Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Nghiên cứu đặc điểm hình thái và mức độ gaya hại của Nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley hại lúa tại Phúc Yên, Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.97 KB, 33 trang )

LỜI CẢM ƠN
Quá trình tìm hiểu và nghiên cứu khóa luận này được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của thầy
Dương Tiến Viện, tôi đã từng bước tiến hành khóa luận này với đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm hình
thái và mức độ gây hại của nhện gié Steneotarsonemus spỉnki Smiley hại lúa tại Phúc Yên, Vĩnh
Phúc”.
Qua đây, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Dương Tiến Viện, các thầy cô trong
khoa Sinh - KTNN cùng các thầy cô trong trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp
đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Cuối cùng tôi xin được chân thành gửi lời cảm ơn tới gia đình, tập thể bạn bè những người đã
động viên, giúp đỡ tận tình và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề
tài.
Một lần nữa tôi xin được chân thành cảm ơn tất cả!
Hà Nội, tháng năm 2013 Sinh viên
Phạm Thị Huế
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài do tôi trực tiếp nghiên cứu và có tham khảo tài liệu của một số nhà
nghiên cứu, một số tác giả. Tuy nhiên đó là cơ sở để tôi thực hiện đề tài này. Đề tài này là kết quả
nghiên cứu của cá nhân tôi, các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và
chưa được công bố trong bất kì báo cóa khoa học nào. Nếu phát hiện bất cứ gian lận nào tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
KHÓA LUẬN TỐT
Hà Nội, tháng năm 2013
Sinh viên
Phạm Thị Huế
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
KHÓA LUẬN TỐT
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
KHÓA LUẬN TỐT
BT7 Băc thơm sô 7


CHT Chín hoàn toàn
CSA Chín sáp
CSH Chỉ sô hại
csu
Chín sữa
ĐN Đẻ nhánh
Đ-T Đòng- trô
HT1 Hương thơm sô 1
KD18 Khang dân 18
LĐ Làm đòng
TLH Tỷ lệ hại
Bảng Tên bảng Trang
3.1 Kích thước các pha phát triển của nhện gié 17
3.2
Diên biên mật độ nhện gié hại lúa vụ mùa 2011 tại Vĩnh Phúc
22
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, cũng như các nước trong khu vực, nước ta
có một truyền thống làm lúa nước lâu đời. Hiện nay, trong công cuộc đổi mới toàn
diện mà Đảng tiến hành, những chính sách mới trong nông nghiệp cùng sự lao
động cần cù, sáng tạo vốn là truyền thống của người nông dân, Việt Nam đã trở
thành nước sản xuất gạo nổi tiếng trên thế giới. Diện tích đất trồng lúa hiện nay
chỉ với 4 triệu ha, bình quân đầu người thấp khoảng 500m
2
nhưng nước ta đã vươn
lên là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới.
Theo thông tin tò Bộ Nông nghiệp &PTNT, Hiệp hội Lương thực Việt Nam,
Thời báo Kinh tế Sài Gòn tính đến cuối tháng 7/2011 Việt Nam đã ký họp đồng
xuất khẩu gạo trên 6 triệu tấn và đã xuất khẩu được 4,7 triệu tấn gạo, giá bình

quân 472 USD/tấn, tăng khoảng 10% về lượng và giá trị so với năm 2010. Trong
năm 2011 Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 7,3 triệu tấn so với năm 2010 là 6,83
triệu tấn đứng vị trí thứ 2 thế giới sau Thái Lan đã xuất khẩu 10 triệu tấn năm 2011
[17].
Hình Tên hình Trang
3.1 Trứng nhện gié s. spinki trong khoang mô lá 18
3.2 Pha nhện non di động của nhện gié s. Spinki 18
3.3 Pha nhện non không di động của nhện gié s. Spinki 19
3.4
Pha trưởng thành con đực nhện gié s. Spinki
20
3.5
Pha trưởng thành con cái nhện gié s. Spinki
21
3.6
Diễn biến mật độ nhện gié hại lúa vụ mùa 2011 tại Vĩnh Phúc
23
3.7 Tỷ lệ hại và chỉ số hại của nhện gié hại lúa vụ mùa 2011 24
KHÓA LUẬN TỐT
4 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
Sản xuất lúa gạo chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, giải
quyết được vấn đề an ninh lương thực cho hơn 80 triệu dân và lúa gạo cũng là mặt
hàng xuất khẩu quan trọng.
Hàng năm bên cạnh những ảnh hưởng xấu của thiên tai, sản xuất lúa gạo
còn bị giảm đáng kể năng suất do chuột, cỏ dại và đặc biệt là sâu bệnh hại. Gần
đây do áp dụng công nghệ tiên tiến, thâm canh tăng vụ đã đưa năng xuất lúa lên
42,7 tạ/ha đứng đầu các nước Đông Nam Á. Nhưng việc sử dụng thuốc trừ sâu quá
mức đã làm cho nhóm nhện nhỏ hại lúa từ sinh vật gây hại thứ yếu đã trở thành
chủ yếu. Chúng là đối tượng mới nguy hiểm mà người nông dân hầu như chưa có
kinh nghiệm trong phòng trừ.

