Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 122 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




QUÁCH THỊ HƯƠNG GIANG






CHẾ TÀI ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2011





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




QUÁCH THỊ HƯƠNG GIANG




CHẾ TÀI ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Huy Cương






HÀ NỘI - 2011



MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: KHÁI LUẬN VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
6
1.1.
Khái niệm chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh

6
1.1.1.
Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
6
1.1.2.
Khái niệm, vai trò của chế tài đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh
13
1.2.
Căn cứ áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không
lành mạnh
20
1.2.1.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
20
1.2.2.
Thiệt hại trong cạnh tranh không lành mạnh
21
1.2.3.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành
mạnh và thiệt hại
22
1.2.4.
Lỗi trong cạnh tranh không lành mạnh
23
1.3.
Các hình thức chế tài đối với hành vi cạnh tranh không
lành mạnh
25
1.3.1.

Chế tài hành chính
25
1.3.2.
Chế tài hình sự
27
1.3.3.
Chế tài dân sự
32
1.3.4.
Mối quan hệ giữa các hình thức chế tài
36

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẾ TÀI
ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH
41
2.1.
Nguồn của pháp luật về chế tài đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh
41
2.1.1.
Luật Cạnh tranh
41
2.1.2.
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
42
2.1.3.
Bộ luật Dân sự
43
2.1.4.

Bộ luật Hình sự
43
2.2.
Thực trạng áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh tại Việt Nam
48
2.2.1.
Thực tiễn cạnh tranh không lành mạnh và vấn đề xử lý vi
phạm ở Việt Nam hiện nay
49
2.2.1.1.
Thực tiễn cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường Việt Nam
49
2.2.1.2.
Thực tiễn áp dụng các chế tài xử lý hành vi cạnh tranh
không lành mạnh ở nước ta trong thời gian gần đây
74
2.2.2.
Nguyên nhân của việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành
mạnh còn kém hiệu quả ở nước ta hiện nay
80

Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH
89
3.1.
Yêu cầu hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam
89

3.1.1.
Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
89
3.1.2.
Yêu cầu hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới
91
3.2.
Những định hướng phát triển và hoàn thiện pháp luật về chế
tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam
94
3.2.1.
Xu hướng pháp luật và việc sử dụng các chế tài đối với hành
vi cạnh tranh không lành mạnh của các nước trên thế giới
94
3.2.2.
Định hướng hoàn thiện pháp luật về chế tài đối với những
hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam
98
3.3.
Những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
99
3.3.1.
Hoàn thiện thể chế pháp lý, thiết lập chế tài đối với hành vi
cạnh tranh không lành mạnh một cách có hệ thống và đồng bộ
99
3.3.2.
Nâng cao năng lực của Nhà nước trong việc quản lý hoạt
động cạnh tranh và thực thi pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh

108
3.3.3.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao
văn hoá pháp lý cho các chủ thể tham gia cạnh tranh và
người tiêu dùng
109

KẾT LUẬN
110

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
113


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, phát triển nền kinh tế thị
trường, đòi hỏi pháp luật giữa các nước phải có những chuẩn mực tương đồng
cần thiết để đảm bảo quyền tự do kinh doanh và trật tự kinh doanh trong giao
lưu kinh tế quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế,
Việt Nam đang dần hoàn thiện thể chế pháp lý, tạo ra khung pháp lý cơ bản
của thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hợp tác và phát triển.
Một trong những quy luật kinh tế khách quan tác động mạnh mẽ lên
sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp là quy luật cạnh tranh. Đó cũng
là đòn bẩy, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp khai thác và sử dụng tiềm
năng, nội lực của mình cùng với các yếu tố của thị trường một cách có hiệu
quả. Cạnh tranh trong kinh doanh là quyền cơ bản của các chủ thể kinh doanh
trên thị trường và được pháp luật bảo hộ. Nhưng trong "cuộc chiến" tranh giành

thị trường, không thể tránh khỏi tình trạng một số doanh nghiệp bị đào thải do
không kịp thích ứng hoặc không thể đối phó. Vì thế, bên cạnh những "nghệ
thuật" cạnh tranh, các doanh nghiệp cũng không loại trừ "thủ thuật". Hậu quả
do các hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra không chỉ ảnh hưởng đến
lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh doanh, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng
đến lợi ích của người tiêu dùng và trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước.
Điều 28 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 (sửa đổi) đã khẳng định: "Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh bất hợp
pháp, mọi hành vi phá hoại nền kinh tế quốc dân, làm thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý
nghiêm minh theo pháp luật. Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi của
người sản xuất và người tiêu dùng". Ngày 03 tháng 12 năm 2004, Luật Cạnh
tranh đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 6 năm

