Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Những vấn đề pháp lý về sáng lập viên công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (964.3 KB, 83 trang )




























ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








NGUYỄN THANH CẨM THƯƠNG




NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ SÁNG LẬP VIÊN
CÔNG TY CỔ PHẦN



Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ HUY CƯƠNG


Hà Nội – 2011





MỤC LỤC
Trang





1.1.

1.1.1
1.1.2
1.1.3

1.2.



2.1.

2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.


3.1.
3.2.
Lời cam đoan
Mục lục

MỞ ĐẦU
Chương 1 - KHÁI NIỆM SÁNG LẬP VIÊN CÔNG TY
CỔ PHẦN
Khái niệm và những đặc trưng của sáng lập viên công ty cổ
phần trong Common Law
Khái niệm sáng lập viên công ty cổ phần
Một số đặc trưng của sáng lập viên công ty cổ phần
Phân biệt với khái niệm cổ đông sáng lập trong các đạo luật
về công ty
Liên hệ với khái niệm cổ đông sáng lập trong Luật Doanh
nghiệp Việt Nam
Chương 2 - CÁC QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA
SÁNG LẬP VIÊN CÔNG TY CỔ PHẦN
Quyền của sáng lập viên công ty với công ty cổ phần sau
thành lập
Nghĩa vụ của sáng lập viên công ty cổ phần
Nghĩa vụ uỷ thác
Nghĩa vụ công khai thông tin
Nghĩa vụ đối với các hợp đồng tiền công ty
Chương 3 - TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ DO VI PHẠM
NGHĨA VỤ CỦA SÁNG LẬP VIÊN CÔNG TY CỔ PHẦN
Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ với công ty cổ phần
Trách nhiệm của sáng lập viên đối với những người đăng ký
1
2
4
7

7


7
18
26

30

36

36

40
40
46
54
67

67
70



3.2.1.
3.2.2.
3.3.







mua cổ phần của công ty
Trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm hình sự
Liên hệ với pháp luật Việt Nam
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
TÀI LIỆU THAM KHẢO


70
74
78
81
84


















4

MỞ ĐẦU

1. Ý nghĩa và tính cấp thiết của đề tài
Đối với các công ty, cần có quá trình chuẩn bị ban đầu để tiến tới cho ra
đời một công ty trên thực tế, tuỳ thuộc loại hình công ty được lựa chọn mà
quá trình này có thể đơn giản hoặc phức tạp. Với các công ty trách nhiệm hữu
hạn (LC), công ty cổ phần (corporation) hoặc hiệp hội kinh doanh (syndicate)
- thường được gọi chung là công ty cổ phần (corporation), công ty có vốn
được chia thành nhiều phần bằng nhau, có yêu cầu pháp lý khi thành lập cao,
quá trình thành lập các công ty này thường phức tạp hơn, và do đó cần tới vai
trò của một hoặc một số người đảm nhiệm những công việc và nghĩa vụ pháp
lý để tạo lập nên công ty.
Vào cuối thế kỷ 19, các án lệ liên quan đến mối quan hệ của những
người này với các công ty cổ phần rất phổ biến tại các quốc gia Common
Law, nơi đang ở giai đoạn phát triển cực thịnh của ngành công nghiệp đường
sắt và có sự phát triển mạnh mẽ hoạt động giao thương dọc theo các tuyến
đường tàu hoả. Thực tế này đã đặt ra cho các luật gia của Common Law yêu
cầu nghiên cứu bản chất mối quan hệ giữa những người tham gia sáng lập nên
các công ty với công ty và các chủ thể khác. Bởi hành vi của họ gắn liền với
quá trình xúc tiến thành lập công ty cổ phần (promotion) nên những người
này được gọi là các “promoter” - người xúc tiến việc hình thành nên công ty,
hay sáng lập viên của công ty. Đây là người ký kết, thực hiện các thoả thuận
phục vụ cho việc thành lập công ty, đặc biệt với công ty cổ phần, thực hiện
việc kêu gọi vốn và tập hợp cổ đông để công ty được thành lập, quá trình này
gắn liền với các thoả thuận mà các promoter có thể thiết lập, thực hiện cho
công ty trước khi công ty được thành lập.



Tuy các vụ kiện liên quan đến sáng lập viên công ty cổ phần không còn
phổ biến như hồi thế kỷ 19 do sự phát triển của hệ thống pháp luật về công ty
và luật hợp đồng nói chung đã làm giới hạn nhiều quyền năng của sáng lập
viên công ty cổ phần, nhưng đến ngày nay, mối quan hệ giữa sáng lập viên
với công ty cổ phần vẫn có ý nghĩa thực tiễn quan trọng cho các toà án trong
việc xét xử các hợp đồng tiền công ty và để giải thích cho mối quan hệ giữa
công ty cổ phần và các chủ thể có liên quan khác.
2. Mục đích nghiên cứu
Công ty cổ phần là một thành phần kinh tế quan trọng trong kinh tế thị
trường, đây cũng là hình thức tổ chức kinh doanh được pháp luật đặc biệt
quan tâm do tính chất, quy mô và những mối liên hệ phức tạp của nó. Trong
giới hạn của luận văn này, người viết muốn tìm hiểu và đưa ra những học
thuyết cơ bản của hệ thống pháp luật Common Law về sáng lập viên công ty
cổ phần, một thành tố quan trọng trong quá trình hình thành nên công ty cổ
phần, để hiểu rõ hơn bản chất các mối quan hệ pháp lý bên trong và bên ngoài
của loại hình công ty này. Qua đó góp phần làm rõ hơn những hạn chế của
quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về công ty cổ phần.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Sáng lập viên công ty cổ phần, chủ thể đem lại
hơi thở cho một công ty cổ phần trên thị trường và tạo lập nên những mối
quan hệ cho công ty đó trước và sau khi được thành lập.
Phạm vi nghiên cứu: Khái niệm sáng lập viên công ty cổ phần được hình
thành đầu tiên và phát triển rộng rãi trong hệ thống pháp luật Common Law
nên người viết tập trung nghiên cứu những học thuyết của Common Law về
chủ thể này. Bên cạnh đó phân tích những quy định pháp luật hiện có của
Luật công ty Việt Nam về sáng lập viên công ty cổ phần.
4. Phương pháp nghiên cứu


- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Sau khi đưa ra các quan điểm, học

thuyết pháp lý của Common Law về sáng lập viên công ty cổ phần, người viết
phân tích các quy định hiện hành của pháp luật công ty Việt Nam về vấn đề
này để tìm ra điểm khác biệt và hạn chế cần hoàn thiện của pháp luật Việt
Nam.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Qua quá trình phân tích các học
thuyết pháp lý của Common Law và so sánh với quy định pháp luật Việt
Nam, người viết tổng kết đưa ra những nội dung cơ bản về sáng lập viên mà
pháp luật Việt Nam cần nghiên cứu hoàn thiện.
5. Nội dung của luận văn
Căn cứ theo mục đích nghiên cứu, cơ cấu của luận văn gồm 3 phần:
- Chương 1: Khái niệm Sáng lập viên công ty cổ phần
- Chương 2: Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của Sáng lập viên công ty cổ
phần
- Chương 3: Trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ của Sáng lập
viên công ty cổ phần
Trong phạm vi luận văn và trình độ còn hạn hẹp, luận văn không tránh
khỏi còn nhiều thiếu sót rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô.
Xin chân thành cảm ơn.










Chương 1 - KHÁI NIỆM SÁNG LẬP VIÊN CÔNG TY CỔ PHẦN


1.1. Khái niệm và những đặc trưng của Sáng lập viên công ty cổ phần
theo hệ thống pháp luật Common Law
1.1.1. Khái niệm Sáng lập viên công ty cổ phần
* Khái niệm của Luật thành văn: Luật pháp đã có những quy định khá
khắt khe về nghĩa vụ đối với những người trở thành sáng lập viên công ty cổ
phần, quy định cho họ những tiêu chuẩn cao về mặt đạo đức, và phải cẩn
trọng với những mối quan hệ của họ với công ty dự định thành lập. Trước hết
chúng ta cần làm rõ khái niệm của thuật ngữ sáng lập viên công ty cổ phần -
promoter để hiểu được rõ hơn những nghĩa vụ và trách nhiệm mà người này
phải gánh vác. Tuy vậy không thể lý giải một cách đơn giản khái niệm sáng
lập viên công ty cổ phần trong mối quan hệ với các công ty cổ phần. Thuật
ngữ này không chỉ là một tên gọi mà nó bao hàm các hành vi và các mối quan
hệ của nhiều bên trong quá trình thành lập công ty cổ phần.
Thuật ngữ promoter được thừa nhận về mặt pháp lý vào cuối thế kỷ 19
tại Anh. Trong một số vụ kiện trước đó, những người tham gia vào việc thành
lập công ty cổ phần được gọi là các “projector” - người lập dự án, một số vụ
kiện khác cũng cùng giai đoạn này lại không đặt tên cho mối quan hệ giữa
những người này với công ty dự định thành lập. Thuật ngữ “promoter”, vốn
bắt nguồn từ cách nói thông thường trong giao thương, hầu như đã không
được sử dụng trong bất kỳ phán quyết nào tại Anh cho đến sau khi được quy
định trong Luật Công ty Cổ phần Anh năm 1844 (English Joint Stock
Companies of 1844) với ý nghĩa để chỉ: “tất cả những người hành động dưới
bất kỳ danh nghĩa nào trong việc hình thành và thiết lập một công ty vào bất
kỳ giai đoạn nào trước khi công ty lấy được giấy chứng nhận đăng ký đầy
đủ”.[7]


Trong cuốn sách nổi tiếng về luật công ty của mình, “Lindley on
Companies Law” - tựa gốc là “Treatise on the Law of Partnership, including
its Application to Joint Stock and other Companies” ấn hành năm 1860, Ngài

Thẩm phán Baron Lindley (29/11/1828 - /12/1921) của Hội đồng thẩm phán
Liên hiệp Anh đã viết: “Vẫn còn nhiều tranh cãi đáng quan tâm về ý nghĩa
của thuật ngữ promoter cũng như những vấn đề liên quan tới mối quan hệ của
anh ta với công ty mà anh ta mong muốn thành lập. Thuật ngữ này bản thân
nó chưa được định nghĩa, nhưng nó đã được sử dụng trong cách nói hàng
ngày và được quy định trong Điều 38 của Luật Công ty năm 1867, để chỉ
những người đem lại sự tồn tại một công ty, bằng cách thực hiện những hoạt
động thực tế để thành lập nó, kêu gọi nhiều người tham gia vào nó ngay khi
công ty được thành lập trên thực tế.”[7]
Sang thế kỷ 20, thuật ngữ này được xuất hiện lại trong một số văn bản
pháp lý của Ấn Độ, không phải về công ty, mà là về thị trường chứng khoán
như Hướng dẫn về công bố thông tin và bảo vệ nhà đầu tư năm 2000
(Disclosure and Investor Protection - “DIP Guidelines”) và Quy định về mua
lại cổ phần với quy mô lớn và mua lại công ty năm 1997 (Substantial
acquisition of Shares and Takeover Regulations) của Uỷ ban Chứng khoán
Ấn Độ - Securities Exchange Board of India. Giải thích I cho tiểu mục (k) và
(l) của Điều 6.8.3.2 của Chương VI - DIP Guidelines định nghĩa thuật ngữ
“promoter” bao gồm:
(a) một người hoặc nhiều người kiểm soát toàn bộ công ty;
(b) một người hoặc nhiều người thực hiện việc thành lập một kế hoạch
hoặc chương trình chiểu theo quy định phát hành chứng khoán đại
chúng;
(c) một người hoặc nhiều người có tên trên bản cáo bạch như là các sáng
lập viên của công ty.