Nguyễn Văn Đĩnh (2004) [5] ghi nhận trên lúa thường gặp 2 loài nhện hại là
Aceria tulipae Kemei sống ở trên mặt lá lúa và loài Steneotarsonemus spinki
Smiley sống ở bẹ lá lúa. Trong đó loài s. spinki hay người dân thường gọi là bệnh
cạo gió, bệnh nám bẹ là loài có kích thước nhỏ, không nhìn thấy bằng mắt thường,
sống và gây hại trong bẹ, gây hại bẹ lá ngoài đến bẹ lá đòng khi lúa trồ bông và
cuối cùng là gié non, cổ bông, cuống gié, hoa trước khi trỗ. Khi lúa trỗ đòng nhện
hút nhựa làm nghẹn đòng, bông lúa ra có nhiều hạt lép hoặc lép hoàn toàn.
Trên thế giới loài này được biết đến từ rất sớm, phát hiện năm 1967 tại
Lousiana và được nghiên cứu khá nhiều ở Trung Quốc, Cu Ba, cộng hòa
Đôminica và Haiti. Thiệt hại do loài s. spinki gây ra ở Trung Quốc từ 30-90% (Xu
và cộng sự, 2001) [34], ở Cu Ba là 70% (Ramos và Rodriguez, 2000) [31].
Ở Việt Nam, nhện gié được phát hiện đầu tiên ở tỉnh Thừa Thiên Huế năm
1992, Ngô Đình Hòa nghi nhận tác hại rõ rệt của nhện gié và gọi loài này là nhện
nhỏ hại lúa [8].
Tuy nhiên, ở Việt Nam nhện gié lại là đối tượng còn rất mới nhưng đã gây
hại khá nghiêm trọng, nhất là ở vùng có tập quán gieo sạ và ở các ruộng khô hạn.
KHÓA LUẬN TỐT
5 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
Được sự hướng dẫn của TS. Dương Tiến Viện, tôi đã thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu đặc điểm hình thái và mức độ gây hại của loài nhện gié
Steneotarsonemus spỉnki Smiley hại lúa tại Phúc Yên, Vĩnh Phúc”.
2. Mục đích và yêu cầu
2.1. Mục đích
Xác định đặc điểm hình thái của nhện gié Steneotarsonemus spỉnki Smiley,
diễn biến mật độ và mức độ gây hại của chúng trên một số giống lúa.
2.2. Yêu cầu
- Mô tả đặc điểm hình thái và xác định kích thước các pha phát dục của
nhện gié.
Điều tra diễn biến mật độ và mức độ gây hại của nhện
gié trên một số giống lúa cấy phổ biến ở Vĩnh Phúc.

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu nhện gié ở nước ngoài
1.1.1 Những nghiên cứu về vị tí phân loại, tình hình phân bố, mức độ gây hại
của nhện gié hại lúa Steneotarsonemus spinki Smiley
Nhện gié Steneotarsonemus spinki được mô tả lần đầu tiên năm 1967
(Smiley, 1967) [33]. Nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley thuộc ngành chân
đốt (Arthropoda), lớp hình nhện (Arachnida), bộ ve bét (Acarina), tổng họ
Tarsonemoidae, họ Tarsonemidae, giống Steneotarsonemus Beer, 1954, loài
Steneotarsonemus spinki Smiley, 1967 (Mendonça et ai, 2004) [28]. Trong họ
Tarsonemidae có 3 loài nhện gây hại lúa: Steneotarsonemus spỉnki,
Steneotarsonemus furcates và Steneotarsonemus spirifex. Trong đó loài s. spinki là
loài nguy hiểm nhất vì ngoài những thiệt hại do nó trực tiếp gây ra, nó còn là môi
giới truyền bệnh nấm Sarocladium oryzae Sawada và bệnh vi khuẩn.
KHÓA LUẬN TỐT
6 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
về phân bố địa lý, Rao et al., (1977) [32] đã chỉ ra rằng có thể các tài liệu
đầu tiên về nhện gié s. spinki là trong tài liệu tham khảo “động vật chân đốt nhỏ”
đã tấn công cây lúa ở Ấn Độ. Việc xuất bản tài liệu tham khảo đầu tiên nói đến s.
spinki như là một dịch hại của cây lúa là từ miền Nam Trung Quốc năm 1968 (Ou
et al., 1978) [29]. Tiếp theo là báo cáo ghi nhận nhện gié ở Ấn Độ vào tháng 11
năm 1975 (Rao et al., 1977) [32], ở Đài Loan, Kenya và Philippines năm 1977
(Rao et al., 1977) [32].
Năm 1999, nhện gié S.spinki đã được tìm thấy tại Hàn Quốc, Thái Lan và
Sri Lanka (Cabrera et al., 2002) [21].
Các báo cáo đầu tiên về nhện gié s. spinki như là một dịch hại lúa của châu
Mỹ là ở Cu Ba vào năm 1997 (Ramos et al., 1998)[30]. Sau đó nhện gié s. spỉnki
nhanh chóng lan rộng khắp vùng Caribe và Trung Mỹ, tại Cộng hòa Dominica vào
năm 1999 (Ramos et al., 2000) [31].
về mức độ gây hại, nhện gié là loài dịch hại nguy hiểm ở các vùng trồng
lúa ở châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc, Philipin và Thái Lan

từ những năm 1930 (Xu et al., 2001) [34]. Những năm 1970, Trung Quốc và Đài
Loan đã công bố thiệt hại do nhện gié gây ra làm giảm năng suất trung bình 5-
20%, một số nơi bị hại nặng lên đến 70-90% (Jiang et al., 1994) [26]. Ở Đài Loan,
nhện gié gây hại trên diện tích 17.000 ha năm 1976 và
19.1 ha năm 1977, thiệt hại do chúng gây ra ước tính là 9,2 triệu đô la Mỹ
(Nguyễn Văn Đĩnh, 1994 dẫn) [4].
Nhện gié được phát hiện ở Cu Ba năm 1997, một trong những cây trồng
chính bị ảnh hưởng bởi một loài ngoại lai xâm lấn, nhện Steneotarsonemus spinki
Smiley (Tarsonemidae), sự gây hại đã giảm năng suất lúa đáng kể khoảng 60% ở
một số địa phương và năm đầu giảm năng suất từ 30 - 70%, sau đó cộng hoà
Đôminica, Haiti, Cu Ba, Costa Rica, Panama thông báo rằng loài nhện này đã làm
KHÓA LUẬN TỐT
7 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
giảm tới 70% năng suất lúa ở các nước này (Ramos et al., 1998, 2000) [29] [30].
Nhện gié sau đó đã nhanh chóng lan rộng ra các nước trồng lúa trong vùng Caribe
và làm giảm năng suất từ 30-90% (Almaguel et al., 2000) [18]. Sau đó nhện gié
lần lượt được phát hiện ở Cộng hoà Dominica, Haiti, Nicaragua, Costa Rica và
Panama làm thiệt hại khoảng 30% năng suất lúa (Fernando, 2007) [24]. Ở Brazil,
nước đứng đầu về sản xuất lúa ở Nam Mỹ, thu hoạch trung bình là khoảng 12,7
triệu tấn/ năm và thiệt hại được dự đoán là từ 30-70% hoặc từ 3,8-8,9 triệu
tấn/năm, nhện gié là tác nhân gây hại chính đến an ninh lương thực và làm ảnh
hưởng lớn đến nền công nghiệp lúa gạo của đất nước này (Mendonça et al., 2004)
[28].
Trong năm đầu tiên ở Costa Rica, nhện gié phá hoại làm thiệt hại năng suất
lên đến 45%, trong đó mất 10,96 triệu đô la Mỹ (Barquero, 2004) [19].
Năm 1997, vùng sản xuất lúa ở Cu Ba bị thiệt hại nặng do nhện gié gây
nên, mật độ lên đến 200 con/m
2
, làm thiệt hại 15 - 20% năng suất do cả nhện
và nấm gây ra. Các loài nấm gây hại bao gồm: Pyrỉcularỉa, Rhychosporium,