2
2005. Với tư cách là công cụ pháp lý được sử dụng để loại bỏ các biểu hiện
không lành mạnh trên thị trường, điều chỉnh mặt trái của cạnh tranh, đạo luật
này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ sự lành mạnh và khả năng phát
triển của nền kinh tế trong nước, bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tạo lập môi
trường kinh doanh bình đẳng, không phân biệt đối xử, khuyến khích các chủ
thể kinh doanh cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
doanh và thúc đẩy tiến trình toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng, hiệu quả.
Luật Cạnh tranh đã pháp điển hoá các quy định về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh và đã có những quy định xử lý vi phạm pháp luật về cạnh
tranh. Tuy nhiên, sau hơn 5 năm thực hiện, Luật Cạnh tranh vẫn chưa đạt
được hiệu quả như mong muốn. Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường,
sự đa dạng hoá của các thành phần kinh tế cùng với việc hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế khu vực và thế giới, nhiều hành vi cạnh tranh không lành
mạnh đã phát sinh mà chưa có biện pháp đấu tranh có hiệu quả. Các chế tài
vẫn chưa đủ mạnh để kiểm soát và loại bỏ các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh của các chủ thể kinh doanh. Luật Cạnh tranh năm 2004 được đánh giá
là một đạo luật thiếu chế tài đối với từng hành vi vi phạm cụ thể. Chế tài xử lý
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh vẫn nằm rải rác ở các văn bản pháp
luật khác nhau, kể cả các văn bản dưới Luật. Thực tế đó đã dẫn đến tình trạng
cạnh tranh không lành mạnh vẫn biểu hiện ở khía cạnh này, khía cạnh khác,
dưới dạng này, dạng khác, đã gây ra nhiều tranh chấp trong giới kinh doanh
và ảnh hưởng đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước.
Vì thế, việc nghiên cứu và luận giải các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh cùng với các quy định về chế tài xử lý vi phạm là rất cần thiết, qua đó
định hướng các giải pháp đảm bảo hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh theo hướng thiết lập các chế tài phù hợp, đầy đủ, thống nhất
và đủ tính nghiêm khắc. Đó cũng là lý do mà tôi lựa chọn đề tài "Chế tài đối
với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam" để
nghiên cứu và làm luận văn thạc sỹ Luật học của mình.

3
2. Tình hình nghiên cứu
Kể từ khi Luật Cạnh tranh năm 2004 được ban hành và có hiệu lực
đến nay, đã hơn 5 năm thực hiện. Vì thế, sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
trong giới luật học và giới kinh doanh về vấn đề đó cũng không phải là ít. Đã
có nhiều công trình nghiên cứu và nhiều bài viết về pháp luật cạnh tranh nói
chung và chống cạnh trạnh không lành mạnh nói riêng như: Pháp luật cạnh
tranh tại Việt Nam (Sách chuyên khảo) - NXB Tư pháp - TS. Lê Danh Vĩnh,
Hoàng Xuân Bắc, ThS. Nguyễn Ngọc Sơn; Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo
hộ sản xuất trong nước - NXB Lao động - PTS. Lê Đăng Doanh, ThS. Nguyễn
Thị Kim Dung, PTS. Trần Hữu Hân; Pháp luật về chống cạnh tranh không
lành mạnh ở Việt Nam - NXB Chính trị Quốc gia - TS. Lê Anh Tuấn; Bình
luận khoa học Luật Cạnh Tranh - NXB Chính trị Quốc gia - TS. Lê Hoàng
Oanh; Luận văn thạc sỹ Luật học "Xây dựng pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay", năm 2004 của Nguyễn Thị Thu

Hiền… Các bài đăng trên tạp chí như: "Thực thi pháp luật cạnh tranh trong
viễn thông: Hiểu thế nào cho đúng?" của TS. Phan Thảo Nguyên, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật số 12(224)/2006; "Về thoả thuận hạn chế cạnh tranh"
của tác giả Trần Thị Nguyệt, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1(237)/2008;
"Hoàn thiện các quy định pháp luật về cạnh tranh của các tổ chức có hoạt
động ngân hàng trong bối cảnh hội nhập quốc tế nhìn từ góc độ những bất
cập và yêu cầu đặt ra", của tác giả Viên Thế Giang, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 4(240)/2008; "Bàn về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi
có hành vi gây thiệt hại cho môi trường cạnh tranh" của TS. Dương Anh Sơn
và ThS. Nguyễn Ngọc Sơn, Tạp chí Khoa học pháp lý số 1(50)/2009… Tuy
nhiên, các công trình và các bài viết nêu trên chỉ tiếp cận ở góc độ khái quát
về khoa học pháp lý đối với quan hệ cạnh tranh nói chung và chống cạnh
tranh không lành mạnh nói riêng, hoặc nghiên cứu quan hệ cạnh tranh trong
từng lĩnh vực, dưới những góc độ khác nhau. Nhưng chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách tổng thể và chuyên sâu về các chế tài xử lý vi phạm

4
pháp luật cạnh tranh, đánh giá những bất cập của hệ thống các chế tài và cơ
chế đảm bảo thực hiện để đề xuất các biện pháp hoàn thiện pháp luật nhằm
ngăn chặn và xoá bỏ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong các quan
hệ kinh tế đang diễn ra trên thị trường Việt Nam hiện nay.
Đề tài "Chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
theo quy định của pháp luật Việt Nam" có thể xem là công trình chuyên
khảo đầu tiên, với cấp độ là Luận văn thạc sỹ Luật học.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
và các chế tài xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh theo quy định của pháp
luật Việt Nam, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật cạnh tranh và chống cạnh
tranh không lành mạnh. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh, góp phần đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh
doanh - thương mại.
Với mục đích đó, đề tài xác định nhiệm vụ là:
- Làm rõ lý luận về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh nhằm xây dựng môi trường kinh doanh trong sạch, bình đẳng, bảo vệ
quyền tự do kinh doanh và quyền lợi của người tiêu dùng.
- Phân tích và đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành về chế
tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh; thực tiễn cạnh tranh không
lành mạnh ở nước ta và vấn đề xử lý vi phạm.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh thực tế của nước ta và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
của khoa học pháp lý đối với các quan hệ cạnh tranh, đi sâu phân tích các

