháp luật về giải quyết phá sản NHTM mà chỉ tập
trung vào việc nghiên cứu, phân tích một số nội dung chủ yếu của các quy
định pháp luật Việt Nam liên quan đến việc giải quyết phá sản NHTM như
thẩm quyền giải quyết phá sản, những người có quyền nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản và thủ tục giải quyết phá sản NHTM…; phân tích tổng quát
các quy định pháp luật của một số nước về vấn đề giải quyết phá sản NHTM.
- Mục đích nghiên cứu: trên cơ sở đối tượng và phạm vi nghiên cứu của
đề tài này tác giả muốn làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau: làm rõ khái
niệm phá sản NHTM; sự cần thiết phải xây dựng pháp luật về phá sản

NHTM; cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy định pháp luật về phá sản
NHTM; nội dung của pháp luật về phá sản NHTM; nghiên cứu, phân tích một
số nội dung cơ bản của các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về
giải quyết phá sản NHTM như điều kiện xác định NHTM lâm vào tình trạng
phá sản, thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, những người có
quyền và nghĩa vụ trong việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, thủ tục giải
quyết phá sản NHTM; tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
trong việc xây dựng pháp luật về phá sản NHTM. Trên cơ sở đó, Luận văn sẽ
đưa ra một số kiến nghị nhằm xây dựng, hoàn thiện những quy định đặc thù
trong thủ tục giải quyết phá sản NHTM ở Việt Nam.

7
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, kết hợp với việc vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
Các phương pháp cụ thể được tác giả vận dụng khi thực hiện đề tài này
là phương pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh và đặc biệt là phương pháp
luật học so sánh. Tác giả đã dùng phương pháp so sánh để so sánh các quy
định pháp luật phá sản của một số nước trên thế giới với mục đích tìm ra
những mô hình pháp lý điển hình áp dụng cho việc giải quyết NHTM lâm vào
tình trạng phá sản; bên cạnh đó tác giả còn dùng phương pháp so sánh để so
sánh các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết phá sản
NHTM so với các quy định pháp luật về vấn đề này ở một số nước trên thế
giới. Trong Luận văn này tác giả cũng tiến hành phân tích và tổng hợp các
quy định trong các văn bản pháp luật Việt Nam về phá sản cũng như các văn
bản pháp luật có liên quan để đánh giá thực trạng, rút ra những hạn chế trong
các quy định của pháp luật liên quan đến việc giải quyết NHTM lâm vào tình
trạng phá sản. Trên cơ sở phân tích, so sánh, tổng hợp tác giả đưa ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam.

5. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và tương
đối toàn diện pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam. Về cơ bản, Luận văn
này đã có những đóng góp mới quan trọng sau:
- Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
xây dựng các quy định pháp luật đặc thù trong việc giải quyết các NHTM ở
Việt Nam lâm vào tình trạng phá sản;
- Nghiên cứu, phân tích sự cần thiết của việc ban hành các quy định
pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam;

8
- Trình bày và phân tích một cách khoa học những quy phạm pháp luật
thực định liên quan đến giải quyết phá sản TCTD nói chung, NHTM nói riêng
ở Việt Nam. Thông qua việc đánh giá, phân tích này góp một cách nhìn có
tính chất khái quát, toàn diện về những điểm đã đạt được và những hạn chế,
thiếu sót cần phải sửa đổi bổ sung trong các quy định pháp luật quy định về
thủ tục giải quyết phá sản NHTM ở Việt Nam, trên cơ sở đó kiến nghị
phương hướng, giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phá sản NHTM
ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về giải quyết phá
sản NHTM. Những kiến nghị đưa ra trong luận văn là một tài liệu tham khảo
có ý nghĩa trong việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phá sản NHTM ở
Việt Nam. Ngoài ra Luận văn còn có giá trị là tư liệu tốt cho sinh viên cũng
như những người say mê nghiên cứu khoa học pháp lý tham khảo khi nghiên
cứu những vấn đề liên quan đến đề tài này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội
dung luận văn gồm ba chương:

Chương 1: Một số vấn đề chung về xây dựng pháp luật về phá sản
NHTM.
Chương 2: Giải quyết phá sản NHTM theo quy định của pháp luật Việt
Nam và những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về
phá sản NHTM ở Việt Nam.
Chương 3: Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc xây
dựng pháp luật về phá sản NHTM và một số kiến nghị nhằm xây dựng, hoàn
thiện pháp luật về phá sản NHTM ở Việt Nam.