Giám đốc hoặc những người tham gia quản lý công ty hoặc những người
thực hiện các công việc trên như là công việc chuyên môn thì không được quy
định theo phần giải thích này.
Khái niệm nêu trên của DIP Guidelines chỉ xoay quanh vai trò kiểm soát

của sáng lập viên với công ty nhưng nội dung cũng chưa rõ ràng. Bởi vậy,
Luật về Mua lại công ty năm 1997 đã định nghĩa thuật ngữ control - kiểm soát
này như sau:
“Kiểm soát bao gồm quyền bổ nhiệm các chức danh giám đốc hoặc
quyền kiểm soát việc quản lý hoặc kiểm soát các quyết định có thể thực hiện
được bởi một hoặc một số người hành động độc lập hoặc theo nhóm, trực tiếp
hoặc gián tiếp, nhờ việc nắm giữ cổ phần hoặc nhờ quyền quản lý hoặc nhờ
các thoả thuận mua cổ phần hoặc các thoả thuận bỏ phiếu hoặc bất kỳ hành vi
nào khác.”
Tuy vậy các văn bản này cũng không phản ánh hết được nội hàm của
khái niệm sáng lập viên công ty cổ phần mà chỉ đưa ra định nghĩa theo mục
đích của văn bản chứ không phải theo mục đích chung của việc sử dụng thuật
ngữ.
* Khái niệm từ án lệ: Trong khi các luật thành văn chưa định nghĩa một
cách đầy đủ về sáng lập viên công ty cổ phần thì các phán quyết của toà án
trong các vụ kiện liên quan đến các công ty tại Anh đã làm sáng tỏ hơn khái
niệm về chủ thể này.
Trong vụ kiện Twycross v. Grant - 1877, toà án tuyên bố “promoter là
người chịu trách nhiệm tạo ra một công ty liên quan tới một dự án cụ thể và
làm cho nó diễn ra và là người thực hiện những bước cần thiết để hoàn thiện
dự án”.[2,7]
Vụ kiện Twycross v. Grant - 1877: Vụ kiện xoay quanh những khiếu kiện
về hành vi lừa đảo của Albert Grant, người được coi là sáng lập viên


công ty cổ phần đầu tiên được biết đến trong các án lệ liên quan đến sáng
lập viên công ty cổ phần. Grant là người đầu tư vào bất kỳ hoạt động nào
mà ông ta cho rằng có thể sinh lời. Sau nhiều năm đầu tư thành lập các
công ty, Grant bị phá sản vào năm 1877 và từ đó ông rút khỏi thương
trường. Cũng vào năm này nhiều vụ kiện dân sự chống lại Grant đã diễn

ra liên quan đến công ty Lisbon Tramways Company được thành lập vào
năm 1871. Vụ kiện đầu tiên được xét xử là vụ kiện của nguyên đơn
James Twycross căn cứ theo điều 38 của Luật công ty năm 1867 do
Grant đã không công khai trong bản cáo bạch của công ty những hợp
đồng có thực - thực tế là một hợp đồng bí mật giữa Grant và công ty xây
dựng đường sắt để trả cho Grant 45.000 bảng Anh. Khoản tiền đó là tiền
bồi dưỡng cho Grant như một người góp phần thành lập nên công ty, và
một khoản tiền mà các nhà đầu tư tin rằng được đầu tư cho đất đai, máy
móc hay nhân công đã vào túi của Grant. Toà án đã xử thắng kiện cho
Twycross và phán quyết rằng các sáng lập viên công ty cổ phần phải
chịu hoàn toàn trách nhiệm về các thông tin trong bản cáo bạch và phải
công bố tất cả các hợp đồng ảnh hưởng đến công ty mới một cách đáng
kể, nghiêm trọng.[5]
Toà án xét xử vụ kiện Whaley Bridge Calico Printing Co v. Green -1879
đã tuyên bố: “Promoter là một thuật ngữ của kinh doanh, không phải của luật,
dùng để chỉ một nhóm các hoạt động liên quan tới thế giới kinh doanh mà nhờ
đó công ty được ra đời”.[2,7]
Vụ kiện Whaley Bridge Calico Printing Co v. Green - 1879: Robert E.
Green là chủ sở hữu một số các sản phẩm vải in hoa mà anh ta đã mua
với giá 15.000 bảng. Một thời gian ngắn sau khi mua, anh ta dự định bán
số hàng này cho người quản lý của anh ta, John Smith với giá 20.000
bảng bằng một hợp đồng mà toà án đã xác minh được là hợp đồng giả


mạo, và được dự định sẽ sử dụng để thoả thuận với một công ty cổ phần
được thành lập sau đó để mua lại số hàng trên. Đây là thoả thuận bí mật
giữa Green và Smith, và theo dự kiến Green sẽ trả cho Smith 3.000 bảng
từ số tiền mua tài sản của công ty Công ty nguyên đơn được thành lập
sau đó bởi Green và Smith và số hàng được chuyển nhượng cho công ty
với giá 20.000 bảng. Ban giám đốc công ty đã chấp thuận đề nghị của