5
hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các chế tài xử lý các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trên thị trường Việt Nam, làm cơ sở để hoàn thiện
pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh của nước ta.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử. Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng
hợp và đánh giá, kết hợp so sánh, đối chiếu với pháp luật cạnh tranh của một
số nước trên thế giới để đưa ra kiến nghị và giải pháp mang tính thực tiễn và
khả thi.
5. Đóng góp của đề tài
Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn thi hành pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh ở nước ta, đánh giá về hiệu quả của các chế tài xử lý
vi phạm pháp luật cạnh tranh trong quá trình áp dụng, so sánh với pháp luật
một số nước trên thế giới, từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý

vi phạm, các giải pháp hạn chế, tiến tới xoá bỏ các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trên thị trường Việt Nam, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng,
công bằng, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái luận về chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về chế tài đối với các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chế tài đối với
hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

6
Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ CHẾ TÀI
ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

1.1. KHÁI NIỆM CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH
1.1.1. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh là một hiện tượng xã hội diễn ra trên thị trường giữa các
chủ thể kinh doanh với nhau, biểu hiện về mặt hình thức là sự ganh đua, kình
địch giữa các doanh nghiệp nhằm mục đích tranh giành thị trường mua hoặc
bán sản phẩm. Cạnh tranh là sức mạnh mà hầu hết các nền kinh tế thị trường
dựa vào để đảm bảo rằng các doanh nghiệp thoả mãn được các nhu cầu và
mong muốn của người tiêu dùng. Khi có cạnh tranh, không một chính phủ
nào cần phải quy định các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng gì, với số lượng,
chất lượng và giá cả như thế nào. Quan hệ cạnh tranh trực tiếp quy định
những vấn đề đó với các doanh nghiệp. Như vậy, cạnh tranh chỉ tồn tại trong
nền kinh tế thị trường.

Hành vi cạnh tranh được các doanh nghiệp thực hiện để đạt được một
mục đích kinh tế đã xác định (thường là "cung" hàng hoá hoặc dịch vụ đáp
ứng những nhu cầu tương tự hoặc gần nhau), thông qua việc lôi cuốn khách
hàng của nhau. Nói cách khác, ý nghĩa của cạnh tranh là đảm bảo quyền chọn
lựa của khách hàng. Dù là một nhà máy lọc dầu mua dầu thô, một dây chuyền
các trạm xăng mua xăng hay một cá nhân người lái xe muốn đổ đầy bình xăng
của mình, nếu học được cách chọn lựa các nhà cung cấp khác nhau thì họ sẽ
có nhiều khả năng mua được những sản phẩm có chất lượng cao và giá cả hợp lý
nhất. Vì vậy, yếu tố quan trọng khi xác định hành vi cạnh tranh là "khách hàng
thường xuyên", đó là khách hàng chung của các doanh nghiệp cạnh tranh. Việc

7
mất đi một khách hàng thường xuyên được coi là một dạng thiệt hại trong
cạnh tranh, do đó các doanh nghiệp đã tìm mọi cách để hạn chế thiệt hại này.
Tuy nhiên, việc lôi cuốn khách hàng của nhau bằng những biện pháp cạnh
tranh bình đẳng, không phân biệt đối xử, mới được pháp luật thừa nhận và
bảo hộ. Nói cách khác, các doanh nghiệp có quyền sử dụng tất cả các biện
pháp mà pháp luật không cấm để thu hút, lôi kéo khách hàng về phía mình.
Trong trường hợp đó, doanh nghiệp bị thiệt hại do mất đi một lượng khách hàng
thường xuyên sẽ không có căn cứ pháp lý để khởi kiện đòi bồi thường thiệt
hại đối với doanh nghiệp đối thủ. Luật Cạnh tranh của Việt Nam cũng ghi
nhận quyền cạnh tranh trong kinh doanh phù hợp với quy định của Hiến pháp
năm 1992 về quyền tự do kinh doanh và phù hợp với Luật Thương mại năm
2005 điều chỉnh trực tiếp các hoạt động thương mại trên thị trường Việt Nam.
Để đảm bảo cho hoạt động cạnh tranh được diễn ra một cách khách quan
trên thị trường nhưng trong khuôn khổ pháp luật, các Chính phủ chỉ tác động
bằng các chính sách cạnh tranh cơ bản như: Các quy định về an toàn và sức
khoẻ; Bảo vệ người tiêu dùng và chống cạnh tranh không công bằng, lừa dối
hoặc thiếu đạo đức đối với người tiêu dùng; Bảo vệ quyền cạnh tranh, chống các
hoạt động độc quyền để đảm bảo sự cạnh tranh thực sự giữa các doanh nghiệp…

Các quy định điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh là một
nội dung quan trọng trong pháp luật cạnh tranh. Dưới góc độ pháp lý, cạnh
tranh không lành mạnh được pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia
định nghĩa khác nhau. Theo Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp năm 1883 thì bất cứ hành vi cạnh tranh nào trái với hoạt động thực tiễn
trung thực, thiện chí trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại đều bị coi là
hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Điều 10bis - được bổ sung vào Công ước
từ năm 1900 và được sửa đổi lần cuối theo văn bản Stockholm năm 1967).
Như vậy, tiêu chí đánh giá tính lành mạnh hay không lành mạnh của
Công ước về hành vi cạnh tranh là "hoạt động thực tiễn trung thực, thiện chí".

