LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành tại khoa Sinh - KTNN, Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn khoa học: ThS. An
Biền Thùy đã tận tình và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Phương pháp
giảng dạy Sinh học, cùng các thầy cô của khoa Sinh - KTNN, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2 đã động viên, hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn BGH trường THPT Tây Tiền Hải đã tạo mọi điều
kiện giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện luận văn.
Đề tài này chỉ nghiên cứu trong phạm vi nhỏ và thời gian có hạn nên không
tránh khỏi thiếu sót. Kính mong được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thày cô
giáo, các bạn sinh viên để vấn đề nêu trong khóa luận được đầy đủ và hoàn thiện
hơn.
Tôi xỉn chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 5 năm 2013 Sinh viên
Phan Thị Hồng
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 1 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu của đề tài đảm bảo tính chính xác,
khách quan, trung thực, không trùng lặp YỚi bất kì đề tài nào.
Nấu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2013 Sinh viền
Phan Thị Hồng
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Đọc là
BGH Ban giám hiệu
CTC Chương trình chuẩn
Đ & GQVĐ Đặt và giải quyết vấn đề
GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
GV Giáo viên
HS Học sinh
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 2 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
pp Phương pháp
PPDH Phương pháp dạy học
PPDHTC Phương pháp dạy học tích cực
SGK Sách giáo khoa
SGV Sách giáo viên
SH Sinh học
THPT Trung học phổ thông
MUC LUC • •
LỜI CẢM ƠN LỜI CAM
ĐOAN DANH MỤC CHỮ
VIẾT TẮT ■
1.3.1.
Chương 2. ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH cực “ĐẶT VÀ
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ” TRONG VIỆC GIẢNG DẠY SH 11 THPT (CTC) 21
2.1. Quy trình dạy - học theo phương pháp dạy học tích cực “đặt và giải
Phụ ỉục
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 3 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
MỞ ĐẦU
1. Lí do chon đề tài
Từ những năm 80 của thế kỉ thứ XX, vấn đề đổi mới PPDH ở các trường
phổ thông để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh nhằm đào tạo những
người năng động và sáng tạo đã được đặt ra trong ngành giáo dục Việt Nam.
Hiện nay, với nhịp độ phát triển của khoa học kĩ thuật và công nghệ, vấn đề đổi
mới PPDH càng được quan tâm hơn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá VII đã chỉ rõ: “Đổi mới phương pháp dạy
học ở các cấp học, bậc học. Áp dụng phương pháp giáo dục
hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo,
năng lực giải quyết vẩn đề”. Tiếp đó dạy - học theo phương pháp tích
cực tiếp tục được quan tâm ở Nghị quyết Hội nghị làn thứ 2 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá VIII: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo
dục đào tạo khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thành nề nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp
dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào
quá trình dạy học đảm bảo điều kiện và thời gian tự học
Tuy vậy, ở các trường THPT hiện nay sự chuyển biến về thay đổi các
PPDH, đặc biệt là các PPDHTC còn khá chậm chạp YỚi hình thức dạy học chủ
yếu là thầy đọc - trò chép, GV chủ yếu dùng pp thuyết trình - giảng giải xen kẽ
với vấn đáp - tái hiện, biểu diễn phương tiện trực quan - minh hoạ. Ngược lại,
cũng có những GV vận dụng thành công những biện pháp tích cực phát huy được
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 4 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
năng lực tư duy độc lập sáng tạo, năng lực trí tuệ của học sinh, trong đó có dạy
học “Đ & GQVĐ” nhưng chủ yếu là trong các tiết thao giảng, các giờ dạy thi GV
dạy giỏi.
PPDH “Đ & GQVĐ” không phải là một PPDH mới nhưng qua quan sát
cho thấy hầu hết các GV chưa vận dụng thành thạo. Một số ít GV vận dụng ở
mức độ thấp do chưa nắm vững pp còn lúng túng khi vận dụng hoặc do lo sợ
thiếu thời gian và không đủ phương tiện dạy học hiện đại hỗ trợ do vậy chưa phát
huy hiệu quả của PPDH này.
Chương trình SH lớp 11 hiện nay mang tính trừu tượng khá cao chủ yếu là
kiến thức quá trình sinh lí do đó GV phải hướng dẫn HS lĩnh hội và tư duy trừu
tượng bằng việc Đ & GQVĐ mới hiểu sâu sắc được kiến thức.
Với mong muốn giúp cho GV và HS có phương pháp giảng dạy và học tập
tốt hơn trong bộ môn SH lớp 11 (CTC) góp phần phát triển các PPDHTC và
“phát triển trí lực học sinh trong quá trình học tập ” phù hợp với
xu thế phát triển của lý luận dạy học hiện đại. Chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề
tài: “Vận dụng phương pháp dạy học tích cực “Đặt và giải quyết vấn đề” trong
day hoc Sình hoc 11 - CTC”.
2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” trong dạy học SH 11 (CTC).