họ, và để việc mua bán diễn ra xuôn xẻ, một hợp đồng giả mạo đã được
lập trước ban giám đốc như một hợp đồng thật bởi cả Green và Smith.
Smith đã được quyền thoả thuận với Green rằng anh ta sẽ đền đáp cho
Green 3.000 bảng từ số tiền bán số hàng, bởi thoả thuận giả mạo đã được
lập với sự hiểu biết và đồng thuận của công ty; nhưng công ty có quyền
rõ ràng coi tất cả lợi nhuận mà Smith thu được từ việc mua bán là lợi
nhuận của công ty. Vụ kiện đã được xử theo hướng đó và công ty
nguyên đơn được trả lại 5.000 bảng, khoản tiền chênh lệch cho số hàng
của Green.[6]
“Thuật ngữ promoter liên quan tới suy nghĩ về việc nỗ lực nhằm mục
đích tạo lập và bắt đầu một công ty (hay còn được gọi là khởi sự một công ty)
và cũng là ý nghĩ về một số nghĩa vụ đối với công ty được áp dụng hoặc phát
sinh từ vị trí mà một người được gọi là promoter đảm nhận” - Phán quyết
trong vụ kiện Emma Silver Mining Co. v. Lewis & son -1879.[2]
Những định nghĩa nêu trên tập trung vào việc một người đã làm trước
khi anh ta có thể được gọi là một promoter. Theo đó, sáng lập viên công ty cổ
phần sẽ là người chịu trách nhiệm thực hiện một phần hoặc toàn bộ những
công việc sau: Tổ chức để đi tới thành lập nên công ty; đăng ký thành lập
công ty; và tổ chức công ty ngay sau khi việc đăng ký hoàn thành. Khái niệm
này về sau được mở rộng hơn bao gồm cả những người trực tiếp tham gia vào


hoạt động của công ty sau thành lập như trở thành cổ đông của công ty hoặc
tham gia vào bộ máy quản lý của công ty cổ phần mới.
Một số phán quyết khác của tòa án trong các vụ kiện thường được trích
dẫn để giải thích nội hàm khái niệm sáng lập viên công ty cổ phần có thể kể
đến như tuyên bố của thẩm phán Pitney trong vụ kiện Bigelow & Old
Dominian Copper Mining & Smelting Co (1912): “Một sáng lập viên công ty
cổ phần người theo đuổi cơ hội để thực hiện các hoạt động mua bán có lợi và
đầu tư sinh lời trong kinh doanh hoặc với các công ty khác, đem lại lợi ích

cho một số người khi dự án được thực hiện, tổ chức chúng trong một công ty
nhằm mục đích nắm bắt lấy dự án, và tham dự vào công ty mới thành lập cho
đến khi nó được triển khai kinh doanh. Anh ta có thể là cổ đông, giám đốc,
người quản lý của công ty hoặc không ai trong số đó. Các dịch vụ của anh ta
bắt đầu từ trước khi công ty được thành lập và thường không chấm dứt cho
đến khi công ty được hình thành.”[7]
Phán quyết của Tòa tối cao bang Massachusetts trong phiên xử sau của
vụ kiện này lại chỉ ra: “các sáng lập viên (promoters) bao gồm những người
chịu trách nhiệm tạo ra một công ty cổ phần và đem lại cho nó các quyền,
phương tiện và vốn mà nhờ đó nó thực hiện được mục đích quy định trong
điều lệ công ty, và để tạo lập cho nó đầy đủ khả năng để kinh doanh. Công
việc của họ có thể bắt đầu khá lâu trước khi có tổ chức công ty, nhằm mở ra
một công ty (venture) và dự kiến một kế hoạch cho sự phát triển của nó, và có
thể tiếp tục sau khi thành lập xong công ty bằng việc thu hút đầu từ vốn trên
thị trường chứng khoán và tạo cho công ty hơi thở kinh doanh.”[2]
Thuật ngữ “promoter” cũng được định nghĩa là “một người bằng nỗ lực
của mình hợp tác trong việc đem đến sự thành lập một công ty và đăng ký
mua cổ phần của công ty. …. Thuật ngữ này không có ý nghĩa pháp lý thực tế
và áp dụng cho bất kỳ người nào tham gia vào hoạt động giới thiệu thành lập


công ty, cho dù anh ta có mong muốn ràng buộc với công ty hay không”
(Theo quan điểm của luật gia Victor Morazets trong cuốn Morawetz on
Corporations, tập 2, được trích dẫn trong vụ kiện Ex-Mission L. & W. Co. v.
Flash - 1893).[7]
Một định nghĩa khác về sáng lập viên công ty cổ phần cũng thường được
nhắc đến đó là theo quan điểm của phán quyết trong vụ kiện Dickerman v.
Northern Trust Co - 1900, đã định nghĩa một sáng lập viên công ty cổ phần là
một người đem lại sự thành lập một công ty và tổ chức của một công ty cổ
phần. Anh ta đem nhiều người đến với nhau, những người mà anh ta làm họ

trở nên thích thú với công ty, cho việc đăng ký tham gia công ty và xúc tiến
sự vận hành đi tới thành lập một công ty cổ phần.”[7]
* Nhóm sáng lập viên công ty cổ phần: Một công ty cổ phần có thể có
nhiều hơn một sáng lập viên công ty cổ phần. Các sáng lập viên công ty cổ
phần có thể liên hệ lẫn nhau liên quan đến việc phân chia cổ phần, hoa hồng
và các vấn đề pháp lý khác.
Một số tòa án phán quyết rằng các sáng lập viên công ty cổ phần là các
thành viên trong một công ty hợp danh (Án lệ các vụ kiện Malisewski v.
Singer – 1979, Refrigeration Engineering Co. v. McKay – 1971, McRee v.
Quitman Oil Co. – 1915). Một phán quyết của tòa Oregon đã cho rằng các
sáng lập viên công ty cổ phần là các thành viên hợp danh - “joint adventurers”
(Án lệ vụ kiện Abrams v. Puziss – 1963).[12]
Một tòa án khác lại quyên bố rằng mối quan hệ giữa các sáng lập viên
công ty cổ phần là một vấn đề thực tiễn phức tạp không dễ định nghĩa:
“Các mối quan hệ giữa các sáng lập viên công ty cổ phần không phải cái
có thể định nghĩa hay phân loại rõ ràng, nhưng các quyền và nghĩa vụ giữa họ
được dựa trên mối quan hệ hợp đồng cụ thể mà họ tham gia, các mục tiêu
chung của họ, nhiệm vụ cụ thể của họ trong nhóm các sáng lập viên, sự hiểu


biết có liên quan và sự đóng góp của họ vào công việc chung. Các quyền và
nghĩa vụ của họ được quyết định dựa vào các tài sản hiện có, có đóng góp hay
không khi cùng ở vị trí của các đồng sáng lập viên, có ai là đối tác và có ai là
đại diện hay không, hoặc có các mối quan hệ thực tế khác giữa họ hay không.
Một quyết định như vậy trở thành câu hỏi cơ bản của thực tiễn xét xử (phán
quyết trong vụ kiện Schuette v. Winternitz - 1972).[12]
Trong luật thành văn của một số quốc gia khác có quy định về khái niệm
nhóm sáng lập viên. Theo khoản mục (k) và (l) Điều 6.8.3.2 của Chương VI -
DIP Guidelines của Ấn Độ quy định nhóm sáng lập viên bao gồm các đặc
điểm như sau:

(a) Là sáng lập viên,
(b) có mối quan hệ họ hàng (vợ/chồng, bố mẹ, anh chị em…); và
(c) Nếu sáng lập viên công ty là một công ty, nhóm sáng lập viên bao
gồm công ty đó và:
i. một công ty con hoặc công ty quản lý vốn của công ty được thành lập;
ii. bất kỳ công ty nào mà sáng lập viên nắm giữ từ 10% trở lệ vốn điều lệ
hoặc nắm giữ từ 10% trở lên vốn điều lệ của sáng lập viên.
iii. bất kỳ công ty nào mà một nhóm cá nhân hoặc công ty hoặc nhóm cá
nhân và công ty nắm giữ từ 20% trở lên vốn điều lệ của sáng lập viên và cũng
nắm giữa từ 20% trở lên vốn điều lệ của công ty phát hành cổ phiếu; và
(d) Nếu sáng lập viên công ty là cá nhân, nhóm sáng lập viên bao gồm
người đó và:
i. bất kỳ công ty nào trong đó sáng lập viên công ty cổ phần hoặc người
thân của người này nắm giữ từ 10% vốn điều lệ trở lên; hoặc một hãng hoặc
hộ gia đình mà sáng lập viên hoặc bất kỳ người thân nào của anh ta là thành
viên.


ii. bất kỳ công ty nào trong đó công ty quy định trong điểm (i) ở trên
nắm giữ từ 10% vốn cổ phần; và
iii. bất kỳ hộ gia đình Hindu hoặc hãng nào trong đó tổng số cổ phần của
sáng lập viên và người thân của anh ta chiếm từ 10% tổng vốn trở lên.
iv. tất cả những cá nhân mà cổ phần của họ được tập hợp lại để công bố
trong bản cáo bạch dưới số cổ phần của nhóm sáng lập viên
Định nghĩa nêu trên không chỉ bao hàm trong đó sáng lập viên và người
thân của anh ta mà còn bao gồm cả công ty con hoặc công ty mẹ hoặc bất cứ
công ty nào mà sáng lập viên giữ từ 10% vốn trở lên. Với trường hợp sáng lập
viên là thể nhân, nhóm sáng lập viên bao gồm cả hộ gia đình Hindu hoặc một
hãng trong đó các sáng lập viên và người thân của anh ta chiếm hữu tổng số
cổ phần lớn hơn hoặc bằng 10% tổng vốn của công ty. Định nghĩa cũng nhắm

tới những người nắm giữ tổng số cổ phần đủ để công bố trong bản cáo bạch
của công ty phát hành cổ phiếu.
Có thể thấy khái niệm nhóm sáng lập viên ở trên đã phân biệt các sáng
lập viên là pháp nhân (bao gồm các công ty mẹ và công ty con) và sáng lập
viên là thể nhân (bao gồm người thân, công ty, hộ gia đình và hợp danh mà
anh ta sở hữu số lượng cổ phần nhất định). Tuy nhiên, khái niệm nhóm sáng
lập viên công ty cổ phần được định nghĩa trong DIP Guiline, cũng như định
nghĩa về sáng lập viên công ty cổ phần trong các quy định về thị trường
chứng khoán Ấn Độ chỉ được thiết kế nhằm công khai trong bản cáo bạch về
cổ phần và giao dịch chuyển nhượng của công ty phát hành cổ phiếu tại Ấn
Độ chứ không có nhiều ý nghĩa trong pháp luật về công ty.
* Sự du nhập của thuật ngữ “promoter” từ Anh vào một số quốc gia
Common Law khác: Thuật ngữ promoter xuất hiện đầu tiên nhằm mục đích
áp dụng cho các công ty cổ phần niêm yết tại Anh, sau đó khái niệm này mới
được phổ biến tại Hoa Kỳ. Tuy vậy thuật ngữ promoter được sử dụng tại Mỹ


với ý nghĩa giới hạn hơn nhiều tại Anh. Ủy viên Hội đồng thẩm phán
Simpson Tòa án tối cao bang Kansas, vào năm 1887, đã chỉ ra rằng: “Thuật
ngữ promoter có khởi nguồn từ phương thức hình thành công ty cổ phần phát
hành cổ phiếu thành lập tại Anh, nơi mà luật thừa nhận họ là các hợp danh
(partnership). Sau đó, vào kỷ nguyên phát triển đường sắt ở quốc gia này, việc
kinh doanh thành lập công ty của các công ty hợp danh như vậy có hình thức
rõ ràng hơn. Quá trình thông thường như sau: Sáng lập viên công ty cổ phần
giới thiệu công ty với một số người giàu có tại địa phương trên dọc các các
tuyến đường tầu hỏa được xây dựng một cách có mục đích tại các địa phương,
thông tin cho họ về tính chất và các viễn cảnh của công ty, và cung cấp đánh
giá dự kiến về các chi phí có thể. Những người này được mời mọc tham gia
bằng cách tham gia quản lý hoặc đăng ký cổ đông, hoặc cả hai. Khi đã đủ số
người để đảm bảo thành lập một ủy ban giám sát, ủy ban này bổ nhiệm trong