Rhizoctonia tổng họp gây ra. Nhện gié còn là trung gian truyền các bệnh nấm
và vi khuẩn cho cây lúa như Fusarium moniliform, Currvularia lunata,
Alternaria padwickii, Pseudomonas glumae. Nhện gié được coi là loài mới
xuất hiện trở lại ở Mỹ vào năm 2007 (Hummel et al., 2009 dẫn) [25].
1.1.2. Đặc điểm hình thái và sinh học của nhện gié
• • • ơ
Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học của loài nhện gié
Steneotarsonemus spinki cho thấy, nhện gồm các pha phát dục: trứng, nhện non
tuổi 1, nhện non tuổi 2 và nhện trưởng thành (Ramos et al., 2000) [31], (Xu et al.,
2001) [34].
Trứng có màu trắng trong, được đẻ rải rác từng quả, chúng thường dính lại
với nhau. Nhện non di động và nhện non không di động có màu trắng đục với 3
đôi chân.
KHÓA LUẬN TỐT
8 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
Theo Dossmann (2005) [22] nhện gié có 4 pha phát dục: trứng, nhện non di
động, nhện non không di động và trưởng thành. Trứng có màu trắng trong, hình
ôvan dài, kích thước của trứng 110 X 74|j,m. Nhện non có 3 đôi chân, cơ thể màu
trắng sáng, kích thước (147 - 186) X (73 - 110)|xm. Nhện trưởng thành và nhện
non không di động có kích thước tương đối bằng nhau 250 X lio^m.
Đặc điểm hình thái nhện gié có sự khác nhau rõ rệt giữa con đực và con
cái. Con đực mang một đôi kìm dùng để di chuyển con cái đi tạo lập quần thể
mới. Còn con cái có đôi chân thứ tư biến thành dạng vuốt dài.
Trưởng thành cái nhện gié s. spinki sinh sản nhanh và hiệu quả, từ 50 đến
70 trứng trong thời gian sống của mình (Xu et al, 2001) [34].
Trong điều kiện phòng thí nghiệm tại Cu Ba, ở nhiệt độ trung bình 24,42 ±
l,l°c và độ ẩm trung bình 70,07 ± 4,7%, thời gian từ trứng đến trưởng thành là 7,7
ngày, thấp nhất là 5,75 ngày và cao nhất là 9,64 ngày. Thời gian phát triển của
trứng, nhện non di động và nhện non không di động tương ứng là 2,94, 2,22 và
2,74 ngày (Ramos et al., 2000) [31].

Vòng đời của nhện gié nghiên cứu tại các ngưỡng nhiệt độ 34°C; 24°C;
20°c tương ứng là 4,88, 7,77, 11,33 ngày trong điều kiện môi trường 29°c vòng
đời nhện là 5,11 ngày. Ở 30°c khoảng thời gian tò trứng đến trưởng thành là 3
ngày và nhiệt độ thích họp cho nó phát triển khoảng 20 - 29°c (Almaguel et al,
2000) [18]. Ở 15°c chúng chết gần như hoàn toàn. Nếu nhiệt độ tăng lên thì vòng
đời ngắn lại như ở 20°c (vòng đời là 11 ngày), 24 - 28°c (vòng đời 8 ngày) và 28 -
29°c (vòng đời 3-4 ngày) (Almaguel et aỉ., 2000)[18], (Cabrera et aỉ., 1998) [20].
Ở Trung Quốc, thời gian phát triển của một thế hệ phụ thuộc nhiệt độ. Ở các
ngưỡng nhiệt độ 30°c, 28°c và 25°c tương ứng là 8,5 ngày, 9,9 ngày và 13,6 ngày
(Xu et al., 2001) [34].
Thời gian sống của trưởng thành, ở Cu Ba tại ngưỡng nhiệt độ là 25°c là 15
± 1,09 ngày và 28°c là 7,6 + 0,4 ngày. Ở Trung Quốc, thời gian sống
KHÓA LUẬN TỐT
9 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
của trưởng thành là ở 30°c, 28°c và 25°c tương ứng là 23,6 ngày, 26,4 ngày và
31,6 ngày (Xu et aỉ., 2001) [34].
Trưởng thành cái loài s. spinki có khả năng sinh sản đơn tính, con cái không
qua giao phối vẫn có thể đẻ trứng nhưng tỷ lệ nở ra con đực cao hơn so với trứng
đã qua giao phối, do đó quần thể nhện tăng nhanh. Trứng không qua giao phối tỷ
lệ con cái/con đực là 1,94/1. Con cái sinh sản đơn tính có thể sinh ra được 79,2
trứng, cao nhất có thể đạt 206 trứng trong thời gian 17 ngày. Trong điều kiện thích
họp quần thể nhện có thể tăng số lượng nhanh chóng (Xu etal., 2001) [34].
Điều kiện khí hậu thuận lợi cho sự phát triển và gây hại của loài nhện gié là
khoảng 25,5 - 27,5°c và ẩm độ 83,8 - 85,5%. Đây là điều kiện rất thích họp làm
gia tăng nhanh chóng mật độ quần thể và phát sinh thành dịch ở Cu Ba (Cabrera et
al., 2002) [21].
Trong điều kiện thuận lợi, đặc biệt là yếu tố thích họp, nhện gié phát triển
mạnh và mật độ quần thể tăng nhanh. Quần thể nhện gié có đầy đủ các pha phát
triển từ trứng đến trưởng thành. Yào gian đoạn cuối vụ, quần thể nhện chủ yếu là
trưởng thành đực.