3. Giả thuyết khoa học
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 5 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
Nếu vận dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” theo hướng lựa chọn nội dung vấn
đề học tập SH phù hợp kết hợp thiết kế kế hoạch bài học sẽ nâng cao chất lượng
dạy học SH.
4. Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nội dung phù hợp với PPDHTC “Đ & GQVĐ”
- Quy trình ứng dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” trong dạy học SH 11
(CTC)
4.2. Phạm vỉ nghiên cứu
Chương trình SH 11 (CTC) trường THPT
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về PPDHTC “Đ & GQVĐ”.
5.2. Nghiên cứu thực trạng sử dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” trong dạy học
SH 11.
5.3. Nghiên cứu quy trình của PPDHTC “Đ & GQVĐ”.
5.4. Xác định những nội dung SH 11 có thể dạy học bằng PPDHTC “Đ &
GQVĐ”.
5.5. Định hướng sử dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” vào dạy một số bài
trong chương trình SH 11.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu lí thuyết
- Nghiên cứu các tài liệu về chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước,
Bộ GD & ĐT trong đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 6 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
- Nghiên cứu các tài liệu chuyên môn làm cơ sở lí thuyết cho đề tài.
6.2. Điều tra quan sát sư phạm
- Điều tra thực trạng dạy - học môn SH, thực trạng vận dụng PPDHTC
“Đ&GQVĐ” ở một số trường THPT qua phiếu điều tra.
- Điều tra việc áp dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” của GV thông qua giáo án,
quan sát giờ học.
7. Những đóng góp của đề tài
7.1. Hệ thống hóa cơ sở lí luận về PPDHTC “Đ & GQVĐ” trong dạy học
môn SH.
7.2. Điều tra về thực trạng sử dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” trong dạy học
SH 11 THPT.
7.3. Xác định các nội dung trong SH 11 có thể áp dụng PPDHTC “Đ &
GQVĐ”.
7.4. Thiết kế được một số giáo án cho dạy học SH 11 có sử dụng PPDHTC
“Đ & GQVĐ”.
NÔIDUNG
CHƯƠNG 1. Cơ SỞ LÝ LUÂN VÀ THƯC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
• •
1.1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
1.1.1. Ngoài nước
Thuật ngữ “Dạy học nêu vấn đề” xuất phát từ thuật ngữ “Orixtic” hay còn
gọi là pp phát kiến, tìm tòi. pp này còn có tên gọi là “Đ & GQVĐ”. pp này đã
được nhiều nhà khoa học nghiên cứu như A. Ja Ghecđơ, B. E Raicôp, vào
những năm 70 của thế kỉ XIX. Các nhà khoa học này đã nêu lên phương án tìm
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 7 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
tòi, phát kiến trong dạy học nhằm hình thành năng lực nhận thức của HS bằng
cách đưa HS vào hoạt động tìm kiếm ra tri thức, HS là chủ thể của hoạt động học,
là người sáng tạo ra hoạt động học. Đây có thể là một trong những cơ sở lí luận
của PPDH phát hiện và giải quyết vấn đề.
Vào những năm 50 của thế kỉ XX, xã hội bắt đầu phát triển mạnh, đôi lúc
xuất hiện mâu thuẫn trong giáo dục đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu giáo dục ngày
càng cao, khả năng sáng tạo của HS ngày càng tăng với tổ chức dạy học còn lạc
hậu. Chính YÌ vậy, pp “Dạy học nêu vấn đề” hay còn gọi là “Dạy học phát hiện
và giải quyết vấn đề” chính thức ra đời. pp này đặc biệt được chú trọng ở Ba Lan.
V. Okon - nhà giáo dục học Ba Lan đã làm sáng tỏ pp này thật sự là một
PPDHTC, tuy nhiên những nghiên cứu này chỉ dừng ở việc ghi lại những thực
nghiệm thu được từ việc sử dụng pp này chứ chưa đưa ra đầy đủ cơ sở lí luận cho
pp này.
Những năm 70 của thế kỉ XX, M. I Mackmutov đã đưa ra đầy đủ cơ sở lí
luận của PPDH giải quyết vấn đề.
Trên thế giới cũng có rất nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục nghiên cứu pp
này như Xcatlin, Machiuskin, Lecne,
r
PPDH giải quyết vấn đề lần đầu tiên được áp dụng tại đại học y khoa (Case
Western University - Hoa Kỳ) vào thập niên 50 của thế kỷ XX và sau đó là học
viện y học (đại học McMasters, Hamilton, Canada).
1.1.2. Trong nước
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 8 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
Người đầu tiên đưa pp này vào Việt Nam là dịch giả Phan Tất Đắc “Dạy
học nêu vấn đề” (theo Lecne, 1977). về sau, nhiều nhà khoa học nghiên cứu pp
này như Lê Khánh Bằng, Vũ Văn Tảo, Nguyễn Bá Kim Tuy nhiên, những
nghiên cứu này chủ yếu chỉ nghiên cứu cho phổ thông và đại học.