số các thành viên để thành lập ủy ban quản lý, cơ quan ban hành bản cáo
bạch, công bố các thuộc tính và lợi ích có thể của kế hoạch, các dự định để
tiến hành, số lượng vốn cần thiết, số lượng và giá cổ phần và các chi tiết khác
để đính kèm theo tên các sáng lập viên công ty cổ phần, liên quan đến tên của
những người thành lập nên ủy ban giám sát. Nếu tất cả những công việc này
dẫn tới khả năng chắc chắn thành công, đơn xin thành lập công ty sẽ được gửi
tới nghị viện để lấy giấy phép của công ty. Nếu kế hoạch thất bại, các chi phí
bỏ ra dẫn tới các vụ kiện, và nhiều thắc mắc về nghĩa vụ của các ủy ban này
và của các sáng lập viên công ty cổ phần được phán quyết. Nếu công ty được
đảm bảo bởi hành vi của nghị viện thì các thắc mắc khác được đặt ra là các
sáng lập viên công ty cổ phần có thể bị điều chỉnh bởi các đạo luật nào, những
luật nào có lợi cho công ty, và nhiều thắc mắc khác phát sinh ngoài vụ việc.”
Ngài Simpson thêm rằng: “cách thức này không giống với các thức tổ chức
công ty cổ phần của chúng tôi. Trên thực tế thuật ngữ này được sử dụng trong


án lệ nhưng với ý nghĩa giới hạn hơn nhiều thuật ngữ được sử dụng trong các
vụ kiện ở Anh.”[7]
Sự khác biệt quan trọng trong cách thức tổ chức công ty của hai quốc gia
là điều lệ đầu tiên của công ty cổ phần tại Anh chỉ được lập sau khi vốn cổ
phần được đăng ký bán rộng rãi và thường không muộn hơn khi một phần tiền
thanh toán cho số cổ phần rao bán đã được trả. Trong khi ở Hoa Kỳ, công ty
cổ phần thường được thành lập về mặt pháp lý trước khi bất kỳ khoản tiền nào
thực sự được thanh toán và thường trước khi danh sách đăng ký mua cổ phần
được chuẩn bị. Tình thế khi mà việc chấp thuận kế hoạch thành lập công ty bị
đình lại trong hai trường hợp sẽ khác biệt rõ rệt.[7]
Tuy thế thuật ngữ sáng lập viên công ty cổ phần cũng đã được vay mượn
và sử dụng rộng rãi tại Hoa Kỳ với quan điểm về nghĩa vụ và những sự hình
thành mối quan hệ của sáng lập viên công ty cổ phần, và cả các quy định pháp
luật được áp dụng cũng tương tự nhau ở cả hai quốc gia, ngoại trừ trường hợp

phát sinh do việc hủy bỏ công ty dự định thành lập.
Tại Úc, thuật ngữ “promoter” được thừa nhận bởi Hội đồng tòa án tối
cao (HCA) trong vụ kiện Tracy v. Mandalay Pty Ltd – 1953 và sau này được
mở rộng bao gồm những người “được coi là sáng lập viên công ty cổ phần”
[9]. Đó là khi một số người liên quan tới việc thành lập công ty không giữ bất
kỳ vai trò tích cực nào trong việc đăng ký nhưng thay vào đó lại ủy nhiệm
công việc này cho những người khác. Những người được ủy nhiệm thực hiện
công việc như luật sư và nhân viên kế toán, những người cung cấp các dịch vụ
chuyên môn liên quan đến thành lập công ty không được coi là các sáng lập
viên của công ty.
* Định nghĩa về sáng lập viên công ty cổ phần: Qua những khái niệm
được đưa ra trong án lệ của Common Law, có thể khái quát định nghĩa của
sáng lập viên công ty cổ phần như sau: Sáng lập viên công ty cổ phần là một


người (thể nhân hoặc pháp nhân) có ý chí ràng buộc trở thành bên ủy thác của
công ty cổ phần dự kiến thành lập, thực hiện một hoặc một số công việc để
xúc tiến và lập thành công ty, tổ chức các công việc này và tạo ra các nguồn
lực cho công ty để công ty có khả năng kinh doanh sau khi chính thức hình
thành. Đổi lại sáng lập viên công ty cổ phần sẽ thu được các lợi ích từ hợp
đồng cho/với công ty và khoản thù lao cho các dịch vụ đã thực hiện. Sáng lập
viên công ty cổ phần có thể là cổ đông của công ty cổ phần được thành lập
hoặc không.
Thực sự không phải lúc nào để thành lập một công ty cổ phần cũng cần
có sáng lập viên. Các sáng lập chỉ cần thiết cho quá trình thành lập các công
ty cổ phần có quy mô lớn về vốn (như công ty hỗ trợ đầu tư, bảo hiểm chứng
khoán, kinh doanh bất động sản) và thường là các công ty cổ phần đại chúng.
Quá trình chuẩn bị sẽ cần nhiều thời gian và phức tạp hơn, cần một người có
khả năng kêu gọi được các nhà đầu tư để thu hút đủ số lượng vốn cần thiết
cho công ty và cần người đăng ký thủ tục phát hành cổ phiếu cho công ty

Nhìn ở chiều ngược lại thì một cá nhân hay công ty cũng chỉ sẵn sàng trở
thành một sáng lập viên công ty cổ phần nếu khả năng thu lại lợi ích từ công
ty dự định thành lập cao hơn và chỉ các công ty cổ phần đại chúng có thể đáp
ứng được điều này.