9
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ
PHÁ SẢN NHTM Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM PHÁ SẢN NHTM
Phá sản không còn là một khái niệm xa lạ trên thế giới cũng như ở Việt
Nam nữa bởi hiện nay phá sản đang ngày càng trở thành một hiện tượng phổ
biến, đó là hệ quả tất yếu của quy luật cạnh tranh, nhất là trong thời đại mới
khi cả thế giới đang từng bước hòa vào xu thế chung “khu vực hóa, toàn cầu
hóa”.
Danh từ phá sản bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng La tinh, có nghĩa
là “sự khánh tận”. Khái niệm này dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu
và chi của một doanh nghiệp mà biểu hiện trực tiếp của sự mất cân đối ấy là
tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Trong thuật ngữ tiếng Anh, phá sản là “Bankruptcy”, trong từ điển
Tiếng Việt thì “phá sản là tình trạng tài sản chẳng còn gì, và thường là vỡ
nợ, do kinh doanh thua lỗ, thất bại” [23, trang 25]. Trong tiếng Việt, vỡ nợ,
khánh tận, mất khả năng thanh toán hay phá sản được dùng để chỉ tình trạng
không trả được nợ. Phương cách giải quyết vỡ nợ gắn liền với cách hành xử
của người Việt về may rủi, “sa cơ lỡ vận” và cùng đường không trả được nợ.
Theo định nghĩa của luật phá sản nhiều nước trên thế giới hiện nay thì

phá sản là tình trạng doanh nghiệp (pháp nhân hay thể nhân) không có khả
năng nộp thuế, không thanh toán công nợ đến hạn trong thời gian quy định.
Tuy nhiên khái niệm phá sản hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và theo pháp
luật của mỗi quốc gia khái niệm phá sản cũng được hiểu khác nhau, chưa đi
đến thống nhất được thành một khái niệm chung nhất.
Ở Việt Nam thuật ngữ phá sản xuất hiện khá sớm, ban đầu Bộ luật
thương mại Sài Gòn (1972) sử dụng thuật ngữ “khánh tận”. Như đã nói ở

10
trên, cụm từ này bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng La tinh, khái niệm này
dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi.
Đến năm 1990 thuật ngữ “phá sản” lần đầu tiên được ghi nhận trong
Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty: Công ty, Doanh nghiệp tư nhân
gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh đến mức tại một
thời điểm tổng số trị giá các tài sản còn lại của doanh nghiệp không đủ thanh
toán tổng số các khoản nợ đến hạn, là doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng
phá sản [13, Điều 17] - [ 14, Điều 24].
Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 ra đời ngày 30 tháng 12 năm
1993 quy định: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp
gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh, sau khi đã áp dụng
các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn” [15, Điều 2]. Khái niệm này được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số
189/1994/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 1994 hướng dẫn thi hành Luật Phá
sản doanh nghiệp năm 1993. Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định số
189/1994/NĐ-CP thì doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản khi: thua lỗ
trong 2 năm liên tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, không
trả đủ lương cho người lao động theo thỏa ước lao động và hợp đồng lao động
trong 3 tháng liên tiếp. Điều đó có nghĩa là tình trạng khó khăn về tài chính,
mất khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp không còn là tình trạng nhất
thời nữa.

Sau 10 năm thực hiện Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 đã thể hiện
những bất cập mà vấn đề đầu tiên đó là điều kiện xác định tình trạng phá sản
của doanh nghiệp như trên là rất phức tạp, gây nhiều khó khăn cho việc mở
thủ tục phá sản. Trên thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp thua lỗ trong hai
năm liên tiếp, trong thời gian đó doanh nghiệp đã phải huy động mọi khả
năng về tài chính, áp dụng các biện pháp cần thiết để phục hồi, vì vậy khi mở