8
Đó là một tiêu chí khó định lượng và có thể thay đổi, có những khác biệt giữa
các quốc gia, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, quan niệm, tập quán…
Tại Bỉ và Luxembourg, tiêu chí đó là "thông lệ thương mại trung thực"; tại
Tây Ban Nha và Thuỵ Sĩ là "nguyên tắc ngay tình"; tại Italia là "tính chuyên
nghiệp đúng đắn"; tại Đức, Hy Lạp và Ba Lan là "đạo đức kinh doanh".
Luật Cạnh tranh của Mông Cổ quy định, hành vi cạnh tranh không
lành mạnh bao gồm tất cả các hành vi xâm hại tới hoạt động cạnh tranh trên
thị trường, xâm hại tới quyền tự do cạnh tranh công bằng của các doanh
nghiệp. Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh của Cộng hoà liên bang Đức
năm 1909 (sửa đổi lần cuối cùng ngày 23/7/2002) lại quy định: "Người nào
trong giao dịch kinh doanh vì mục đích cạnh tranh mà thực hiện các hành vi
trái với thuần phong mỹ tục, thì có thể bị yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm
và bồi thường thiệt hại". Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Trung
Quốc xác định cạnh tranh không lành mạnh là các hoạt động của doanh nghiệp,
của các chủ thể kinh doanh thực hiện trái pháp luật, gây thiệt hại cho quyền lợi
chính đáng của doanh nghiệp khác, làm rối loạn trật tự kinh tế - xã hội.
Luật Cạnh tranh của Việt Nam đưa ra định nghĩa:
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh

của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn
mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng [42, Khoản 4, Điều 3].
Đó là dạng hành vi có tác động trực tiếp và gây hậu quả xấu đối với hoạt
động kinh doanh bình thường của các doanh nghiệp và quyền lợi hợp pháp của
người tiêu dùng. Tại Điều 39 của đạo luật này cũng đã liệt kê một số loại hành vi
được coi là cạnh tranh không lành mạnh như: chỉ dẫn gây nhầm lẫn; xâm phạm
bí mật kinh doanh; ép buộc trong kinh doanh; gièm pha doanh nghiệp khác; gây
rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác; quảng cáo nhằm cạnh tranh

9
không lành mạnh; khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh; phân biệt đối
xử của hiệp hội; bán hàng đa cấp bất chính và các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh khác theo tiêu chí xác định tại Khoản 4, Điều 3 của Luật Cạnh tranh.
Dựa vào các khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói
trên, có thể phân chia hành vi cạnh tranh không lành mạnh dưới góc độ xem
xét lợi ích của chủ thể bị xâm hại, gồm: hành vi xâm hại lợi ích của đối thủ
cạnh tranh và hành vi xâm phạm lợi ích của khách hàng. Cho dù có nhiều
cách hiểu khác nhau nhưng bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không
lành mạnh là hành vi trái với các chuẩn mực trung thực, lành mạnh trong quan
hệ thương mại, gây thiệt hại chủ yếu đến doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh
trên thị trường liên quan. Dưới góc độ kinh tế, "bản chất của hành vi cạnh
tranh không lành mạnh là các hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh của doanh
nghiệp khác một cách bất hợp pháp hoặc là hành vi huỷ hoại ưu thế cạnh tranh
của doanh nghiệp khác hoặc là hành vi tạo ra ưu thế cạnh tranh giả tạo" [29].

Từ các khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, có thể thấy
hành vi cạnh tranh không lành mạnh có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh là

các chủ thể kinh doanh trên thương trường.
Điều 2 của Luật Cạnh tranh đã xác định rõ đối tượng áp dụng của Luật
này là các tổ chức, cá nhân kinh doanh (gọi chung là doanh nghiệp) thuộc mọi
thành phần kinh tế khác nhau, bao gồm doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản
phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực
thuộc độc quyền nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam
cũng như các hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam.
Đặc điểm này phản ánh phạm vi đối tượng thực hiện các hành vi cạnh
tranh và cạnh tranh không lành mạnh, xảy ra trong mọi lĩnh vực kinh tế, trên tất
cả các khâu, các công đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh. Trên thị trường
cạnh tranh, hành vi kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là hành vi

10
cạnh tranh trong mối quan hệ tương quan với doanh nghiệp khác. Mặt khác, hoạt
động kinh doanh là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi và được thực hiện trên thị
trường. Như vậy, hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải là những hành vi
được các doanh nghiệp thực hiện trên thị trường, trái với các chuẩn mực thông
thường về đạo đức kinh doanh và được thực hiện nhằm mục đích sinh lợi.
Tuy nhiên, quy định của Luật Cạnh tranh đã không có sự thống nhất.
Như đã trích dẫn ở trên, chủ thể thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh bao gồm các doanh nghiệp và các hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt
Nam. Nhưng định nghĩa về hành vi cạnh tranh không lành mạnh lại nêu:
"Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh
nghiệp", nghĩa là đã loại bỏ mất một đối tượng chủ thể của hành vi cạnh tranh
không lành mạnh. Trong khi đó, hành vi cạnh tranh không lành mạnh được
liệt kê bao gồm cả hành vi phân biệt đối xử của hiệp hội.
Thứ hai, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi trái
với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh.
Đặc điểm này cho thấy bản chất không lành mạnh của hành vi và dựa
vào đó để làm cơ sở phân biệt giữa cạnh tranh lành mạnh với cạnh tranh

không lành mạnh trên thị trường. Trong khái niệm về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh theo quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam không nêu rõ
biểu hiện khách quan của hành vi vì các thủ thuật cạnh tranh được các doanh
nghiệp thực hiện trên thực tế rất đa dạng, tinh vi, có thể là những hành vi gây
nhầm lẫn, gian dối, gièm pha, gây rối… Nhưng lại trích dẫn một điều luật
khác để liệt kê các hành vi được xác định là cạnh tranh không lành mạnh. Tuy
nhiên, trong thực tiễn áp dụng, pháp luật cần phải có những quy định cụ thể
để nhận diện từng hành vi.
Để xác định một hành vi cạnh tranh là không lành mạnh, phải căn cứ
vào "các chuẩn mực thông thường về đạo đức trong kinh doanh". Đạo đức
kinh doanh là một phạm trù dùng để chỉ những yêu cầu, đòi hỏi còn cao hơn