1.1.3. Đặc điểm sinh thái học của nhện gié
Theo nghiên cứu của Fang (1980) [23] cho thấy, tỷ lệ cao nhất của nhện gié
phù họp đối với nhiệt độ cao, lượng mưa giảm, liều lượng cao của phân bón ni tơ
và quản lý yếu kém của phân bón nói chung. Đối với các nước châu Á, nhện phát
triển đạt mức độ tối đa từ tháng tám đến tháng mười, trùng họp với điều kiện có
nhiệt độ cao và độ ẩm thấp.
Tại Trung Quốc, Lo et aỉ., (1977) [27] đã ghi nhận rằng nhện gié được tìm
thấy trên cây lúa giai đoạn trỗ, chín sữa, chín sáp và chúi hoàn toàn và mật độ của
nhện gié s. spỉnki khác nhau giữa các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa.
KHÓA LUẬN TỐT
10 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
Các nghiên cứu về biến động quần thể của nhện gié cũng đã được tiến hành
tại Cu Ba, Ramos et al., (2000) [31] đánh giá biến động mật độ nhện gié và cho
rằng mật độ nhện gié là thấp trong giai đoạn đẻ nhánh, mật độ tăng nhanh ở giai
đoạn trỗ. Mật độ đạt tối đa vào giai đoạn chín sữa và sau đó giảm xuống ở giai
đoạn chín sáp, chín hoàn toàn.
Nhện gié ưa thích phá hại hạt ở giai đoạn lúa chín sữa hơn giai đoạn chín
sáp và chín hoàn toàn. Nhện được phát hiện chủ yếu ở trong bẹ lá nơi mà ta dễ
dàng bắt gặp quần thể nhện cao ở pha nhện non và trưởng thành. Nhện cũng dễ
thấy ở phần trong hạt lúa. Đôi khi chúng rất khó phát hiện trên cánh đồng vì cơ thể
trong suốt không màu, kích thước cơ thể nhỏ bé và vị trí sống ở trong bẹ lá
(Fernando, 2007) [24].
1.1.4. Phòng trừ nhện gié
Để ngăn chặn sự gây hại của nhện gié lây lan từ vụ này sang vụ khác, việc
làm cần thiết là tiêu diệt nguồn nhện tồn dư trong gốc rạ, trong tàn tích cây trồng
và trên cây lúa chét. Việc làm đất, vệ sinh đồng ruộng, cỏ dại đều có tác dụng diệt
nhện gié không cho chúng có cơ hội lây lan từ vụ trước sang vụ sau. Ngoài ra,
biện pháp kéo dài khoảng cách giữa 2 vụ lúa cũng có tác dụng làm giảm khả năng
tồn tại của nhện gié. Khoảng cách giữa 2 vụ ít nhất là 25 ngày mới có khả năng
làm chết và giảm khả năng tồn tại của nhện gié trên ruộng (Mendonça et al., 2004)

[28].
Sử dụng thuốc hóa học: Sử dụng nhiều thuốc hóa học trong quản lý dịch hại
lúa là nguyên nhân chủ yếu liên quan đến phát sinh ổ dịch s. spinki tại Đài Loan
(Ou et al., 1978) [29]. Điều đó cũng đã được báo cáo ở Cu Ba là sự phụ thuộc vào
thuốc trừ nhện không phải là một cách hiệu quả để quản lý nhện gié s. spinỉd và
chỉ nên được xem xét trong trường họp khẩn cấp phát sinh ổ dịch (Cabrera et al.,
1998) [20], (Ramos et al., 1998) [30].
KHÓA LUẬN TỐT
11 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
về việc sử dụng thuốc hoá học để phòng trừ nhện gié, tại Trung Quốc, để
trừ nhện s. spinki người ta dùng các loại thuốc gốc Sulphua hoặc Clo. Kết quả cho
thấy dùng thuốc Dimethion 30EC nồng độ 0,04% có thể trừ được nhện s. spỉnki. Ở
Cu Ba, người ta sử dụng thuốc Hostathion 40EC trừ nhện gié trong điều kiện ở
phòng thí nghiệm. Hiệu lực của thuốc đạt tới 93% trong 15 ngày, thử hiệu lực của
thuốc Bacillus thurìngỉensis sepa LBT-13, kết quả là hiệu lực phòng trừ đạt
41,58% trong vòng 14 ngày.
Bên cạnh việc sử dụng các thuốc hóa học để phòng trừ nhện gié người ta
còn sử dụng các chế phẩm sinh học cũng cho hiệu quả khá cao. Đó là việc các vi
sinh vật có khả năng ký sinh làm chết nhện như Bacillus thringiensis,
Beauvería bassiana, Vertỉcỉlỉn lecaniỉ và Metazhizium anỉssoplỉae. Một số chế
phẩm như Beauveria bassỉana lka/ha; Phacelomyces lỉlacinỉus 10% +
Metazhỉzium anissopliae 5% + Beauveria bassỉana 5% 300gr/ha; Bacillus
thrỉngỉensỉs 500gr/ha hiệu lực của thuốc sau khi phun 36 ngày đạt 89 - 98%
(Cabrera, 1998) [20].
Việc sử dụng các chế phẩm sinh học tuy còn nhiều mới mẻ nhưng đây là
biện pháp rất có tích cực trrong phòng trừ nhện gié và đặc biệt có ý nghĩa đối với
bảo vệ môi trường và con người.
1.2. Tình hình nghiên cứu nhện gié ở Việt Nam
Tại Việt Nam, nhện gié đã xuất hiện và gây hại khá lâu, tuy nhiên những
nghiên cứu về loài dịch hại này còn rất ít. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, nhện