11
thủ tục giải quyết phá sản thì tài sản của doanh nghiệp không còn gì, thậm chí
còn không đủ tiền để thanh toán các chi phí cần thiết cho thủ tục giải quyết
phá sản. Với tình trạng này, việc mở thủ tục giải quyết phá sản đối với doanh
nghiệp gần như chỉ còn là để thanh lý chứ không phải là để phục hồi
doanh nghiệp.
Nhằm khắc phục những hạn chế của Luật Phá sản doanh nghiệp năm
1993 ngày 25 tháng 12 năm 2004 Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 10 đã ban
hành Luật Phá sản 2004 (sau đây gọi chung là Luật Phá sản năm 2004), theo
Điều 3 của luật này quy định: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng
thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu thì coi là lâm vào
tình trạng phá sản”. Như vậy, tiêu chí để xác định doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản đã được quy định đơn giản hơn trước, dễ thực hiện vì không căn
cứ vào thời gian thua lỗ, nguyên nhân của tình trạng thua lỗ, tạo điều kiện cho
việc sớm mở thủ tục phá sản, cũng như tạo khả năng phục hồi cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, điều này có ý nghĩa quan
trọng, bởi nếu xác định tình trạng này muộn sẽ có rất ít cơ hội thành công, cho
dù đó là thủ tục thanh toán hay thủ tục phục hồi.
Cũng như các văn bản pháp luật trước đó Luật Phá sản năm 2004 cũng
không đưa ra định nghĩa thế nào là phá sản mà chỉ đưa ra khái niệm doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Chúng ta cũng thấy rằng không
phải bất cứ doanh nghiệp, hợp tác xã nào lâm vào tình trạng phá sản cũng đều
dẫn tới sự phá sản, cho dù phá sản là một hiện tượng tất yếu của nền kinh tế

thị trường, nó không phải là một đặc trưng riêng của bất kỳ nền kinh tế nào.
Tuy nhiên, không phải bao giờ và ở đâu tình trạng phá sản cũng như nhau,
nhưng quy luật chung là ở đâu cạnh tranh càng trở nên gay gắt và sâu sắc thì
ở đó phá sản cũng sẽ ngày càng phổ biến và nghiêm trọng hơn.

12
Nguyên nhân dẫn đến phá sản hết sức đa dạng, đó có thể là do sự yếu
kém về năng lực tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh; là do sự vi
phạm chế độ, thể lệ quản lý; là do sự thiếu khả năng thích ứng với những biến
động trên thị trường; ngoài ra, còn có nguyên nhân khách quan là do sự bất
trắc và biến động khách quan trên thị trường cũng có thể gây ra tình trạng mất
khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Phá sản là một hiện tượng tất yếu, khách quan của nền kinh tế thị
trường. Ở những mức độ và phạm vi khác nhau, phá sản luôn kéo theo những
hậu quả kinh tế, xã hội nhất định. Phá sản gây ảnh hưởng rất nhiều mặt tới đời
sống kinh tế, xã hội mà trực tiếp là ảnh hưởng tới lợi ích của các chủ nợ và
những người làm công. Hậu quả đáng lưu ý nhất gắn liền với phá sản là vấn
đề việc làm và thu nhập của người lao động. Chính vì vậy đây luôn là một
trong những vấn đề thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về phá sản.
Bằng những quy định cụ thể, pháp luật về phá sản xác định cơ sở pháp lý cho
việc bảo vệ lợi ích hợp pháp và hạn chế những thiệt thòi vật chất mà sự phá
sản có thể gây ra cho người lao động.
Phá sản ngoài những tác động tiêu cực tới đời sống kinh tế - xã hội thì
nó còn có những ý nghĩa tích cực. Xét về mặt kinh tế, bản thân nó là một giải
pháp rất hữu hiệu trong việc “cơ cấu lại” nền kinh tế, góp phần hình thành và
duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp đủ sức đứng vững trong điều kiện
cạnh tranh ngày càng nghiệt ngã. Chính vì vậy chúng ta cũng không nên có
thành kiến coi phá sản như là một “thảm họa”, một hiện tượng chỉ thuần túy
đưa lại những hậu quả tiêu cực, những xáo trộn trong đời sống kinh tế - xã hội
mà hãy coi đó là cơ hội để cho các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả rút ra

khỏi thương trường một cách có trật tự.
Như vậy phá sản là hiện tượng bình thường và cần thiết của nền kinh tế
thị trường, còn pháp luật phá sản là sự can thiệp có ý thức của Nhà nước vào