1.1.2. Một số đặc trưng của sáng lập viên công ty cổ phần
a) Sáng lập viên công ty cổ phần có thể là thể nhân hoặc pháp nhân
Tùy theo pháp luật của quốc gia mà quy định có thừa nhận sáng lập viên
công ty cổ phần là tổ chức (công ty) hay không. Pháp luật về công ty của bang
Delaware - Hoa Kỳ chỉ thừa nhận sáng lập viên là cá nhân (individual) [3], đó
chính là tính hạn chế của thuật ngữ “promoter” trong pháp luật công ty Hoa
Kỳ so với pháp luật công ty của Anh. Nếu xét trên hành vi sáng lập và mục


đích sáng lập của tổ chức để cho ra đời một công ty mới nhằm tạo lập quan hệ
kinh doanh với chính nó thì một công ty có thể là sáng lập viên của công ty cổ
phần.
Với các quốc gia theo hệ thống Common Law thừa nhận sáng lập viên là
pháp nhân, các luật gia đã chỉ ra rằng nếu việc xúc tiến thành lập các công ty
khác không nằm trong quyền được quy định cho công ty theo điều lệ của công
ty, thì việc tổ chức công ty của những người quản lý công ty đó không làm
cho công ty trở thành sáng lập viên của công ty mới thành lập. Cũng giống
như sáng lập viên là cá nhân, sáng lập viên là công ty trở thành người được ủy
thác của công ty dự định thành lập. Tuy nhiên sự khác biệt rất lớn giữa hai
dạng sáng lập viên công ty cổ phần này là đối với cá nhân, người đó có năng
lực tự quyết định, tùy theo khả năng của mình người đó chấp nhận ràng buộc
nghĩa vụ làm sáng lập viên cho công ty cổ phần và thực hiện các công việc
cần thiết để thành lập công ty. Trong khi đó, đối với một công ty, quyền năng
của nó được quy định bởi điều lệ công ty thể hiện ý chí của các chủ sở hữu và
người điều hành công ty, các hoạt động của nó được thực hiện bởi bộ máy

nhân sự với nhiều mối liên kết phức tạp. Bởi vậy, nếu quyền tham gia thành
lập công ty mới của công ty bị giới hạn trong điều lệ thì có thể hiểu công ty
không có đầy đủ năng lực pháp lý để trở thành sáng lập viên (do không được
trao quyền đầy đủ) hay không thể hiện được ý chí trở thành sáng lập viên của
công ty cổ phần dự định thành lập. Khi đó tòa án sẽ không thừa nhận việc
công ty đó là sáng lập viên công ty cổ phần cũng như các quyền, nghĩa vụ liên
quan. Còn việc những người quản lý của công ty tham gia vào quá trình thành
lập một công ty cổ phần mới sẽ được coi là việc cung cấp dịch vụ thành lập
công ty và có thể được trả thù lao tùy theo thỏa thuận giữa công ty đó với
công ty dự định thành lập.


Các điều khoản của Điều lệ có thể liên quan đến quyền tham gia thành
lập công ty mới của công ty khác là quy định khá phổ biến trong điều lệ công
ty sáng lập bởi công ty sáng lập viên phải sử dụng vốn của mình để thực hiện
các hợp đồng tiền công ty, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tài chính của
công ty này. Các quyết định đầu tư tài chính của một công ty với giá trị đáng
kể sẽ bị yêu cầu có sự cho phép hoặc xem xét trước của ban quản trị công ty,
bao gồm cả việc đầu tư thành lập công ty mới. Đặc biệt việc thành lập công ty
mới lại là một quyết định có nhiều rủi ro cho công ty sáng lập như lĩnh vực
đầu tư không phù hợp, giá trị đầu tư không hợp lý, các khả năng về giao dịch
nội gián khiến công ty sáng lập bị thiệt hại vì vốn thay vì sinh lời từ công ty
mới sẽ là những cơ sở để điều lệ các công ty kiểm soát chặt chẽ quyền năng
này.
Một điểm khác biệt quan trọng của sáng lập viên là công ty với các sáng
lập viên cá nhân đó là các công ty không thể tránh được trách nhiệm đối với
các lợi ích bất hợp pháp bằng cách viện dẫn nguyên tắc Ultra vires [7]. Ultra
vires - tạm dịch là nguyên tắc không đủ khả năng - áp dụng trong trường hợp
sáng lập viên công ty cổ phần không công khai được các thông tin về các lợi
ích nhận được trong quá trình thành lập công ty cho tất cả các cổ đông của

công ty mới. Đối với cá nhân, điều này là sẽ không thể khi một công ty cổ
phần có rất nhiều cổ đông và sáng lập viên cá nhân không có khả năng, cũng
như công cụ để thông báo tới số lượng lớn cổ đông như vậy. Nhưng đối với
sáng lập viên là công ty, nó có bộ máy nhân sự và phương tiện để thực hiện
những công việc mà sáng lập viên cá nhân không thể làm như nắm được
danh sách tất cả các cổ đông của công ty mới và phát thông tin đến tất cả các
cổ đông này. Trong trường hợp này luật pháp yêu cầu công ty phải có sự nỗ
lực hết sức để đảm bảo thông tin về các lợi ích mà họ thu được từ các giao
dịch để thành lập công ty cổ phần mới đến được với tất cả các cổ đông của


công ty mới. Tất nhiên nguyên tắc này cũng sẽ có những ngoại lệ của nó.
Ví dụ trường hợp cổ đông chuyển nhượng cổ phần một cách không công khai,
không đăng ký trên sổ cổ đông, mà công ty không biết và không có khả năng
biết được sự chuyển nhượng đó.
b) Sáng lập viên công ty cổ phần gắn liền với các thoả thuận tiền công ty
Sáng lập viên công ty cổ phần là người thiết lập và thực hiện các
hợp đồng tiền công ty để tạo ra cơ sở vật chất và tổ chức bộ máy cho công ty
dự định thành lập. Và bất kỳ giao dịch nào sáng lập viên công ty cổ phần thực
hiện nhân danh công ty trước khi công ty được thành lập thực tế được coi là
các giao dịch tiền công ty.
Công ty không tồn tại về mặt pháp lý cho đến khi Điều lệ đầu tiên của
công ty được nộp theo đúng thủ tục. Vì vậy bất kỳ giao dịch tiền công ty nào
cũng phải được công nhận bởi công ty sau khi nó được thành lập nếu không
chúng sẽ vô hiệu. Các sáng lập viên công ty cổ phần có thể chịu trách nhiệm
cho các hợp đồng đã tham gia nhân danh công ty cổ phần cho đến khi các hợp
đồng được công nhận bởi công ty, trừ khi các hợp đồng đó đặc biệt chỉ ra rằng
sáng lập viên công ty đang hành động chỉ trên tư cách của công ty tương lai
và không tiếp nhận bất kỳ trách nhiệm cá nhân nào.
Các thoả thuận tiền công ty mà sáng lập viên công ty cổ phần ký kết và