Gần đây, Nguyễn Kì đã đưa pp “Phát hiện và giải quyết Yấn đề” vào nhà
trường tiểu học và thực nghiệm ở một số môn như Toán, Tự nhiên - Xã hội, Đạo
đức.
Qua một thời gian khảo sát chúng tôi thấy việc nghiên cứu, vận dụng
PPDHTC “Đ & GQVĐ” đã được nhiều người quan tâm nhưng việc vận dụng vào
giảng dạy ở mọi cấp học, môn học vẫn chưa được đồng đều và đồng bộ.
Trong lí luận dạy học ở các môn học khác nhau được dùng với các thuật
ngữ khác nhau như: Nêu vấn đề, giải quyết vấn đề, nêu và giải quyết vấn đề, đặt
và giải quyết vấn đề, phát hiện và giải quyết vấn đề Tuy thuật ngữ có khác nhau
đôi chút nhưng đặc điểm của pp là đặt và giải quyết được Yấn đề và kết luận vấn
đề để rút ra kiến thức cần lĩnh hội hoặc áp dụng kiến thức vào thực tiễn.
Trong dạy học SH, đã xuất hiện một số GV nghiên cứu, vận dụng vào
giảng dạy như ở THCS có cô giáo Võ Thị Liễu - Trường THCS Mỹ Thủy đã đưa
ra sáng kiến kinh nghiệm “Sử dụng dạy học giải quyết vấn đề để dạy học các quy
luật di truyền của Men Đen”.
Ở trường THPT việc vận dụng pp “Đ & GQVĐ” vào giảng dạy bộ môn
SH vẫn còn hạn chế, đặc biệt là các bài có kiến thức trừu tượng như SH 11
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 9 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
chưa có thầy cô nào vận dụng. Vì vậy việc vận dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” vào
chương trình SH 11 là một trong những hướng mới mẻ trong quá trình đổi mới
PPDH, nâng cao chất lượng dạy - học môn SH ở trường THPT.
1.2. Cơ sở lí luận
1.2.1. Cơ sở triết học, tâm lí, giáo dục của dạy học “đặt và giải quyết vẩn
để”
Theo Nguyễn Bá Kim (Phương pháp dạy học đại cương môn Toán)
phương pháp “Đ & GQVĐ” dựa trên các cơ sở sau:
1.2.1.1. Cơ sở triết hoc
Theo triết học duy vật biện chứng “Mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của
sự phát triển”. Trong quá trình học tập của HS luôn luôn xuất hiện mâu thuẫn đó
là mâu thuẫn giữa yêu cầu, nhiệm vụ nhận thức với tri thức, kinh nghiệm sẵn có
của bản thân là động lực thúc đẩy ở HS. Dựa vào đó, trong quá trình dạy học GV
tạo ra cho HS những tình huống có Yấn đề (tức là tạo mâu thuẫn) đó chính là cơ
sở triết học của PPDHTC “Đ & GQVĐ”.
1.2.1.2. Cơ sở tâm lý học
Theo các nhà tâm lí học thì con người chỉ tư duy tích cực khi nảy sinh nhu
cầu tư duy, tức là đứng trước một khó khăn trong nhận thức, một tình huống có
Yấn đề sẽ làm con người có niềm say mê, hứng thú từ đó chủ động giải quyết vấn
đề, vượt qua khó khăn làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức. Đó chính là
quan điểm phù hợp YỚi PPDHTC “Đ & GQVĐ”.
1.2.1.3. Cơ sở giáo dục
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 10 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
PPDHTC “Đ & GQVĐ” dựa trên nguyên tắc tính tích cực, tự giác, độc lập
nhận thức của người học trong giáo dục bởi vì nó kích thích được động cơ học
tập của HS. Khi đó quá trình đào tạo được biến thành quá trình tự đào tạo.
1.2.2. Phương pháp dạy học tích cực “đặt và giải quyết vẩn đề”
I.2.2.I. Tình huống có vẩn đề
* Vẩn đề là gì ?
Theo Hoàng Phê (Từ điển Tiếng Việt), Yấn đề là điều cần được xem xét,
nghiên cứu, giải quyết, vấn đề chỉ có tính tương đối, ở thời điểm này thì nó là vấn
đề, nhưng ở thời điểm khác thì nó không còn là Yấn đề.
Ví dụ: Khi dạy về hô hấp ở động vật GV yêu cầu HS tìm hiểu và trả lời
câu hỏi: Ở động vật đơn bào, đa bào bậc thấp (chưa có cơ quan chuyên hô hấp)
có diễn ra quá trình hô hấp không? Nấu có thì hô hấp như thế nào?
Nếu câu hỏi này được đưa ra cho HS lớp 11 trước khi học về các hình thức
hô hấp ở động vật thì đó là câu hỏi làm xuất hiện vẩn đề. vấn đề là ở chỗ:
HS trả lời được ý thứ nhất là có diễn ra quá trình hô hấp. Nhưng ý thứ hai, HS
lúng túng khi chưa đủ tri thức để lí giải vì sao chưa có cơ quan chuyên hô hấp mà
vẫn diễn ra quá trình hô hấp?