11
cả những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ pháp lý. Những hành vi như trốn
thuế, lừa đảo, làm hàng giả, gây thiệt hại cho doanh nghiệp khác bằng cách
làm ăn gian dối… không thuộc đối tượng điều chỉnh của đạo đức học kinh
doanh, vì đó là những hành vi bất chính thuộc phạm vi kiểm soát và xử lý của
pháp luật. Đạo đức kinh doanh là những quy tắc xử sự, những tập quán kinh
doanh đã được thừa nhận rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên,
đây là một căn cứ khó định lượng, đòi hỏi pháp luật phải thường xuyên bổ
sung, điều chỉnh cho phù hợp với sự vận động của đời sống xã hội, trong
những điều kiện lịch sử cụ thể. Vì vậy, quan niệm về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh ở mỗi quốc gia có thể khác nhau, liên quan đến các phạm
trù kinh tế, xã hội, đạo đức của một xã hội nhất định.
Các nhà doanh nghiệp Mỹ tiếp cận các vấn đề đạo đức dựa trên nền
tảng của các lý thuyết duy lợi (utilitarism) và thực dụng (pragmatism). Mục
tiêu của đạo đức kinh doanh là chủ yếu tạo dựng hình ảnh uy tín của doanh
nghiệp và đạt đến những hiệu quả cao hơn cho doanh nghiệp. Trong khi đó, ở
Châu Âu, cách tiếp cận đối với vấn đề đạo đức và trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp thường nằm giữa thái độ lý tưởng và thái độ thực dụng, người

ta coi đạo đức như là một vấn đề nằm ngay trong bản thân hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế thị trường chưa phát triển như ở Việt Nam thì các
thông lệ, tập quán thương mại chưa đủ thời gian và trình độ để tạo thành các
chuẩn mực đạo đức kinh doanh, được chấp nhận và thực hiện thống nhất như
những quy tắc có tính bắt buộc.
Thứ ba, hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại hoặc có thể
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp khác hoặc của người tiêu dùng.
Quyền tự do kinh doanh đã được Hiến pháp 1992 ghi nhận tại Điều 57
và cạnh tranh là một bộ phận cấu thành nên nội hàm của quyền tự do kinh

12
doanh. Điều 4 Luật Cạnh tranh quy định: "Doanh nghiệp được tự do kinh
doanh trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp
pháp trong kinh doanh". Tất nhiên, để được Nhà nước bảo hộ, việc cạnh tranh
đó phải thực hiện trên nguyên tắc trung thực, không xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp,
của người tiêu dùng và phải tuân theo các quy định của Luật Cạnh tranh.
Như vậy, khi một hành vi cạnh tranh được thực hiện nhưng không
theo nguyên tắc nói trên, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp
khác hoặc của người tiêu dùng, thì hành vi cạnh tranh đó được coi là không
lành mạnh. Thiệt hại mà hành vi gây ra có thể là đã có thực và xác định được
nhưng cũng có thể là thiệt hại có nguy cơ xảy ra (tiềm năng) nếu không có
biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Pháp luật cạnh tranh của Đức cấm "các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh có thể gây ảnh hưởng đáng kể về cạnh tranh làm tổn hại đến đối thủ
cạnh tranh, người tiêu dùng và các chủ thể tham gia thị trường khác" [8].
Pháp luật của Thái Lan cũng có quy định tương tự: "thương nhân không được
tiến hành các hoạt động cạnh tranh không tự do và không bình đẳng, không

được tiến hành các hoạt động gây thiệt hại, cản trở hoặc hạn chế đối với
những hoạt động của những thương nhân khác…" [7].
Đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt giữa hành vi cạnh tranh không
lành mạnh với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Thoả thuận hạn chế cạnh
tranh là sự thống nhất hành động của nhóm doanh nghiệp nhằm giảm bớt
hoặc loại bỏ đối thủ cạnh tranh, hạn chế khả năng hành động độc lập của đối
thủ cạnh tranh, làm thay đổi tình trạng và quy luật cạnh tranh trên thị trường.
Theo pháp luật cạnh tranh của Cộng hoà Pháp, "các dạng thoả thuận minh
bạch hoặc thoả thuận ngầm có nội dung gây hậu quả ngăn cản, hạn chế hoặc
làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường đều bị nghiêm cấm" [2]. Luật
Cạnh tranh của Liên minh Châu Âu cũng có quy định:

