Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI DO HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH GÂY RA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.47 KB, 7 trang )

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
DO HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH GÂY RA
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp trong và ngoài nước luôn phải
đối mặt với các hoạt động cạnh tranh, trong đó có cả cạnh tranh không lành mạnh. Qua
một số ví dụ giả thiết, bài viết phân tích những hạn chế trong pháp luật về xử lý xung đột
pháp luật trong các tranh chấp về bồi thường thiệt hại có yếu tố nước ngoài do cạnh tranh
không lành mạnh và đưa ra kiến nghị sửa đổi Khoản 4, Điều 835 Bộ luật Dân sự.
I. Xung đột pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh có yếu tố nước ngoài
Toà án Việt Nam có thể được yêu cầu giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại có yếu tố
nước ngoài do hành vicạnh tranh không lành mạnh (CTKLM) gây ra trong hai hoàn cảnh:
1. Hành vi CTKLM thực hiện trên thị trường Việt Nam
1.1. Trường hợp bên thực hiện hành vi CTKLM là tổ chức, cá nhân nước ngoài và bên
bị thiệt hại là tổ chức, cá nhân Việt Nam
Ví dụ thứ nhất: Để có thêm khách hàng, một doanh nghiệp Đài Loan đã thực hiện chương
trình quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng Việt Nam. Nhưng theo một doanh
nghiệp Việt Nam X., chương trình quảng cáo đó đã gây ra tổn thất đến doanh nghiệp của
mình, đây là hành vi CTKLM. Doanh nghiệp X. yêu cầu Toà án buộc doanh nghiệp Đài
Loan phải bồi thường thiệt hại. Toà án sẽ giải quyết tranh chấp theo pháp luật Đài Loan
hay pháp luật Việt Nam?
1.2. Trường hợp bên thực hiện hành vi là doanh nghiệp Việt Nam và bên bị thiệt hại là
doanh nghiệp nước ngoài
Ví dụ thứ hai: Để có thêm khách hàng, một doanh nghiệp Việt Nam Y. đã thực hiện một số
biện pháp cạnh tranh. Doanh nghiệp Hàn Quốc H. hiện cũng đang tham gia trên thị trường
Việt Nam cho rằng các biện pháp của doanh nghiệp Y. là hành vi CTKLM và đã gây thiệt
hại cho họ. Doanh nghiệp Hàn Quốc H. kiện ra Toà án nước ta yêu cầu doanh nghiệp Việt
Nam bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này, Toà án sẽ áp dụng pháp luật Hàn Quốc
hay pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp này?
2. Hành vi CTKLM thực hiện ngoài thị trường Việt Nam
2.1. Trường hợp một bên là doanh nghiệp Việt Nam
Ví dụ thứ ba: Doanh nghiệp A. (Việt Nam) và doanh nghiệp T. (Trung Quốc) cùng cạnh
tranh trên thị trường Lào. Để có thêm khách hàng trên thị trường Lào, doanh nghiệp A đã