gié Steneotarsonemus spỉnki Smiley đã trở thành đối tượng gây hại khá phổ biến,
do những thiệt hại đáng kể mà nó gây ra trên lúa, loài dịch hại này mới được quan
tâm nghiên cứu nhiều hơn mà chủ yếu là ở Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
Ở nước ta, nhện gié được ghi nhận gây hại trên lúa tại Thừa Thiên - Huế
(Ngô Đình Hòa, 1992) [8], ở vùng đồng bằng sông Hồng (Nguyễn Yăn Đĩnh,
KHÓA LUẬN TỐT
12 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
1994) [4]. Tại nhiều tỉnh phía Nam (An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Kiên
Giang, ) đã ghi nhận triệu chứng “bệnh cạo gió” gây ra bởi loài này. Trong
khoảng 10 năm trở lại đây, nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley đã trở thành
đối tượng gây hại khá phổ biến trên lúa.
Nhện gié Steneotarsonemus spỉnki Smiley với phương thức sống: đục vào
bẹ lá lúa, sống trong tổ, khả năng chịu nước và chịu lạnh cao, sức sinh sản lớn,
khác biệt với nhiều loài nhện nhỏ hại cây trồng như nhện trắng
Polyphagotarsonemus latus Banks, nhện đỏ son Tetranychus cinnabarius
Boisduval, nhện đỏ hại chè Olỉgonychus coffeae Niet., nhện đỏ cam chanh
Panonychus citri McG. Triệu chứng gây hại lại dễ nhầm lẫn với triệu chứng của
các bệnh do vi sinh vật gây nên (như nấm, vi khuẩn Pseudomonas glumae, ) mà
người ta thường gọi là “bệnh lem lép”.
Theo thống kê của Trung tâm BVTV phía Bắc, 2008 [11], trong 2 năm
2007, 2008 có 11/25 tỉnh thành ở miền Bắc bị nhện gié gây hại lúa, diện tích lúa
bị hại trên 5000 ha. Có nhiều tỉnh như Thái Nguyên, Phú Thọ diện tích lúa mùa bị
hại nặng lên tới trên 500 ha, toàn thân cây lúa chuyến sang màu xám nâu hơi đen,
mất màu vàng đặc trang khi lúa chửi, năng suất giảm đáng kể. Các tỉnh miền núi
cao như Điện Biên, Sơn La và ở đồng bằng sông Hồng như Hải Dương, Ninh
Bình, Bắc Ninh, cũng đã ghi nhận sự gây hại của nhện gié.
Trong vụ mùa năm 2009, nhện gié gây hại và phân bố rộng hơn năm trước,
hại nặng cục bộ ở một số tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Hoà Bình, Điện Biên,
Quảng Ninh, Ninh Bình, Hưng Yên Diện tích nhiễm hơn 2.000 ha, nhiễm nặng
115 ha (Trung tâm BVTV phía Bắc, 2009) [12]. Năm 2010, nhện gié xuất hiện ở

cả 2 vụ nhưng hại chủ yếu ở vụ mùa, diện phân bố rộng hơn, mức độ gây hại nặng
hơn vụ mùa năm trước. Diện tích nhiễm gần
10.1 ha, nhiễm nặng 1.000 ha (Trung tâm BYTY phía Bắc, 2010) [13].
KHÓA LUẬN TỐT
13 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
Các tỉnh ở miền Bắc như Hà Nam, Hải Dương, Ninh Bình, Điện Biên,
Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Yên Bái, Lai Châu, trong năm 2011 từ đầu
tháng 9 đến đầu tháng 10, tỷ lệ hại của nhện gié phổ biến từ 3-7%, cao từ 20-40%
và cục bộ tới 60% số dảnh bị hại. Tổng diện tích nhiễm nhện gié là 1.871 ha,
nhiễm nặng 270 ha, diện tích phòng trừ 62 ha (Trung tâm BVTV phía Bắc, 2011)
[14].
Năm 1992, Ngô Đình Hoà [8] ghi nhận tại Thừa Thiên Huế có 40 ha lúa bị
nhện gié hại và có đến 15% hạt bị lép.
Ở Đồng bằng sông Hồng, về thành phần nhện hại lúa đã ghi nhận sự có mặt
2 loài nhện hại là nhện gié Steneotarsonemus spinki Smiley và nhện củ cà rốt
Aceria tulipae, cả 2 loài này tác hại là không đáng kể (Nguyễn Văn Đĩnh,
1994) [4].
Năm 1967-1968, kết quả điều tra thành phần côn tràng hại lúa cho thấy có
88 loài gây hại nhưng không có nhện hại lúa [15]. Năm 1979, kết quả điều tra
thành phần sâu bệnh hại lúa ở miền Nam, Viện BVTV ghi nhận có 2 loài nhện
nhện nhỏ hại lúa là Steneotarsonemus spinki Smiley thu mẫu tại Thừa Thiên - Huế
và loài Oligonychus oryzae Hirst [16].
Theo Phạm văn Lầm (2000) [10], ở Việt Nam, Bộ Ve bét (Acarina) hại lúa
gồm 3 loài là Steneotarsonemus spinki Smiley, Oligonychus oryzae Hirst và loài
Acerỉa tulỉpae Kemel. Trong đó, loài nhện gié s. spinki gây hại trên lá và bông, hai
loài còn lại chủ yêu gây hại trên lá.
Nguyễn Văn Đĩnh và Vương Tiến Hùng (2007) [7] đã xác định trên lúa
vùng Hà Nội có 8 loài nhện nhỏ gây hại thuộc 3 họ, họ Tetranychidae có 3 loài, họ
Tarsonemidae có 3 loài và họ Eriophyidae có 2 loài.
Nguyễn Văn Đĩnh và Trần Thị Thu Phương (2006) [6] đã xác định mức độ

gây hại của nhện gié khi lây nhiễm trong phòng thí nghiệm và ghi nhận năng suất
giảm 42,3 - 48,3%.
KHÓA LUẬN TỐT
14 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
Đỗ Thị Đào và cộng sự (2008) [3] đã xác định nếu được phòng trừ nhện gié
đúng kỹ thuật, năng suất tăng hơn so với đối chứng là 59,6%, ngoài ra các tác giả
còn xác định mức độ nhiễm nhện gié khác nhau của 10 giống lúa trồng phổ biến ở
miền Bắc.
Nhện gié có vòng đời ngắn, trung bình 9,33 ngày ở 24,6°c và 5,83 ngày ở
29,9°c (Nguyễn Văn Đũủi và Trần Thị Thu Phương, 2006) [6].
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, dụng cụ, địa điểm và thời gian nghiền cứu
2.1.1. Đổi tượng nghiên cứu
- Loài nhện Steneotarsonemus spinki Smiley hại lúa.
- Một số giống lúa trồng phổ biến ở Vĩnh Phúc: Khang dân 18, nếp N97, Bắc thơm
số 7, Hương thơm số 1.
2.1.2. Dụng cụ nghiên cứu
- Túi nilon các cỡ, giấy nilon, giấy lọc. Hộp petri, khay, ống nghiệm, lồng nuôi sâu,
bút lông, chổi lông, kim côn trùng số 00, panh, lam kính, dao tem.
- Kinh lúp 2 thị kính, kính lúp soi nổi Optika cùng phụ kiện khác để chụp ảnh, tủ
định ôn, tủ lạnh, máy ảnh.
2.1.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Đề tài được tiến hành từ tháng 8/2011 đến tháng 12/2011.
Địa điểm: Điều tra ngoài đồng ruộng được thực hiện tại thị xã Phúc Yên,
Vĩnh Phúc, phòng thí nghiệm trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Xác định kích thước các pha phát dục của nhện gié.
- Mô tả đặc điểm hình thái các pha phát dục của nhện gié.
- Điều tra diễn biến mật độ và mức độ gây hại của nhện gié trên một số giống lúa.