13
Mọi thoả thuận giữa các doanh nghiệp, mọi quyết định liên
kết giữa các doanh nghiệp và mọi loại thoả thuận khác có khả năng
điều chỉnh quan hệ thương mại giữa các quốc gia thành viên và có
đối tượng hoặc hệ quả ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch quy luật
cạnh tranh trên thị trường chung của liên minh, thì đều bị nghiêm
cấm [1].
Đối với hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, không cần phải xác
định chính xác đối tượng và mức độ thiệt hại vật chất cụ thể, chỉ cần phân tích
bản chất và diễn biến của hành vi để kết luận về những tác động của nó đến
tình hình cạnh tranh trên thị trường liên quan.
1.1.2. Khái niệm, vai trò của chế tài đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh
Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản, khách quan
của nền kinh tế thị trường. Những điều kiện đảm bảo cho cạnh tranh tự do,
công bằng chính là những giải pháp quan trọng đảm bảo cho môi trường đầu
tư kinh doanh lành mạnh, trật tự kỷ cương quản lý kinh tế của Nhà nước. Tuy
nhiên, cạnh tranh luôn là chiến lược gây nhiều áp lực cho các doanh nghiệp

trên thương trường. Không phải lúc nào doanh nghiệp cũng sử dụng các biện
pháp công bằng, bình đẳng và lành mạnh để chống lại đối thủ cạnh tranh, thu
hút hệ thống khách hàng, chiếm lĩnh thị trường, thu nhiều lợi nhuận, duy trì
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong thực tế kinh doanh, đã không
ít doanh nghiệp sử dụng các thủ đoạn cạnh tranh bị coi là "chơi xấu", gây
phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khác và tác
động xấu đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước.
Trong những trường hợp đó, nếu các doanh nghiệp bị thiệt hại chứng
minh được tổn thất của mình là do hành vi cạnh tranh không lành mạnh của
đối thủ gây ra thì có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp chế tài đối với bên vi phạm.

14
Luật Thương mại lành mạnh và những quy định về độc quyền của
Hàn Quốc quy định cụ thể các chế tài áp dụng đối với từng hành vi vi phạm
nhất định liên quan đến cạnh tranh, bao gồm: đình chỉ hành vi, công bố công
khai về hành vi vi phạm, phạt tiền, bồi thường thiệt hại hoặc phạt tù.
Theo Luật Cạnh tranh Thổ Nhĩ Kỳ, mọi thoả thuận, hành vi cấu kết
của các doanh nghiệp, các quyết định và hành vi của các hiệp hội doanh
nghiệp có tác động hoặc ảnh hưởng gây kìm hãm, bóp méo hoặc hạn chế cạnh
tranh trên thị trường hàng hoá hoặc dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp,
đều là bất hợp pháp và bị nghiêm cấm. Khi xảy ra hành vi vi phạm, cơ quan
có thẩm quyền sẽ yêu cầu doanh nghiệp hoặc hiệp hội doanh nghiệp chấm dứt
hành vi vi phạm, thông báo về các biện pháp tiến hành hay không tiến hành
để duy trì cạnh tranh và khôi phục lại tình trạng như trước khi có hành vi vi
phạm; buộc nộp phạt, bồi thường thiệt hại.
Về vấn đề chống độc quyền và cạnh tranh tự do, Luật Cạnh tranh
thương mại của Vương quốc Thái Lan quy định: Trong trường hợp thương
nhân vi phạm các quy định của Luật này, cơ quan có thẩm quyền quản lý cạnh
tranh có quyền ra lệnh bằng văn bản hướng dẫn thương nhân tạm hoãn, đình

chỉ hoặc điều chỉnh lại các hoạt động; bị phạt tù không quá 3 năm và bị phạt
tiền không quá 6 triệu baht hoặc cả hai, đối với những trường hợp vi phạm
nhiều lần thì hình phạt nặng gấp đôi; người bị thiệt hại cũng có quyền yêu cầu
đòi bồi thường thiệt hại. Đối với các trường hợp tiết lộ thông tin số liệu liên
quan đến thương nhân hoặc hoạt động của thương nhân bất hợp pháp, thì bị
phạt tù không quá một năm hoặc phạt tiền không quá 100.000 baht, hoặc áp
dụng cả hai hình thức chế tài đó.
Liên quan đến trách nhiệm pháp lý, pháp luật của nhiều quốc gia còn
mở rộng đối tượng áp dụng là các cá nhân có trách nhiệm lãnh đạo doanh
nghiệp và không loại trừ trách nhiệm hình sự. Luật Chống cạnh tranh không
lành mạnh của Nhật Bản quy định hình phạt tối đa đối với các cá nhân vi
phạm có thể lên đến 10 năm tù và 10 triệu yªn tiền phạt.

15
Dù là áp dụng biện pháp gì để phản ứng trước các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh thì các biện pháp đó cũng đều có đặc điểm chung, đó là sự
đánh giá tiêu cực của Nhà nước và xã hội về hành vi và chủ thể thực hiện
hành vi đó, buộc chủ thể vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do đã
thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Theo khoa học pháp lý, chế tài là một bộ phận cấu thành của quy phạm
pháp luật, xác định các hình thức trách nhiệm pháp lý khi có hành vi trái
ngược với những quy tắc xử sự đã được ghi trong phần quy định và giả định.
Hiện nay, khoa học pháp lý không đưa ra khái niệm chế tài đối với
hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhưng căn cứ vào khái niệm chế tài nói
chung, có thể hiểu:
Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hình
thức trách nhiệm pháp lý được Nhà nước áp dụng đối với các chủ thể kinh
doanh, buộc các chủ thể đó phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do đã có
hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại cho các chủ thể kinh doanh
và các chủ thể khác.