Cũng câu hỏi đó nếu đưa ra cho HS lớp 11 sau khi học xong các hình thức
hô hấp thì HS chẳng gặp khó khăn gì vì đã có đủ tri thức để giải thích. Vậy là
vẩn đề không xuất hiện.
Nếu câu hỏi trên đưa ra cho HS lớp dưới, khi chưa được học về động vật
thì quá xa lạ và do đó các em sẽ rơi vào tình trạng “Vịt nghe sấm”.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 11 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
Trong lí luận nhận thức, vấn đề như là một phạm trù lôgic biện chứng, như
là sự hiểu biết về cái chưa biết, như là sự biến dạng của câu hỏi mà câu trả lời cho
nó không có sẵn trong tri thức đã có. vấn đề quy định hoạt động nghiên cứu, tìm
tòi để phát hiện tri thức mới hay áp dụng tri thức đã biết vào tình huống mới. vấn
đề chứa đựng trong tình huống có vấn đề, khi HS đã ý thức được sẽ phát triển
thành câu hỏi có vấn đề. Câu hỏi có vấn đề là một thu hoạch của HS nhờ quá
trình tư duy tích cực phân tích tình huống xảy ra.
Như vậy, vấn đề là một câu hỏi cuả chủ thể nhận thức nảy sinh trong tình
huống vốn hiểu biết cuả bản thân chưa đủ để giải thích, nhận thức các hiện tượng,
sự vật khách quan.
*Tình huống có vẩn đề
Theo M.I Macmutôp: “Tình huống có vấn đề là sự trở ngại về trí tuệ
cuả con người, xuất hiện khi người đó chưa biết cách giảithích hiện tượng, sự
kiện của quá trình thực tại, khi chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành
động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người tìm cách giải thích hay
xuất hiện hành động mới. Tình huống có Yấn đề là quy luật hoạt động nhận thức
một cách sáng tạo, có hiệu quả. Nó tạo ra sự mở đầu của tư duy, hoạt động tư duy
tích cực diễn ra trong quá trình nêu và giải quyết vấn đề”
Như vậy tình huống có vấn đề là một trạng thái tâm lí của chủ thể nhận
thức khi vấp phải một mâu thuẫn, một khó khăn về nhận thức. Mâu thuẫn và khó
khăn đó vượt qua khỏi giới hạn của tri thức Yốn có của chủ thể, bao hàm một
điều gì đó chưa biết, đòi hỏi một sự tìm tòi tích cực, sáng tạo.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 12 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
Theo Lí luận dạy học Sinh học của tác giả Đinh Quang Báo: Tình huống
có vấn đề được xác định bởi ba đại lượng sau:
- Kiến thức đã có ở chủ thể (W)
- Nhu cầu nhận thức (A)
- Đối tượng nhận thức (G)
Chủ thể cần có thêm hiểu biết mới về đối tượng G chưa có trong w.
Để có được một tình huống có vấn đề cần có mối quan hệ xác định chứ
không phải trong bất kì quan hệ nào giữa ba đại lượng trên. Đó là sự xuất hiện
mâu thuẫn khi kiến thức w về đối tượng G không đủ để thỏa mãn nhu cầu A.
Phản ứng định hướng của chủ thể nhận thức nhờ vào việc phân tích tình huống
xảy ra. Sự phân tích đó giúp thiết lập được mối quan hệ giữa kiến thức và kinh
nghiệm đã có với những mối liên hệ bên trong đối tượng nhận thức và kết quả là
hình thành được vấn đề, hay đặt được vấn đề cần giải quyết. Nếu chủ thể nhận
thức là HS thì đó chính là Yấn đề học tập.
Hay nói cách khác tình huống có Yấn đề là tình huống mà ở đó xuất hiện
một vấn đề như đã nói ở trên và vấn đề này vừa quen, vừa lạ đối với người học.
- Quen vì có chứa đựng những kiến thức có liên quan mà HS đã được học trước đó.
- Lạ vì mặc dù trông quen nhưng ngay tại thời điểm đó người học chưa thể giải
được.
Ví dụ: Khi GV đặt ra và yêu cầu HS giải quyết tình huống sau:
- Động vật đa bào bâc cao:
Có cơ quan chuyên hô hấp —*■ diễn ra quá trình hô hẩp.
- Động vật đơn bào, đa bào bậc thấp:
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 13 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
Chưa có cơ quan chuyên hô hấp —> cỏ diễn ra quá trình hô hấp không?
Vĩ sao?
Trong tình huống này khi đưa ra cho HS lớp 11 khi chưa học về các hình
thức hô hấp ở động vật thì HS thấy quen vì đã được học qua về động vật ở THCS
do vậy HS đã biết ở động vật cả đơn bào và đa bào chưa có cơ quan chuyên hô
hấp nhưng vẫn diễn ra quá trình hô hấp.
Nhưng HS chưa đủ tri thức để giải thích được vấn đề: Vì sao chưa có cơ
quan hô hấp mà vẫn xảy ra quá trình hô hấp?