13
hiện tượng này nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác
những mặt tích cực của nó. Thông qua pháp luật phá sản, Nhà nước có thể can
thiệp vào quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó đảm
bảo được sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, xã hội.
Pháp luật phá sản một số nước trên thế giới có đối tượng điều chỉnh
tương đối rộng, theo đó bất kỳ pháp nhân hay thể nhân nếu lâm vào tình trạng
mất khả năng thanh toán đều thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Phá sản.
Nhưng ở Việt Nam Luật Phá sản năm 2004 đối tượng thuộc phạm vi điều
chỉnh chỉ là các doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập
và hoạt động theo quy định của pháp luật, nếu những đối tượng này lâm vào
tình trạng phá sản. Đối với các doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc
phòng, an ninh; doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực khác thường xuyên, trực tiếp cung
ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu thì việc áp dụng thủ tục phá sản do
Chính phủ quy định cụ thể. Sỡ dĩ Luật Phá sản năm 2004 quy định như vậy vì
đây là những lĩnh vực đặc thù, các doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong
lĩnh vực này có ảnh hưởng rất lớn tới nhiều nghành, nhiều lĩnh vực khác và
đặc biệt nó có thể gây ảnh hưởng tới sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Thực hiện quy định trên của Luật Phá sản năm 2004 Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11 tháng 07 năm 2006 để
hướng dẫn việc áp dụng Luật Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ
chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản; tiếp đến Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày 03 tháng 11 năm 2008, hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Phá sản đối với doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính khác; cho đến thời

điểm này Chính phủ đã ban hành được Nghị định số 05/2010/NĐ-CP quy
định việc áp dụng Luật Phá sản đối với các TCTD.

14
Cũng như Luật Phá sản năm 2004, Nghị định số 05/2010/NĐ-CP
không đưa ra khái niệm thế nào là phá sản TCTD mà chỉ quy định về điều
kiện để xác định TCTD lâm vào tình trạng phá sản theo đó thì: “TCTD không
có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu, sau khi
Ngân hàng nhà nước (NHNN) Việt Nam đã có văn bản không áp dụng hoặc
chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán hoặc chấm
dứt áp dụng kiểm soát đặc biệt thì được coi là lâm vào tình trạng phá sản”[6,
Điều4]. Cho đến nay tác giả cũng chưa thấy một văn bản pháp luật hay một
công trình nghiên cứu nào ở Việt Nam đưa ra khái niệm phá sản NHTM nói
chung và TCTD nói riêng. Việc xây dựng khái niệm phá sản NHTM như thế
nào là một vấn đề cần được nghiên cứu kỹ lưỡng. Theo chúng tôi khái niệm
phá sản NHTM là một khái niệm không thể đồng nhất với khái niệm phá sản
các doanh nghiệp thông thường khác vì NHTM có những đặc thù riêng trong
tổ chức và hoạt động của mình. Sự không đồng nhất giữa khái niệm phá sản
doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng thể hiện ở chỗ:
- Thứ nhất: Đối với các NHTM hiệu quả kinh doanh không hoàn toàn
là yếu tố duy nhất quyết định tình trạng khả năng thanh toán của nó. Không
loại trừ những ngân hàng lớn hoạt động có lãi liên tục qua các năm cũng có
thể bị lâm vào tình trạng tạm thời mất khả năng thanh toán và có thể dẫn đến
phá sản. Không thanh toán những khoản nợ đến hạn có thể có nhiều lý do, ví
dụ: Thua lỗ, ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ quốc tế, khu vực
hoặc đơn giản có khi chỉ là những tin đồn nhảm làm cho người gửi tiền nao
núng bất an và họ đồng loạt đến rút tiền mà ngân hàng không đáp ứng được
hoặc tài sản hiện có của NHTM không có tính thanh khoản cao như các tài
sản thế chấp là bất động sản hoặc ngân hàng dùng vốn ngắn hạn, không kỳ
hạn đầu tư vào những khoản tín dụng dài hạn vượt quá tỷ lệ cho phép