thực hiện một số hành vi cạnh tranh mà doanh nghiệp T. cho là không lành mạnh. Nhằm
được bồi thường những thiệt hại, bên T. cho là bên A gây ra, bên T. khởi kiện bên A trước
Toà án Việt Nam. Muốn giải quyết tranh chấp, cần xác định xem các hành vi cạnh tranh
trên có phải là CTKLM theo quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật Trung Quốc hay
pháp luật Lào?
2.2. Trường hợp cả hai bên là doanh nghiệp Việt Nam.
Ví dụ thứ tư: doanh nghiệp A. và doanh nghiệp B. cùng cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Để
có thêm khách hàng trên thị trường Mỹ, doanh nghiệp A đã sử dụng một số biện pháp cạnh
tranh mà doanh nghiệp B cho là không lành mạnh. Nhằm được bồi thường thiệt hại mà bên
B cho là bên A gây ra do những hành vi cạnh tranh trên, bên B khởi kiện bên A trước Toà
án Việt Nam. Vậy pháp luật Việt Nam hay pháp luật Mỹ sẽ điều chỉnh tranh chấp trên?
Việc giải quyết xung đột pháp luật này là cần thiết vì mức độ bồi thường thiệt hại theo
pháp luật Mỹ là tương đối cao, có thể gấp ba lần thiệt hại thực tế, trong khi đó, mức độ bồi
thường thiệt hại theo pháp luật Việt Nam có thể thấp hơn nhiều.
II. Giải quyết xung đột
1. Pháp luật nước ta về CTKLM có yếu tố nước ngoài
Theo Điều 1, Điều 2 của Luật Cạnh tranh được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004, Luật
này quy định về“…hành vi cạnh tranh không lành mạnh…” đối với doanh nghiệp “hoạt
động ở Việt Nam” ngay cả đối với doanh nghiệp “nước ngoài”. Như thế, chỉ giới hạn việc
xác định pháp luật điều chỉnh CTKLM “ở Việt Nam”. Tức là, khi hành vi cạnh tranh ảnh
hưởng đến thị trường Việt Nam thì pháp luật về cạnh tranh Việt Nam điều chỉnh nhưng
chúng ta không biết pháp luật nước nào sẽ điều chỉnh tranh chấp về bồi thường thiệt hại do
hành vi CTKLM gây ra ở nước ngoài khi có ít nhất một bên là Việt Nam?
Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do hành vi CTKLM gây ra là tranh chấp bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. Do vậy, chúng ta có thể sử dụng những quy phạm xung đột pháp
luật được quy định trong BLDS Việt Nam. Có thể áp dụng cho ví dụ thứ nhất về hành vi
gây thiệt hại và nơi phát sinh hậu quả thực tế xảy ra ở Việt Nam vì bên bị thiệt hại ở Việt
Nam theo Khoản 1, Điều 835 BLDS 1995 (K1 Đ773 BLDS 2005): “việc bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt
hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại”.

Tuy nhiên, khi phân tích Khoản 1, Điều 835 BLDS 1995 (K1 Đ773 BLDS 2005), chúng ta
thấy quy phạm này không phù hợp với việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại do hành
vi CTKLM gây ra được nêu ở các ví dụ thứ hai, ba, tư. Khoản 1, Điều 835 BLDS 1995 (K1
Đ773 BLDS 2005) là một quy phạm xung đột pháp luật phức tạp: Pháp luật của nước nơi
xảy ra hành vi gây thiệt hại hay pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả thực tế sẽ được
chọn để điều chỉnh tranh chấp, nhưng ai là người quyết định chọn một trong hai luật này?
Toà án, người bị thiệt hại hay người gây thiệt hại? Trong các ví dụ nêu trên, Toà án, người
thực hiện hành vi cạnh tranh hay người tự coi là bị thiệt hại có quyền chọn một trong hai
luật đó? Sự phức tạp có thể tăng thêm nếu chúng ta áp dụng quy phạm xung đột này vào
vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi CTKLM gây ra.
Thứ nhất, việc xác định nước nơi xảy ra hành vi cạnh tranh bị một bên coi là không lành
mạnh đôi khi không đơn giản. Phát triển ví dụ thứ ba, chúng ta có thể gặp hoàn cảnh là bên
A Việt Nam thực hiện hành vi cạnh tranh thông qua thông tin đại chúng Lào nhưng nội
dung của các hành vi lại được thiết lập và thực hiện tại Việt Nam (phim quảng cáo được
dàn dựng và quay ở Việt Nam nhưng truyền tải ở Lào thông qua truyền hình Lào). Vậy,
nơi xảy ra hành vi cạnh tranh bị bên T. Trung Quốc coi là không lành mạnh là Việt Nam
hay Lào?
Thứ hai, nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi cạnh tranh bị một bên coi là không lành
mạnh được xác định như thế nào? Trong ví dụ trên, hành vi cạnh tranh của bên A có thể
làm giảm khách hàng của bên T. trên thị trường Lào, đồng thời làm giảm tổng thu nhập của
bên T. ở Trung Quốc vì trụ sở của bên T. ở Trung Quốc. Vậy, nơi phát sinh hậu quả thực tế
của hành vi cạnh tranh bị bên T. coi là không lành mạnh là ở Lào hay ở Trung Quốc?
Tương tự đối với ví dụ thứ hai, bên Hàn Quốc có trụ sở ở Hàn Quốc nhưng tham gia cạnh
tranh trên thị trường Việt Nam, vậy, nơi phát sinh hậu quả thực tế là ở Việt Nam hay ở Hàn
Quốc?
Theo Khoản 3, Điều 835 BLDS 1995 (K3 Đ773 BLDS 2005), “trong trường hợp hành vi
gây thiệt hại xảy ra ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà người
gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều là công dân hoặc pháp nhân Việt Nam, thì áp dụng
pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Nếu áp dụng quy phạm xung đột pháp
luật này vào ví dụ thứ tư, chúng ta có giải pháp sau: Tranh chấp giữa bên A và bên B được

điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam. Điều đó có nghĩa là pháp luật Việt Nam sẽ được áp
dụng để xác định xem các hành vi trên có phải là hành vi CTKLM hay không, và nếu có thì
mức thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại phải xác định theo pháp luật Việt Nam. Giải
pháp này không hợp lý vì pháp luật cạnh tranh Việt Nam được xây dựng chỉ để điều chỉnh
cạnh tranh trên thị trường Việt Nam. Vậy, áp dụng pháp luật cạnh tranh Việt Nam vào các
hành vi cạnh tranh trên thị trường Mỹ là không hợp lý. Nói một cách khác, quy phạm xung
đột pháp luật ở Khoản 3, Điều 835 BLDS 1995 (K3 Đ773 BLDS 2005) không phù hợp với
vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi CTKLM gây ra ở thị trường nước ngoài.
2. Phương hướng giải quyết xung đột pháp luật về CTKLM có yếu tố nước ngoài
Vì pháp luật cạnh tranh được xây dựng theo đặc thù của thị trường một nước và để điều
chỉnh các quan hệ cạnh tranh trên thị trường Việt Nam, chúng ta nên thiết lập quy phạm
xung đột như sau: Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành
mạnh gây ra được điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà thị trường bị ảnh hưởng. ở ví dụ
thứ nhất và thứ hai, thị trường Việt Nam bị ảnh hưởng nên việc áp dụng pháp luật Việt
Nam là hoàn toàn phù hợp với Điều 1, Điều 2 Luật Cạnh tranh. Trong ví dụ thứ ba, thị
trường Lào bị ảnh hưởng do hành vi cạnh tranh của bên A, vậy pháp luật Lào được chọn
để xác định các hành vi đó có là hành vi CTKLM hay không; nếu đó thực sự là hành vi
CTKLM thì mức thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại là bao nhiêu cũng được điều chỉnh
bởi pháp luật nước này. Tương tự, trong ví dụ thứ tư, thị trường Mỹ bị ảnh hưởng nên pháp
luật Mỹ được chọn để điều chỉnh tranh chấp giữa hai doanh nghiệp Việt Nam.
Trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, nhiều khi thị trường không phải chỉ của một, mà
của nhiều quốc gia cùng bị ảnh hưởng. Đối với trường hợp vừa nêu, giải pháp kiến nghị
vẫn có thể được sử dụng. Phát triển ví dụ tranh chấp giữa doanh nghiệp A Việt Nam và
doanh nghiệp T. Trung Quốc, chúng ta có thể gặp trường hợp hai doanh nghiệp này, bên
cạnh thị trường Lào, cùng cạnh tranh trên thị trường Thái Lan. Hai thị trường có thể bị ảnh
hưởng, thị trường Lào và thị trường Thái Lan. Khi đó, chúng ta áp dụng pháp luật Lào đối
với những hành vi cạnh tranh trên thị trường Lào, đồng thời áp dụng pháp luật Thái Lan
đối với những hành vi cạnh tranh trên thị trường Thái Lan. Có thể hành vi cạnh tranh của
bên A không bị coi là không lành mạnh theo pháp luật Thái Lan và do vậy, không có bồi
thường thiệt hại nhưng bị coi là không lành mạnh theo pháp luật Lào nên có thể có bồi