Như vậy đây là một tình huống có vẩn đề.
* Các điều kiện tạo tình huống có vẩn đề
- Trong tình huống có vấn đề phải vạch ra được điều chưa biết, điều mới trong mối
quan hệ với cái đã biết. Trong đó cái mới phải lọt vào nhu cầu muốn biết (A), tạo
ra tính tự giác tìm tòi của HS. Điều cần nhấn mạnh là khi tạo tình huống, GV
phải cân nhắc tỷ lệ hợp lý giữa cái đã biết và cái chưa biết.
- Tình huống đặt ra phải phù hợp với khả năng của HS. Sự
phù hợp được hiểu theo hai khía cạnh. Một là, cái đã biết chứa đựng trong
đó giúp HS thiết lập được mối quan hệ với cái chưa biết mới tạo điều kiện
cho các em giải quyết. Liều lượng cái đã biết phải vừa đủ thì mới không
quá khó với HS. Hai là, cái đã biết không quá lớn, nếu lớn quá thì trở lên
quá dễ, không kích thích sự tìm tòi của người học. Tóm lại khó quá và dễ
quá đều không kích thích sự tìm tòi. Khó quá sẽ làm cho HS trở thành đàn
“Vịt nghe sấm”, dễ quá làm các em khinh thường, không hứng thú. Việc
xác định liều lượng hợp lí giữa cái đã biết và cái chưa biết đòi hỏi GV phải
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 14 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
có kinh nghiệm và nghệ thuật sư phạm. Có thể minh họa điều trên bằng YÍ
dụ sau:
Ví dụ: GV đặt ra và yêu càu HS giải quyết tình huống sau:
Khỉ tim ngừng đập —> Cơ thể chết Tỉm
cỏ ngừng đập? <— Khi cơ thể chết
Khi GV đưa ra tình huống này HS biết rõ một điều hiển nhiên là:
Khỉ tỉm ngừng đập —*■ Cơ thể chết, (đây là cái đã biết)
Nhưng khi GV lật lại: Khi cơ thể chết —*■ Tỉm cỏ ngừng đập?
HS tiếp nhận vấn đề, nhưng chưa thể đưa ra câu trả lời như vậy đây là
cái chưa biết, cái chưa biết này sẽ kích thích tính tò mò của HS.
Nếu GV đưa tình huống này ra cho HS lớp 11 trước khi học về tính tự
động của tim trong Bài 19: “Tuần hoàn máu” (tiếp theo) thì sẽ rất phù họp với
khả năng nhận thức của HS, HS ở trong tình huống có vấn đề. vấn đề ở chỗ: HS
luôn biết một điều khi tim ngừng đập thì cơ thể chết nhờ vào thực tế và qua kiến
thức đã biết ở lớp dưới. Nhưng khi GV đưa ra câu hỏi “Khi cơ thể chết —> tim
có ngừng đập?, HS lúng túng vì chưa đủ tri thức để trả lời, đồng thời gây được
hứng thú cho HS tìm tòi. Sau đó HS đề xuất giả thuyết dựa vào kiến thức hiểu
biết khi tìm hiểu về tính tự động của tim để tìm ra câu trả lời.
Nhưng cũng là tình huống này sẽ là không phù hợp nếu GV đặt ra cho HS
khi đã học xong Bài 19: “Tuần hoàn máu” (tiếp theo). Khi đó HS đã biết rõ câu
trả lời, tình huống này sẽ trở lên quá dễ, không kích thích tính tìm tòi của HS.
Khi đó tình huống này không còn là tình huống có vấn đề nữa.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 15 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
Nếu tình huống trên đặt ra cho HS lớp dưới, sẽ trở thành tình huống quá
khó, HS không thể trả lời được. Đó sẽ là tình huống không cỏ vẩn đề.
I.2.2.2. Các bước tạo tình huống có vẩn đề
Bước 1: Tái hiện tri thức đã có ị
Bước 2: Nêu ra sự kiện, hiện tượng mâu thuẫn với cái đã có
ị
Bước 3: Phát biểu vân đê đặt ra dưới dạng câu hỏi nêu vân đê
- Việc tái hiện tri thức đã có thường liên quan đến tình huống sắp giải quyết.
Trong các tiết lên lớp, công việc này có thể thực hiện bằng các kỹ thuật
khác nhau như: Ra câu hỏi kiểm tra bài cũ, tổ chức ôn tập trước những vấn
đề có liên quan đến điều sắp học.
- Nêu ra các sự kiện, hiện tượng mâu thuẫn với tri thức đã có bằng lời giảng
của thày, bằng thí nghiệm, biểu diễn vật mẫu bằng bài toán, bằng công tác
tự lực với SGK, tài liệu tham khảo Kỹ thuật tạo mâu thuẫn có nhiều
cách:
+ Mâu thuẫn có thể là sự không phù hợp giữa cái đã biết và cái chưa biết.