KHÓA LUẬN TỐT
15 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp xác định đặc điểm hình thái nhện gié
- Nuôi sinh học nhện gié trong ống thân lúa
+ Chuẩn bị ống thân lúa: chọn những ống thân lúa to, sạch bệnh để làm thí
nghiệm. Các ống thân lúa được bịt kín ở 2 đầu, phía thân dưới cắt thừa 1 đoạn
3cm để cắm vào xốp ẩm. Ở 1/3 ống thân lúa dùng dao tem cắt ngang 1/5 đường
kính ống thân và lcm dọc ống thân. Phần cắt không tách hẳn ra mà dùng làm lắp
đậy cho chính ống thân lúa đó. Chính phần nắp đậy này có tác dụng giữ ẩm và tạo
môi trường giống trong ống thân khi chưa cắt. Cả ống thân được cắm lên mảnh
xốp ẩm để nuôi.
+ Chuyển nhện để nuôi: Dùng kim côn trùng số 00 chuyển nhện vào trong
ống thân lúa, sau đó dùng giấy nilon quấn chặt vết cắt và xung quanh vết cắt. Ống
thân lúa được cắm vào mảnh xốp ẩm để nuôi. Nhện được nuôi trong nhiệt độ
phòng.
+ Theo dõi 1 ngày 2 lần, cứ 3 ngày thay ống thân lúa một lần. Một ống thân
lúa phải thay sẽ nhân cho nhiều ống thân mới. cắt từng đoạn nhỏ của ống thân lúa
phải thay lần luợt cho vào các ống thân mới để tiếp tục nuôi và nhân thêm số
lượng nhện.
+cắt một đoạn ống thân lúa được nuôi đem ra quan sát trên kính lúp soi nổi,
có thể cho đoạn mẫu đó vào tà lạnh khoảng 1 phút rồi đem ra quan sát các pha của
nhện gié. Dùng kim côn trùng số 00 chuyển từng pha của nhện gié (Trứng, nhện
non di động, nhện non không di động, trưởng thành đực và trưởng thành cái) để
quan sát dưới kính lúp soi nổi và chụp ảnh.
- Quan sát tỉ mỉ từng pha của nhện gié, mô tả đặc điểm hình thái, màu sắc
theo Jeppson et al., (1975) và Nguyễn Văn Đĩnh (1994), đo kích thước các pha
phát dục của nhện gié qua kính lúp soi nổi.
2.3.2. Phương pháp điều tra diễn biến mật độ và mức độ gây hại của nhện gié
KHÓA LUẬN TỐT

16 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
- Điều tra diễn biến mật độ và mức độ gây hại của nhện gié theo vụ lúa: Mỗi vụ lúa
trong năm điều tra đại diện ở trà chính vụ (vụ mùa chính vụ 2011). Ở mỗi vụ điều
tra trên một số giống lúa cấy phổ biến: Khang dân 18, Nếp N97, Bắc thơm số 7,
Hương thơm số 1.
- Điều tra định kỳ 7 ngày một lần, từ sau lúa cấy/sạ đến khi thu hoạch.
- Điều tra 10 điểm ngẫu nhiên theo đường chéo, điểm cách bờ ít nhất 2m.
- Mỗi điểm lấy 10 khóm, mỗi khóm lấy 1 dảnh, dùng kéo cắt sát gốc dảnh lúa và
cho 10 dảnh của 1 điểm vào 1 túi nilon có đánh số, đem về phòng thí nghiệm quan
sát và soi trên kính lúp, độ phóng đại 40x.
Ở các ruộng đại diện cho mỗi yếu tố (thời vụ, giống lúa, chân đất) tiến hành
điều tra theo QCVN01-38:2010/BNNPTNT (Bộ NN&PTNT).
Chỉ tiêu điều tra
- Mật độ nhện gié/dảnh, phân cấp hại, tỷ lệ hại (%) và chỉ số hại (%).
Phân cấp hại của dảnh lúa (trước trỗ) và của bông lúa (sau trỗ).
Phân cấp hại theo 9 cấp.
Trước trỗ:
+ Cấp 1: < 1/6 diện tích bẹ lá có vết hại.
+ Cấp 3: >1/6 -1/3 diện tích bẹ lá có vết hại.
+ Cấp 5: >1/3 -1/2 diện tích bẹ lá có vết hại.
+ Cấp 7: > 1/2 - 3/4 diện tích bẹ lá có vết hại.
+ Cấp 9: > 3/4 diện tích bẹ lá và thân có vết hại, thân cây bị thâm đen.
Trẽn bỗng:
+ Cấp 1: < 1% hạt bị hại +
Cấp 3 : 1 - 5% hạt bị hại +
Cấp 5: > 5 - 25% hạt bị hại +
Cấp 7: > 25 - 50% hạt bị hại
KHÓA LUẬN TỐT
17 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
+ Cấp 9: > 50 % hạt bị hại

Cổng thức tỉnh
Tổng số nhện, trứng đếm được
- Mật độ nhện (con + trứng/ dảnh) = ____________~________________________
Tổng số dảnh điều tra
Tổng số dảnh bị hại
- Tỷ lệ hại (%) = X 100
Tổng số dảnh điều tra
2[(N1 X 1) + + (Nn X n)]
- Chỉ số hại (%) = X 100
N X K
Trong đó: N1: là số dảnh bị hại ở cấp 1
Nn: là số dảnh bị hại ở cấp n
N: là tổng số dảnh điều tra
K: là cấp hại cao nhất của thang phân cấp (= 9)
2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu thập được xử lý theo phần mềm trong chương trình Microsoft
Excel, IRRISTAT 4.0 (Phạm Tiến Dũng, 2003) [2], (Nguyễn Thị Lan và Phạm
Tiến Dũng, 2006) [9].
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN cứu VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm hình thái của nhện gié
s.
Spinki
Theo Nguyễn Văn Đĩnh (2006)[6], nhện gié có 4 pha phát triển: Trứng,
nhện non di động, nhện non không di động và nhện trưởng thành.
Để xác định kích thước giữa các pha phát dục của nhện gié, phân biệt
nhện gié với các loài nhện hại khác, chúng tôi tiến hành đo kích thước cả
KHÓA LUẬN TỐT
18 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
chiều dài cà chiều rộng từng pha nhện gié bằng mắt kính có thước qua kính
lúp soi nổi.