Căn cứ vào tính chất của các nhóm quan hệ xã hội được pháp luật
cạnh tranh điều chỉnh, chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
được chia thành nhiều loại: chế tài hành chính, chế tài hình sự và chế tài dân
sự. Việc áp dụng chế tài phụ thuộc vào những đặc điểm của lợi ích mà pháp
luật cần bảo vệ, tính chất của hành vi phạm pháp, thiệt hại do các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh gây ra.
Ngoài đặc điểm chung của chế tài, như: chỉ áp dụng khi có vi phạm
pháp luật xảy ra; là hình thức cưỡng chế của Nhà nước đối với chủ thể vi
phạm; chủ thể vi phạm phải gánh chịu một hậu quả bất lợi nhất định, chế tài
đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam còn có
những đặc điểm riêng:

16
- Chủ thể bị áp dụng chế tài là các doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề
hoạt động ở Việt Nam.
Như đã xác định ở trên, đối tượng chủ thể của quan hệ cạnh tranh
được quy định tại Điều 2 Luật Cạnh tranh bao gồm các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế và các hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam,
trong tất cả các ngành nghề kinh tế, các khâu, các công đoạn của quá trình đầu
tư. Trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh, nếu các chủ thể đó vi
phạm các quy định về cạnh tranh lành mạnh thì sẽ bị áp dụng chế tài xử lý.
- Bên bị áp dụng chế tài phải gây ra thiệt hại cho bên kia khi thực hiện
hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Bản thân hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã mang đặc điểm là
luôn gây ra một thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại (thiệt hại ở dạng tiềm năng)
cho chủ thể kinh doanh khác, tác động xấu đến môi trường kinh doanh và trật
tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Như vậy, thiệt hại là một dấu hiệu để nhận
diện hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, thiệt hại đó phải do
hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại Điều 39 Luật Cạnh
tranh gây ra, khi đó chủ thể thực hiện hành vi mới phải chịu một hình thức

trách nhiệm pháp lý trương ứng.
- Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định
trong các văn bản pháp luật khác nhau, thuộc các ngành luật khác nhau.
Pháp luật cạnh tranh của các nước có nền kinh tế phát triển được quy
định thành một đạo luật riêng, chế tài đối với mỗi hành vi vi phạm được quy
định cụ thể và được pháp điển hoá trong một văn bản pháp luật. Đối với pháp
luật cạnh tranh Việt Nam, để hỗ trợ cho các quy định về cạnh tranh là hệ
thống các chế tài hành chính, chế tài hình sự và chế tài dân sự nằm rải rác ở
nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Luật Cạnh tranh, Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính, Bộ luật hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật
Thương mại…

17
Mục đích cơ bản của pháp luật cạnh tranh là nhằm tạo ra môi trường
pháp lý bình đẳng, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, công bằng. Song pháp luật
cạnh tranh không tự thân đi vào cuộc sống nếu không có sự hỗ trợ của các
biện pháp và cơ chế đảm bảo thực hiện. Trong hệ thống các cơ chế đảm bảo
thực hiện đó, có vai trò của các chế tài xử lý vi phạm. Vai trò của các chế tài
đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh biểu hiện ở những khía cạnh cơ
bản sau đây:
(i) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, chống lại
hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp đối thủ.
Pháp luật cạnh tranh có mục đích đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh tự do trên thương trường. Những thủ pháp bất chính và những
biến tướng của cạnh tranh đều tác động tiêu cực đến thị trường, xâm hại quyền
và lợi ích hợp pháp của các đối thủ kinh doanh khác. Lúc đó, cần thiết phải có sự
tồn tại của các chế tài để lập lại trật tự thị trường, giải phóng các doanh nghiệp
ra khỏi sự kiềm toả và tác động không lành mạnh của hành vi cạnh tranh.
Pháp luật của Hàn Quốc quy định: "Uỷ ban thương mại lành mạnh có
thể áp đặt một khoản tiền phạt đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia

vào các hành vi kinh doanh không bình đẳng vi phạm những quy định về
kinh doanh không lành mạnh" [6. Điều 24-2]. Luật Cạnh tranh thương mại
của Thái Lan cho phép "người bị hại do những hành vi vi phạm quy định về
độc quyền có quyền đệ trình đơn kiện đòi bồi thường thiệt hại từ người vi
phạm" [7. Điều 40]. Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh của Cộng hoà
Liên bang Đức quy định: "Người nào trong giao dịch kinh doanh vì mục đích
cạnh tranh mà thực hiện các hành vi trái với thuần phong mỹ tục, thì có thể bị
yêu cầu chấm dứt hành vi và bồi thường thiệt hại" [8].
Luật Cạnh tranh của Việt Nam cũng có quy định đảm bảo cho các
doanh nghiệp quyền được khiếu nại đến cơ quan quản lý cạnh tranh về hành
vi vi phạm của đối thủ xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

18
Như vậy, các quy phạm pháp luật cạnh tranh cùng với những chế tài
của nó được các quốc gia xây dựng đã tạo điều kiện và cơ chế đảm bảo cho
các chủ thể kinh doanh tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trừng
phạt các hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh, đảm bảo quyền tự do kinh
doanh của các doanh nghiệp và trật tự thị trường.
Các chế tài còn có vai trò ngăn chặn các doanh nghiệp thu lợi bất
chính bằng việc thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh, kiềm chế các
chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi trái pháp luật, nâng cao nhận thức của
họ về "đạo đức trong kinh doanh", đảm bảo chữ "tín", khích lệ sự năng động,
tự chủ và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp.
(ii) Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (khách hàng).
Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp luôn gắn liền với thị
trường khách hàng, buộc các doanh nghiệp phải luôn xác định: sản xuất cái
gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào. Khách hàng thường có xu hướng
lựa chọn các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ phù hợp với nhu cầu, sở thích và
túi tiền của mình. Điều đó sẽ định hướng cho các doanh nghiệp trong quá
trình sản xuất, kinh doanh và cung ứng dịch vụ. Nói cách khác, khách hàng là