Ví dụ: Khi dạy bài 1: “Sự hấp thụ nước và muối khoáng ở rễ” GV đặt
vấn đề: “Vì sao cây mọc cố định tại một chỗ lại có thể tìm hút được nước và
muối khoáng ở trong đất cách vị trí của nó tới hàng chục km?”
+ Mâu thuẫn giữa tri thức khoa học đã có với thực tiễn đa dạng.
Ví dụ. Khi dạy bài 18: “Tuần hoàn máu”, GV thông báo: “Trong cơ thể
có khoảng 5 lít máu. Với lượng máu đó có thể hòa tan 100 ml ôxi. Khi nghỉ ngơi
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 16 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
hoàn toàn cơ thể tiêu dùng ít năng lượng mà cũng cần tới 10 - 12 lít ôxi trong 1
giờ. Còn khi lao động mạnh nhu cầu đó có thể lên tới 60 - 120 lít. Như vậy nhu
cầu ôxi tối thiểu của cơ thể đã gấp 100 lần lượng ôxi hòa tan trong máu, chưa nói
đến khi cơ thể hoạt động mạnh”. Mâu thuẫn YỚi một điều HS đã biết là cơ thể
không thể sản sinh ra một lượng máu như thế trong một giờ.
+ Mâu thuẫn có thể là một nghịch lý, một bất ngờ, một cái gì không bình
thường so YỚi cách hiểu cũ của HS.
Vỉ dụ: Khi dạy bài 19: “Tuần hoàn máu" (tiếp theo), GV khẳng định: Khi
tim ngừng đập —> Cơ thể chết. GV cho HS quan sát thí nghiệm: cắt rời tim ếch
ra khỏi cơ thể, nuôi trong điều kiện thích hợp, tim ếch vẫn có khả năng co giãn
nhịp nhàng. Nghịch lí là: Cơ thể chết —> Tim vẫn đập.
+ Mâu thuẫn cũng có thể là một sự kiện, một hiện tượng mới mà HS
không giải thích được trên cái Yốn hiểu biết đã có.
Ví dụ: Khi dạy bài 19: “Tuần hoàn máu" (tiếp theo), GV đưa ra tình
huống: Tim người có khối lượng chừng 300g mà sản ra một lượng công rất lớn
vẫn đảm bảo hoạt động liên tục suốt cả đời người để cung cấp máu cho cơ thể.
Trong 24h, riêng tâm thất phải sản ra một công khoảng 170 - 180 nghìn kilojun.
Công đó tương đương một cằn cẩu nâng một vật nặng một tấn lên độ cao bằng
tầng thượng nhà 5 tầng, mà không mệt mỏi.
+ Mâu thuẫn cũng nảy sinh khi HS phải lựa chọn một phương án giải
quyết khác nhau mà xem ra phương án nào cũng có vẻ hợp lí.
- Vấn đề đặt ra càn được phát biểu dưới dạng câu hỏi nêu Yấn đề. Trong
trường hợp GV để HS tự phát hiện ra vấn đề thì không cần bước này.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 17 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
Yêu cầu câu hỏi nêu vấn để:
+ Chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, đòi hỏi học sinh phải tư duy, huy động
và vận dụng các kiến thức đã có (nghĩa là câu hỏi phản ánh được mối liên hệ bên
trong giữa điều đã biết và điều chưa biết).
+ Chứa đựng phương hướng giải quyết vấn đề, thu hẹp phạm vi tìm kiếm
câu trả lời, tạo điều kiện làm xuất hiện giả thuyết, tạo điều kiện tìm ra được con
đường giải quyết.
+ Gây được cảm xúc mạnh đối YỚi học sinh khi nhận ra mâu thuẫn nhận
thức liên quan tới Yấn đề.
1.2.2.3. Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vẩn đề
*Dạy học đặt và giải quyết vẩn đề là một phương pháp dạy học
Hiện nay có rất nhiều ý kiến khác nhau về dạy học đặt và giải quyết Yấn
đề, có người cho rằng đây là một quan điểm dạy học nhưng có người lại cho rằng
đây là một PPDH. Dù là quan điểm dạy học hay PPDH thì nó đều là cách thức
truyền đạt của thầy tạo ra mối quan hệ qua lại YỚi hoạt động của trò để đạt mục
đích dạy học. Tác giả cuốn Lí luận dạy học Sinh học (đại cương) Đinh Quang
Báo cho rằng dạy học đặt và giải quyết vấn đề là một phân hệ của PPDH vì nó
tập hợp nhiều PPDH cụ thể thành một chỉnh thể nhằm đạt mục đích sư phạm là tổ
chức hoạt động nhận thức sáng tạo của HS để các em vừa tiếp thu được kiến
thức, vừa hình thành được kinh nghiệm, kĩ năng trên cơ sở tìm tòi, nghiên cứu.