Cắt một đoạn ống thân lúa được nuôi đem ra quan sát trên kính lúp soi
nổi, có thể cho đoạn mẫu đó vào tủ lạnh khoảng 1 phút rồi đem ra quan sát các
pha của nhện gié. Dùng kim côn trùng số 00 chuyển từng pha của nhện gié
(Trứng, nhện non di động, nhện non không di động, trưởng thành đực và
trưởng thành cái) để quan sát tỉ mỉ dưới kính lúp soi nổi, chụp ảnh, đo kích
thước và mô tả đặc điểm hình thái, kết quả được nghi lại qua bảng 3.1.
KHÓA LUẬN TỐT
19 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
Bảng 3.1: Kích thước các pha phát triển của nhện gié
s.
spinki
Pha phát dục Chỉ tiêu Kích thước
Nhỏ nhất
Om)
Lớn
nhất
Trung bình Om)
Trứng Chiều dài 101,9 166,9 130,1 ±6,2
Chiều rộng 70,0 101,6 82,9+2,6
Nhện non di động Chiều dài 155,5 320,1 241,7+18,1
Chiều rộng 75,6 137,1 101,6+6,1
Nhện non không di động
Chiều dài 272,1 313,6 287,6+4,8
Chiều rộng 86,3 145,3 108,9+6,2
Trưởng thành đực Chiều dài 218,7 326,9 242,7+12,5
Chiều rộng 120,2 150,7 128,8+3,4
Trưởng thành cái Chiều dài 250,9 310,5 286,2+6,2
Chiều rộng 75,6 113,5 94,2+3,4
Qua bảng 3.1, cho thây kích thước pha trứng của nhện trung bình là chiều dài
130,1 ± 6,2|J.m và chiều rộng 82,9 + 2,6|J.m.

Hình 3.1. Trứng nhện gié
s.
spinki trong khoang mô lá
Trứng nhện hình ô van, màu trắng trong, sáng bóng, bề mặt có nhiều
chất nhày. Trứng mới đẻ có màu trắng đục sau chuyển sang trắng trong, trong
suốt. Trứng sắp nở có màu trong suốt, dễ lẫn và khó phát hiện. Một đầu trứng
có sọc màu trắng đục chính giữa theo chiều dọc của quả trứng. Nhện đẻ trứng
rời rạc từng quả rồi dính lại với nhau nhờ có chất kết dính trên bề mặt trứng.
Giai đoạn nhện non di động, có sự biến động về kích thước cơ thể khá
lớn do chúng chích hút dinh dưỡng từ lá và biến đổi kích thước cơ thể khá
nhiều, kích thước trung bình là chiều dài 241,7 + 18,l|J.m và chiều rộng 101,6
6,lum.
KHÓA LUẬN TỐT
20 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
Hình 3.2. Pha nhện non di động của nhện gié
s.
Spinki
KHÓA LUẬN TỐT
21 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
Nhện non mới nở rất nhỏ bé, không khác nhiều so với kích thước của
trứng. Nhện non mới nở (nhện non di động) có màu trắng với 3 dôi chân. Mặt lưng
nhện sần sùi, lớp do ngoài mỏng và có nhiều ngấn ngang, dọc. Cuối cơ thể có một
sọc màu trắng đục chia phần cuối lưng thành hai nửa bằng nhau. Nhện non di
động có khả năng di chuyển chậm chạp xung quanh vỏ trứng sau đó bò đến vị trí
có các con nhện non khác cùng tuổi. Chúng chích hút trong khoang mô để lớn dần,
di chuyển dần nhanh hơn. Nhện non di động lớn rất nhanh và có nhiều biến đổi về
kích thước cơ thể và hình thái. Nhện non di động sắp chuyển sang pha nhện non
không di động cở thể căng tròn và chuyển sang mầu trắng đục. Khi chuyển sang
giai đoạn mới, nhện non di động di chuyển chậm lại và đến gần những cá thể nhện
khác đã chuyển tuổi. Pha nhện non di động này chưa phân biệt được đực, cái.

Trong khi ở giai đoạn nhện non không di động, nhện nằm im chỉ chuyển
hóa về chất bên trong cơ thể mà không hề lớn lên nên kích thước không có sự biến
động lớn, kích thước trung bình là chiều dài 287,6 ± 4,8|J.m
và chiều rộng 108,9 + 6,2|J.m.
Hình 3.3. Pha nhện non không di động của nhện gié
s.
Spinki
Nhện non không di động cơ thể căng tròn, màu trắng đục. Chúng cũng có 3
đôi chân nhưng không di chuyển mà duỗi thẳng. Giai đoạn này kích thước của
nhện tương đương kích thước của nhện gié trưởng thành, tuy nhiên vẫn chưa phân
biệt được đực cái qua đặc điểm hình thành.
KHÓA LUẬN TỐT
22 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
Kích thước của nhện ở pha trưởng thành là lớn nhất do nhện đã phát triển
hoàn thiện để thực hiện vai trò sinh sản trong duy trì nòi giống. Tuy nhiên, con
đực có sự khác biệt khá rõ so với con cái. Con đực tuy to hơn về chiều ngang cơ
thể nhưng chiều dài lại kém hơn con cái khá nhiều, trung bình là chiều dài 242,7 ±
12,5|im và chiều rộng 128,8 + 3,4|im.
Hình 3.4. Pha trưởng thành đực nhện gié
s.
Spinki.
Trưởng thành đực màu vàng đậm, giữa lưng có một đốm trắng đục. Cơ thể
to và di chuyển rất nhanh nhẹn, chúng di chuyển qua lại qua khoang lá để tìm con
cái sắp hóa trưởng thành cho quá trình giao phối. Nhện có nhiều ngấn ngang, dọc,
mặt lưng sần sùi. Nhện có 4 đôi chân to khỏe, đôi chân thứ tư biến thành kìm để
giữ con cái trong quá trình giao phối. Khi di chuyển, đôi chân thứ tư của nhện đực
cong lên. Toàn bộ cơ thể và nhất là kìm có nhiều lông bao quanh. Trong quá trình
giao phối, trưởng thành đực đến vị trí có nhện non không di động chuẩn bị hóa
trưởng thành nhanh chóng dùng chân và kìm cắp con cái lên lưng rồi cõng đi. Nếu
trong quần thể nhện đó có nhiều con đực hơn hoặc đực cái xấp xỉ nhau, sẽ xảy ra