15
- Thứ hai: Hiểu khái niệm mất khả năng thanh toán là tình trạng khi
tổng giá trị các khoản nợ lớn hơn tổng giá trị của các tài sản có là chưa chính
xác, ít nhất là đối với các NHTM. NHTM có hoạt động kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ, vốn tự có của NHTM rất nhỏ so với vốn huy động. Theo chúng tôi
mất khả năng thanh toán chỉ là tình trạng NHTM không chi trả được các
khoản nợ khi đến hạn, tức là ở thời điểm bất kỳ, khi khoản nợ đến hạn ngân
hàng không có tiền để chi trả tức là mất khả năng thanh toán. Hầu hết các
khoản nợ mà NHTM phải thanh toán đều là các khoản tiền (tiền gửi, các
khoản vay, các giấy tờ có giá như kỳ phiếu, tín phiếu, séc, hối phiếu đã chấp
nhận ). Đây là các loại nghĩa vụ tiền tệ, NHTM không thể gán nợ, trừ nợ
bằng các tài sản khác nếu không có sự đồng ý của chủ nợ. Vì vậy, khác với
các doanh nghiệp khác, đối tượng của nghĩa vụ thanh toán của các NHTM là
các khoản tiền mà không thể là các tài sản khác.
- Thứ ba: Thời hạn ngưng thanh toán của con nợ của các NHTM cần
thiết phải rút ngắn hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Trong thực tế
hoạt động ngân hàng là đi vay để cho vay, nếu một ngân hàng nào đó trì hoãn
hoặc ngưng việc thanh toán các nghĩa vụ tiền tệ chỉ hai hay ba ngày cho một
vài chủ nợ nào đó ngay tức khắc sẽ xuất hiện những nghi ngờ, tâm lý bất an
cho những người gửi tiền, đặc biệt là những người gửi tiền không kỳ hạn, họ
sẽ ồ ạt đến rút tiền, tạo một cơn sốt gây nhiều hậu quả bất lợi cho hệ thống
ngân hàng cũng như cho nền kinh tế nói chung.
Mặt khác, theo pháp luật Việt Nam hiện hành không một cá nhân, cơ
quan, tổ chức nào trừ Toà án được quyền tuyên bố một doanh nghiệp nào đó
lâm vào tình trạng phá sản. Chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền này.
Chính vì vậy, khái niệm phá sản NHTM có thể được hiểu như sau:
“Phá sản NHTM là tình trạng một NHTM không có khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu, sau khi NHNN Việt Nam đã có văn


16
bản chấm dứt áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt và bị Toà án căn cứ theo
các quy định của pháp luật ra quyết định chấm dứt hoạt động kinh doanh và
thanh lý tài sản của NHTM đó”. Biện pháp kiểm soát đặc biệt là việc một
TCTD bị đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của NHNN do có nguy cơ mất khả
năng chi trả, mất khả năng thanh toán [22, Điều 146].
* Phân biệt phá sản NHTM với giải thể NHTM
Nếu chỉ xét về mặt hiện tượng thì phá sản NHTM và giải thể NHTM
không có gì khác nhau, bởi vì nó đều dẫn đến việc chấm dứt sự tồn tại của
loại hình doanh nghiệp này và phân chia tài sản còn lại cho các chủ nợ, giải
quyết quyền lợi của người lao động. Tuy nhiên, về bản chất đây là hai thủ tục
được quy định bởi hai chế độ pháp lý rất khác nhau.
Thứ nhất, lý do dẫn tới NHTM giải thể rất rộng so với lý do dẫn tới
NHTM phá sản. Một NHTM có thể chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh
của mình (giải thể NHTM) do nhiều nguyên nhân như khi thấy mục tiêu đề ra
không thể đạt được hoặc đã hoàn toàn xong mục tiêu đó, hoặc việc tiếp tục
kinh doanh không còn cần thiết nữa hay bị thu hồi giấy phép hoạt động do vi
phạm nghiêm trọng pháp luật thì việc phá sản NHTM chỉ có thể do một
nguyên nhân duy nhất gây ra, đó là sự mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Thứ hai, khác nhau về thẩm quyền quyết định, nếu như việc giải thể
NHTM là do những người chủ NHTM đó tự mình quyết định hoặc do cơ quan
có thẩm quyền cho phép thành lập quyết định thì việc tuyên bố phá sản
NHTM lại thuộc thẩm quyền của một cơ quan nhà nước duy nhất đó là
Tòa án.
Thứ ba, khác nhau về mặt trình tự, thủ tục tiến hành giải thể NHTM
thường là một thủ tục hành chính, còn thủ tục giải quyết phá sản là một thủ
tục thuần túy tư pháp, do Tòa án tiến hành theo những quy định chặt chẽ của
pháp luật phá sản.