Tuy vậy, “Đặt và giải quyết vẩn đề” có thể được hiểu như
một PPDH vì trong pp này bài toán được đặt ra để tạo tình huống có vấn đề là
thành tố chính, HS tiếp nhận và phát hiện ra vấn đề, đồng thời có sự trao đổi qua
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 18 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
lại giữa GV và HS để giải quyết vấn đề. Ở phương pháp này trò không tiếp thu
bài một cách thụ động, mà ở một mức độ tích cực sáng tạo nhất định tìm ra kiến
thức mới. Do đó PPDH “Đ & GQVĐ ” là PPDHTC. Trong quá trình dạy học GV
hướng HS giải quyết Yấn đề nhờ sự hỗ trợ của các phương pháp khác như:
Thuyết trình, thí nghiệm, trao đổi, quan sát, làm việc với SGK, hoạt động nhóm
Dạy học đặt và giải quyết vấn đề có thể xâm nhập vào các phương pháp khác để
“kích” các phương pháp đó lên một thế năng cao hơn trong việc kích thích tính
tích cực, tự lực giành lấy kiến thức của HS.
* Bản chất của dạy học đặt và giải quyết vẩn đề
Bản chất của PPDHTC “Đ & GQVĐ” là đặt người học trước những vấn
đề của nhận thức - học tập có chứa mâu thuẫn giữa “cái đã cho” và “cái phải tìm”
rồi đưa người học vào tình huống có Yấn đề để kích thích người học tự giác, có
nhu cầu giải quyết vấn đề. PPDHTC “Đ & GQVĐ” chính là hướng dẫn hoạt
động tìm kiếm và tiếp thu tri thức mới bằng con đường giải quyết vấn đề học tập
một cách sáng tạo.
Để có thành công trong quá trình DH “Đ & GQVĐ” cần áp dụng một tổ
hợp PPDH phức hợp. Trong đó các PPDH liên kết và tương tác với nhau chứ
không phải là dùng một phương pháp đơn nhất.
Trong PPDH “Đ & GQVĐ” việc tạo tình huống có vấn đề giữ vai trò
trung tâm, chủ đạo. PPDH “Đ & GQVĐ” dựa trên nguyên tắc hoạt động nhận
thức - học tập tìm kiếm, tức là nguyên tắc mở ra cho người học những kết luận
khoa học, những pp hoạt động, sự mô tả đối tượng mới hoặc những cách bổ sung
tri thức vào thực tiễn Mục đích của PPDHTC “Đ & GQVĐ” là giúp người học
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 19 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
nắm vững không chỉ những kết quả nhận thức khoa học, hệ thống tri thức mà cả
con đường, quá trình thu nhận các kết quả đó, hình thành tính tích cực nhận thức
và phát triển khả năng sáng tạo của người học.
* Các mức độ đặt và giải quyết vấn đề
PPDH “Đ & GQVĐ” giúp HS tập dượt khả năng phát hiện nhanh và giải
quyết hợp lí các vấn đề đặt ra, thích ứng được YỚi sự phát triển của xã hội hiện
đại.
Căn cứ vào mức độ tích cực của HS người ta chia ra làm 4 mức độ của
dạy học đặt và giải quyết vấn đề:
Các mức
độ
Đặt vân đê
Nêu giả
thuyết
Lập kê
hoạch
Giải quyêt
r y À
1A
van đê
Kêt luận
1 GV GV GV GV GV
2 GV GV GV GV GV&HS
3 GV&HS GV&HS HS HS GV & HS
4 HS HS HS HS GV&HS
Trong thực tế giảng dạy giáo viên vận dụng ở mức 1, một số giáo viên
vận dụng ở mức 2, các mức độ này nó hạn chế ở chỗ HS ít tính sáng tạo trong
việc phát hiện và giải quyết Yấn đề, chủ yếu là làm việc dưới sự hướng dẫn của
GV, vì vậy không rèn luyện được khả năng phát hiện nhanh các vấn đề đặt ra và
thiếu tính sáng tạo trong giải quyết vấn đề, đồng thời không phù hợp với giáo
dục hiện nay.
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 20 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
Thông thường dạy học ở mức 1 và 2 chỉ dành cho HS yếu và có năng lực
tiếp thu chậm, còn những HS ở đối tượng trung bình trở lên có khả năng tiếp thu
bài nhanh hơn ta nên vận dụng mức 3 là phù hợp ở mức này đảm bảo được định
hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, rèn luyện cho HS
khả năng phát hiện nhanh các vấn đề và giải quyết vấn đề một cách hợp lí và
chính xác giúp các em vận dụng trong cuộc sống hiện tại và tương lai.
Tuy nhiên trong một lớp học có nhiều đối tượng HS có trình độ khác nhau,
vì vậy tùy từng nội dung dễ hay khó mà phối hợp các mức độ cho họp lí.
* ưu điểm, nhược điểm của phương pháp dạy học đặt và giải quyết vẩn đề
+ Ưu điểm: Sinh học là một bộ môn thực nghiệm do đó:
- Khi áp dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” vào dạy học SH không chỉ trang bị
cho HS vốn kiến thức về thế giới khách quan mà còn rèn luyện cho các em
các kĩ năng như: Quan sát, làm thí nghiệm và phát triển năng lực tư duy
như: Phân tích, tổng hợp, so sánh. Từ đó hình thành cho các em nhân cách
con người.