hiện tượng nhiều con đực tranh dành nhau một con cái.
Kích thước cơ thể con cái lại ngược lại so với con đực, chiều dài của cơ thể
lớn hơn nhiều so với chiều rộng của chúng, trung bình là chiều dài 286,2 ±
6,2ụm và chiều rộng 94,2 ± 3,4|J.m.
KHÓA LUẬN TỐT
23 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
Hình 3.5. Pha trưởng thành cái nhện gié
s.
Spinki
Nhện trưởng thành cái trước khi chưa đẻ trứng (có thể đã qua giao phối
hoặc chưa qua giao phối) có màu vàng đậm, thon nhỏ và di chuyển rất nhanh trong
bẹ và cả bên ngoài của khoang mô lá. Nhện cái có 4 đôi chân nhưng đôi chân thứ
tư biến đổi thành dạng vuốt mảnh. Nhện cái bước vào giai đoạn đẻ trứng có sự
thay đổi rất rõ về kích thước cơ thể. Bề ngang to dần ra, lối lõm về các phía, phần
thân trước gồ lên và cao hơn hẳn thân sau. Nhện chuyển từ mầu vàng khá đậm
sang mầu vàng nhạt hoặc trắng đục, 2 đầu nhện thuôn nhọn và di chuyển chậm
chạp trong mô lá. Nhện cái sau đẻ trứng kích thước gần bằng nhện cái trước đẻ
trứng nhưng di chuyển chạm chạp hơn nên ít phá hại hơn nhện cái trước đẻ trứng.
Đặc biệt ở con trưởng thành cái, giữa đôi chân thứ nhất và đôi chân thứ 2 có
một đôi bộ phận phụ tương ứng ở 2 bên. Vai trò của bộ phận này có thể liên quan
đến khả năng trữ khí của nhện gié để thực hiện quá trình hô hấp. Các tác giả trên
thế giới cũng có những mô tả về bộ phận này tuy nhiên cũng chưa có nghiên cứu
nào sâu để tìm hiểu vai trò của nó đối với đời sống của nhện gié.
Chinh vì thế, nếu dựa vào kích thước cơ thể nhện đã có thể thấy sự
khác nhau về hình thái của nhện và có thể phân biệt được các pha của nhện.
So sánh với kết quả trước đây trên thế giới cho thấy kết quả này không
có sự sai khác nhiều. Theo Smiley (1967) [33], con cái trưởng thành có kích
thước chiều dài và chiều rộng tương ứng là llAụm và 108|J.m, trong khi con
KHÓA LUẬN TỐT
24 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D

đực có kích thước tương ứng là 2\lụm và 121|J.m. Như vậy, về cơ bản qua
kích thước ta đều có thể phân biệt được giới tính, tuy nhiên vẫn có sự khác
nhau tùy thuộc các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, thức ăn, mùa vụ
3.2. Diễn biến mât đô, tỷ lê hai và chỉ số hai của nhên gié trên môt số
giống lúa cấy vụ mùa 2011 tại Vĩnh Phúc
Vụ mùa 2011, điều tra trên 4 giống lúa cấy phổ biến tại Vĩnh Phúc là
Khang dân 18, Nếp N97, Bắc thơm số 7, Hương thơm số 1, kết quả thể hiện ở
bảng 3.2.
Kết quả điều tra cho thấy: nhện gié phát sinh gây hại vào giai đoạn lúa đẻ
nhánh (27/7) với mật độ thấp (0,1-0,6 con/dảnh). Mật độ nhện gié tăng dần theo
các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa, mật độ tăng vào giai đoạn làm đòng (từ 1,8-
5,3 con/dảnh) và đỉnh cao vào giai đoạn trỗ và chín sữa (26,3-
KHÓA LUẬN TỐT
25 sv. PHẠM THỊ HUẾ - K35D
Bảng 3.2. Diễn biến mât đô nhên gié hai lúa vu mùa 2011 tai Vĩnh Phúc
s • • • s • • •
Giai đoạn sinh trưởng Mật độ nhện gié (con/dảnh)
KD18 Nêp N97 BT 7 HT 1
Đẻ nhánh (13/7) 0 0 0 0
Đẻ nhánh (20/7) 0 0 0 0
Đẻ nhánh (27/7) 0,2±1,5 0,3±1,7 0,1±0,7 0,6±2,5
Làm đòng (3/8) 0,8±4,2 1,9±6,3 0,5±2,3 2,1±6,7
Làm đòng (10/8) 4,2±14,8 4,7±13,7 1,8±6,8 5,3±14,5
Làm đòng (17/8) 9,8±30,3 12,6±29,2 3,8±11,2 14,7±31,4
Đòng -Trô (24/8) 18,1±40,5 20,4±38,6 6,6±15,2 22,1±37,5
Trỗ (31/8) 38,9±68,1 43,6±66,2 17,4±39,4 46,3±62,0
Chín sữa (7/9) 51,2±76,9 54,8±77,2 26,3±45,2 56,7±68,9
Chín sữa (14/9) 36,3±51,1 39,4±51,6 21,7±39,0 41,2±47,4
Chín sáp (21/9) 12,5±16,8 17,6±24,8 8,3±17,1 19,5±25,3
Chín hoàn toàn (28/9) 3,7±5,0 4,1±4,8 2,4±3,3 4,7±5,3

×