thường thiệt hại. Sự khác nhau không làm ảnh hưởng đến giải pháp chọn pháp luật của
nước mà thị trường bị ảnh hưởng để điều chỉnh mà còn cho thấy đây là giải pháp hợp lý:
pháp luật cạnh tranh mỗi nước được xây dựng phù hợp với thị trường từng nước và để điều
chỉnh các quan hệ cạnh tranh trên thị trường nước đó. Vậy, ngay cả khi hai hay nhiều thị
trường bị ảnh hưởng, chúng ta vẫn có thể sử dụng giải pháp kiến nghị ở trên.
Như vậy, tiêu chí “thị trường bị ảnh hưởng” nên được sử dụng để chọn luật áp dụng quy
phạm xung đột mới cho việc giải quyết bồi thường thiệt hại do hành vi CTKLM gây ra.
Đây cũng là giải pháp được thừa nhận ở một số nước [1]. Theo Điều 1222 BLDS Nga thì
về nguyên tắc “pháp luật của nước có thị trường bị ảnh hưởng điều chỉnh nghĩa vụ phát
sinh từ hành vi cạnh tranh không lành mạnh” [2]. Tương tự, Điều 136 Luật về Quan hệ có
yếu tố nước ngoài Thuỵ Sỹ, “những yêu cầu dựa trên cơ sở một hành vi cạnh tranh không
lành mạnh được điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà trên thị trường nước đó hậu quả
được phát sinh” [3].
Chúng ta nên luật hoá quy phạm xung đột về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do hành
vi CTKLM gây ra được kiến nghị ở trên nhưng luật hoá quy phạm này trong văn bản nào
là vấn đề cần bàn.
Khác với pháp luật một số nước, Luật Cạnh tranh nước ta có điều chỉnh vấn đề
CTKLM [4]. Do đó, chúng ta có thể nghĩ đến việc luật hoá giải pháp đó vào Luật Cạnh
tranh. Đây là giải pháp dường như phù hợp với xu hướng chung của pháp luật nước ta hiện
nay (rất nhiều văn bản chuyên ngành nước ta chứa đựng quy phạm xung đột như Bộ luật
Hàng hải, Luật Hàng không, Luật Thương mại, Luật Hôn nhân và gia đình…) [5]. Song,
các nhà xây dựng Luật Cạnh tranh đã không đưa quy phạm trên vào Luật.
Tham gia hội nhập, khả năng Tòa án Việt Nam phải đối mặt với các vụ kiện về cạnh tranh
có yếu tố nước ngoài là hoàn toàn thực tế. Chính vì thế, việc xây dựng pháp luật phải
lường trước và lập ra quy phạm để xử lý. Do Luật Cạnh tranh không có quy phạm xung đột
chung điều chỉnh việc xử lý bồi thường thiệt hại do hành vi CTKLM gây ra, thì nên đưa
quy phạm này vào một văn bản chuyên về Tư pháp quốc tế như ở Thuỵ Sỹ, Bỉ[6], hay vào
BLDS như ở Nga? Vấn đề này đã được đặt ra trong quá trình xây dựng BLDS [7]. Theo
chúng tôi, trong hoàn cảnh hiện nay ở nước ta, việc đưa quy phạm trên vào một văn bản
chuyên về Tư pháp quốc tế là không thực tế, vì chưa có dự thảo về lĩnh vực này. Trong

nhiều năm nữa, mong muốn xây dựng quy phạm xung đột pháp luật về cạnh tranh không
lành mạnh trong một đạo luật riêng về Tư pháp quốc tế mới có thể thực hiện được [8].
Vì vậy, trong điều kiện sửa đổi BLDS 1995, chúng ta nên luật hoá quy phạm này bằng
cách bổ sung Khoản 4, Điều 835 BLDS với nội dung như sau: Tranh chấp về bồi thường

×