- PPDH “Đ & GQVĐ” góp phàn quan trọng trong việc phát triển cơ bản của
người lao động đó là năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo. Năng
lực giải quyết Yấn đề là năng lực cần thiết cần phát triển ở HS, chuẩn bị
hành trang cho người học đối diện, giải quyết những vấn đề nảy sinh trong
cuộc sống.
- Trong dạy học “Đặt và giải quyết Yấn đề”: Kiến thức, kĩ năng được hình
thành ở HS một cách sâu sắc, vững chắc đặc biệt là các kiến thức trừu
tượng ở SH 11. Nhưng quan trọng hơn là HS biết cách chủ động chiếm
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 21 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
lĩnh kiến thức và đánh giá được kết quả học tập của bản thân mình và của
người khác. Thông qua đó các năng lực cơ bản đã được hình thành trong
đó có năng lực vận dụng tri thức để giải quyết Yấn đề thực tiễn một cách
linh hoạt và sáng tạo.
+ Nhược điểm: Mặc dù có nhiều ưu điểm nhưng hiện nay PPDH “Đ &
GQVĐ” vẫn chưa được nhiều GV sử dụng trong dạy học SH do pp này còn có
một số nhược điểm sau:
- Trong bộ môn SH, để thực hiện theo đúng quy trình của pp GV phải đầu
tư nhiều thời gian do trong SH 11 chủ yếu là các kiến thức quá trình sinh
lí đòi hỏi nhiều thời gian thực hiện.
- Khi học môn SH có áp dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” HS cần có thói quen
và khả năng tự học và học tập tự giác tích cực thì mới đạt hiệu quả cao.
- Trong một số trường hợp cần có thiết bị dạy học và các điều kiện cần thiết
đi kèm thì PPDH “Đ & GQVĐ” mới có hiệu quả như: Kết hợp pp thực
hành thí nghiệm vào giải quyết vấn đề cần có các dụng cụ thí nghiệm đi
kèm để tiến hành thí nghiệm.
1.3. Cơ sở thưc tiễn của đề tài
1.3.1. Muc tiêu
Điều tra thực trạng ứng dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” vào dạy học SH
11 đối với GV THPT.
Điều ưa việc ứng dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” vào soạn và học các bài
trong SH 11 đối với HS.
1.3.2. Nội dung điều tra
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 22 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
Quan niệm về tầm quan trọng của SHI 1 THPT (CTC).
Tần suất ứng dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” vào dạy - học SH 11 (CTC).
Tính khả thi của việc ứng dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” vào dạy - học SH
11 (CTC).
Hứng thú của HS trong giờ học có ứng dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” vào
dạy - học.
Những thuận lợi và khó khăn khi ứng dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” vào
dạy-học SH 11 (CTC).
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 23 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
1.3.3. Phương pháp điều tra
Chúng tôi đã tiến hành điều tra việc ứng dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” vào
dạy và học SH 11 (CTC) bằng phiếu điều tra YỚi các câu hỏi trắc nghiệm và các
câu hỏi mở (xem phiếu điều tra số 1, số 2 - phụ lục).
Tiến hành điều tra GV dạy bộ môn SH và HS lớp 11A
7
và HS lớp 11 Ag
tại trường THPT Tây Tiền Hải thuộc huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
1.3.4. Kết quả điều tra
Bảng 1-1: Kết quả điều tra ý kiến GV Trường THPT Tây Tiền Hải về
ứng dụng PPDHTC “Đ & GQVĐ” vào thiết kế và dạy SH 11 (CTC).
Phương pháp thường xuyên sử dụng
Qua phân tích các phiếu điều tra cho thấy:
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 24 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY
Sinh học lớp 11 - THPT
(25%)
Phương
pháp hiệu
quả nhất
Khôn
g
quan
trọng:
0
(0%)
Bình
thường:
3
(75%)
Quan
trọng:
1
(25%)
2
(50%)
Số
giáo
viên
được
điều
tra:
4
1
(25%)
Bài
kiểm
tra: 0
(0%)
Bài
lên
lớp: 4
(100%
)
Bài
ôn
tập:
0
(0%)
Tiết
kiệm
: 0
(0%)
Tôn
thời
gian: 4
(100%)
PPDHTC “Đặt và giải quyết vấn đề’
pp đặt và giải quyêt
vấn đề: 0 (0%)
pp trực quan: 2
(50%)
pp dùng lời: 2
(50%)
Bình
thường: 0
(0%)
Thời gian
Đa số các thầy cô giáo đều cho rằng PPDHTC “Đ & GQVĐ” đem lại hiệu
quả cho bài lên lớp nghiên cứu tài liệu mới, đưa HS học tập tích cực,
Khóa luận tốt nghiệp Lớp K35B - Sinh
SVTH: PHAN THỊ HÒNG 25 GVHD: TH.S AN BIÊN THỦY