17

Thứ tư, việc áp dụng thủ tục giải thể NHTM bao giờ cũng dẫn đến việc
chấm dứt hoạt động và xóa tên NHTM, trong khi đó việc áp dụng thủ tục phá
sản không bao giờ cũng dẫn đến một kết quả duy nhất như vậy mà có thể
NHTM đó vẫn tồn tại và hoạt động.
Thứ năm, thái độ của Nhà nước đối với chủ sở hữu hay người điều
hành NHTM trong hai trường hợp trên cũng khác nhau. Pháp luật về phá sản
doanh nghiệp của Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới trong một số
trường hợp quy định cấm hoặc hạn chế chủ sở hữu hay người điều hành
NHTM không được hành nghề trong một thời gian nhất định, còn trong
trường hợp giải thể NHTM vấn đề hạn chế quyền tự do kinh doanh này không
được đặt ra.
Như vậy khi xét về bản chất của hai thủ tục này ta thấy đây là những
vấn đề rất khác nhau, được điều chỉnh bởi hai chế định pháp lý khác nhau.
Việc phân biệt hai thủ tục này cũng giúp cho các cơ quan có thẩm quyền của
nhà nước và các NHTM có sự lựa chọn đúng đắn trong việc áp dụng các thủ
tục này khi rơi vào tình trạng khó khăn, thua lỗ trong kinh doanh.
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN NHTM
Phá sản doanh nghiệp là một hệ quả tất yếu của nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường với môi trường tự do kinh doanh và cạnh tranh
gay gắt giữa các doanh nghiệp thì hiện tượng phá sản các doanh nghiệp càng
trở nên phổ biến hơn. Chính vì vậy, pháp luật về phá sản doanh nghiệp nói
chung và phá sản NHTM nói riêng ngày càng có một vị trí quan trọng trong
lĩnh vực pháp luật kinh tế, là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong cơ
chế thị trường. Việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về phá
sản NHTM ở Việt Nam yêu cầu hết sức cần thiết và quan trọng đối với các
NHTM của Việt Nam, tạo điều kiện cho các NHTM rút lui khỏi thị trường

18
một cách có trật tự, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ
thể có liên quan.

Cùng với Luật Phá sản năm 2004 thì sự ra đời của Nghị định số
05/2010/NĐ-CP là cơ sở pháp lý ban đầu hết sức quan trọng để Tòa án tiến
hành giải quyết các vụ phá sản các TCTD nói chung và NHTM nói riêng. Văn
bản pháp lý này đã góp phần quan trọng vào việc hình thành một cơ chế pháp
lý đồng bộ cho hoạt động xử lý nợ của các ngân hàng, bảo đảm trật tự, kỷ
cương trong lĩnh vực tài chính, bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ nợ, làm
cho môi trường kinh doanh trở nên lành mạnh hơn, đồng thời cũng góp phần
hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế trong thời kỳ đổi mới. Sự cần thiết và
quan trọng của việc xây dựng và ban hành các quy định pháp luật về phá sản
NHTM thể hiện qua vai trò và ý nghĩa của các quy định đó, cụ thể có những
điểm cơ bản sau đây:
- Về mặt kinh tế: Các quy định pháp luật về phá sản NHTM tạo cơ sở
pháp lý nhằm đảm bảo trật tự cho nền kinh tế do nó bảo vệ được quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể, hạn chế tối đa tình trạng “mạnh ai nấy đòi” gây
ra xáo trộn, bất ổn đối với nền kinh tế.
- Về mặt xã hội: Các quy định pháp luật về phá sản NHTM tạo cơ sở
thuận lợi hơn cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xử lý
NHTM lâm vào tình trạng phá sản. Các cơ quan có thẩm quyền dựa vào các
quy định pháp luật quy định về trình tự, thủ tục giải quyết phá sản NHTM để
tiến hành giải quyết cho đúng trình tự thủ tục, bảo đảm tính công bằng đối với
mọi chủ thể tham gia thủ tục phá sản ngân hàng, tạo niềm tin cho các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật về giải quyết phá sản NHTM nói riêng và các chủ
thể kinh doanh nói chung. Các quy định pháp luật về phá sản NHTM tạo ra
hành lang pháp lý an toàn bảo vệ lợi ích cho các chủ thể tham gia vào quan hệ
pháp luật về giải quyết phá sản NHTM.

×