đối tượng được các doanh nghiệp hướng tới để phục vụ và khai thác.
Để tồn tại bền vững và phát triển, doanh nghiệp luôn tìm mọi cách lôi
kéo khách hàng về phía mình, tranh giành thị trường với các đối thủ khác.
Tuy người tiêu dùng là mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp và quan hệ
thị trường, là định hướng cơ bản cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, nhưng nhu cầu đó lại bị khống chế bởi khả năng đáp ứng và
kiểm soát từ phía doanh nghiệp. Vì tất yếu, doanh nghiệp bao giờ cũng hiểu
rõ về sản phẩm và dịch vụ mà mình cung ứng hơn người tiêu dùng. Nhiều
trường hợp, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người tiêu dùng, các doanh nghiệp
đã cung cấp hàng hoá và dịch vụ kém chất lượng; gian dối, che lấp những
khiếm khuyết của sản phẩm và dịch vụ hoặc cố tình đưa ra những chỉ dẫn gây

19
nhầm lẫn… Trong khi người tiêu dùng lại không có đủ cơ sở để khiếu kiện vì
giao dịch hoàn toàn thiết lập một cách tự nguyện. Vì thế, nguyên tắc "trung
thực", "thiện chí" trong giao kết hợp đồng dường như rất khó kiểm soát. Lúc
đó, đạo đức trong cạnh tranh cùng với những quy phạm mang tính cấm đoán
của nó sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sự trung thực của thị
trường và lợi ích của người tiêu dùng.
Như vậy, các chế tài của các quy phạm pháp luật cạnh tranh được thiết
lập đã góp phần can thiệp để bảo vệ người tiêu dùng trước những hành vi
không trung thực và không công bằng của các doanh nghiệp; đặt ra những yêu
cầu về việc đảm bảo những thông tin chính xác về sản phẩm và dịch vụ, kiểm
soát hoạt động quảng cáo, khuyến mại và trừng phạt các biểu hiện không lành
mạnh trong lĩnh vực này; nâng cao trách nhiệm của các nhà sản xuất và cung
ứng dịch vụ trên thị trường, đáp ứng được nhu cầu và bảo vệ quyền lợi chính
đáng của người tiêu dùng.
(iii) Là công cụ góp phần tạo lập môi trường kinh doanh và cạnh
tranh lành mạnh, bình đẳng, công bằng.
Cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, công bằng là nội hàm của quyền tự

do kinh doanh của các doanh nghiệp. Pháp luật cạnh tranh nói chung và
những thiết chế chế tài của nó đã bảo vệ thị trường và quan hệ cạnh tranh
bằng cách chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Trong thị trường tự do, các doanh nghiệp không chịu sự chi phối nào từ
phía Nhà nước và các doanh nghiệp khác. Các quy luật kinh tế khách quan, trong
đó có quy luật cạnh tranh, sẽ tự thân tác động và quyết định các quan hệ kinh tế,
quyết định đến hoạt động của các doanh nghiệp. Vì thế, trên thị trường thực tế đã
nảy sinh rất nhiều tiêu cực phát sinh từ cạnh tranh. Bằng các thủ đoạn bất chính,
những toan tính không phù hợp với truyền thống kinh doanh lành mạnh, nhiều
doanh nghiệp đã thực hiện các hành vi xâm hại đến trật tự kinh doanh, gây ra
hoặc đe doạ gây ra thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng.

20
Thông qua việc loại trừ các hành vi phản đạo đức kinh doanh, giành
giật lợi nhuận một cách bất hợp pháp của các doanh nghiệp, chế tài đối với
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã góp phần vào việc bảo vệ quyền
tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh trên thị trường, bảo vệ môi
trường cạnh tranh và các quan hệ thị trường và đẩy nhanh tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
1.2. CĂN CỨ ÁP DỤNG CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH
Căn cứ áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
cũng như căn cứ áp dụng trách nhiệm pháp lý nói chung, bao gồm: hành vi vi
phạm (hành vi cạnh tranh không lành mạnh), thiệt hại do hành vi gây ra, mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại, lỗi thực hiện hành vi.
1.2.1. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Như đã phân tích và luận giải ở trên, hành vi cạnh tranh có bản chất là
hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh, huỷ hoại ưu thế cạnh tranh của doanh
nghiệp khác một cách bất hợp pháp hoặc là hành vi tạo ra ưu thế cạnh tranh
giả tạo.

Biểu hiện của các hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh của doanh
nghiệp khác một cách bất hợp pháp bao gồm: Chiếm đoạt các bí mật thương
mại mà doanh nghiệp khác đã phải đầu tư nhiều công sức mới có được và nó
đã trở thành tài sản của doanh nghiệp đó; hành vi nhái lại nhãn mác, bao bì,
kiểu dáng, khẩu hiệu kinh doanh, thương hiệu, tạo sự nhầm lẫn trong khách
hàng và gây thiệt hại trực tiếp cho đối thủ cạnh tranh… Ví dụ: Trong lĩnh
vực nước giải khát, nhãn hiệu nước khoáng Lavie đã bị một số tên gọi
thương mại khác giả mạo như: Laville, Leville, Lavier… Trong lĩnh vực xe
máy, nhãn hiệu Wave của hãng Honda được nhiều người tiêu dùng ưa
chuộng đã bị đánh lừa bởi các loại xe với kiểu dáng tương tự của Trung Quốc
như Waver, Wake up…

×