thực hiện thường bao gồm [7]:
 Hợp đồng mua tài sản cho công ty dự định thành lập: bao gồm cả
các hợp đồng mua tài sản do chính sáng lập viên sở hữu hoặc cung
cấp.
 Hợp đồng thuê mướn nhân công: sáng lập viên công ty cổ phần
thường ký kết các hợp đồng thuê người quản lý, bảo vệ và vận hành
tài sản đã mua để sẵn sàng cho công ty dự định thành lập.


 Thoả thuận bầu chọn thành viên quản lý công ty: thoả thuận này
thường đề cập tới cách thức, thủ tục bầu chọn và nhiệm kỳ của các
thành viên quản lý cho công ty dự định thành lập.
 Thoả thuận về phân chia cổ phần của công ty: thoả thuận này là
cam kết về lợi ích mà sáng lập viên công ty nhận được từ vốn của
công ty được thành lập. Sáng lập viên có thể được nhận khoản lợi
ích dưới hình thức cổ phần hoặc theo tỷ lệ phần của vốn của công
ty.
 Thoả thuận quản lý công ty: là thoả thuận giữa các bên tham gia
vào việc thành lập công ty để bầu chọn tỷ lệ cổ phần của họ trong
công ty mới.
 Thoả thuận đăng ký cổ phần giữa sáng lập viên và người đăng ký
mua cổ phần của công ty: để chứng thực cho thoả thuận sáng lập
viên thường phát hành giấy chứng nhận mua cổ phần. Đây là chứng
chỉ sáng lập viên công ty cổ phần phát hành ra để ghi nhận số lượng
cổ phần đã mua của các nhà đầu tư, giá trị của số lượng cổ phần đó
và các quyền tương ứng được hưởng với số cổ phần này trong công
ty mới.
c) Mối quan hệ giữa sáng lập viên và công ty cổ phần tương lai
Một người sẵn sàng giữ vai trò sáng lập viên công ty cổ phần thường vì
một trong hai mục đích:

 Mong muốn làm cho công ty uỷ thác vào mình hoặc người dưới
quyền mình để thực hiện công việc thành lập công ty (quan hệ uỷ
thác); hoặc
 Mong muốn tạo ra công ty là nhằm mục đích công ty mua những cái
mà người đó bán.


Trong cuốn Lindley on Partnership (trang 58) của thẩm phán Baron
Lindley - một luật gia nổi tiếng của Anh, ông đã viết về sáng lập viên công ty
như sau [2]:
“Theo sự gợi ý, một số thứ được thực hiện bởi sáng lập viên nhằm ràng
buộc lên anh ta nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi của những người tạo lập cơ bản
công ty. Anh ta thừa nhận nghĩa vụ này nếu anh ta thừa nhận hành động vì họ,
hoặc nếu anh ta giới thiệu với họ để tin tưởng vào anh ta hoặc vào những
người do anh ta quản lý, và những người gần như anh ta; anh ta cũng thừa
nhận nghĩa vụ này nếu anh ta đề nghị sự ra đời công ty để nhằm mục đích
công ty có thể mua cái mà anh ta phải bán; nhưng anh ta không chịu nghĩa vụ
đó nếu thoả thuận với những người gánh vác nghĩa vụ đó và với những người
không bị ảnh hưởng bởi anh ta.”
Việc có tồn tại quan hệ này không phụ thuộc vào việc công ty mới mà
anh ta tham gia tạo dựng có thừa nhận mối quan hệ của anh ta với công ty như
một sáng lập viên hay không, theo quan điểm của Lindley: “nhưng anh ta
không chịu nghĩa vụ đó nếu thoả thuận với những người gánh vác nghĩa vụ đó
và với những người không bao giờ dưới tầm ảnh hưởng của anh ta.”
Giữa promoter và công ty tương lai có mối quan hệ ủy thác trong đó
promoter là người được ủy thác (fiduciary), còn công ty sau khi được thành
lập là người hưởng lợi/người ủy thác (benefiduciary). Fiduciary duty - nghĩa
vụ uỷ thác bao gồm các nội dung sau [11]:
 Liên quan tới quản lý tiền và tài sản giữa hai hoặc nhiều bên
 Một bên giữ vai trò bên yếu thế, uỷ thác niềm tin cho bên kia

 Bên được uỷ thác sẽ hỗ trợ, đưa ra lời khuyên hoặc sự bảo vệ trong
một số trường hợp
 Yêu cầu bên được uỷ thác luôn hành động vì lợi ích của bên kia và
trung thành với các lợi ích của bên uỷ thác.


Nghĩa vụ ủy thác của promoter với công ty cổ phần dự định thành lập sẽ
được trình bày cụ thể hơn trong chương 2 của luận văn này.
d) Sự bắt đầu và chấm dứt vai trò sáng lập viên công ty cổ phần
Vấn đề một người trở thành sáng lập viên của công ty cổ phần khi nào
không dễ trả lời và cũng rất cần được xác định trong các án lệ của Common
Law. Việc xác định này quan trọng trong nhiều trường hợp để xác định quyền
lợi và nghĩa vụ của người tham gia thành lập công ty đang chiếm hữu tài sản
mà người đó cho rằng thuộc về công ty cổ phần mới. Đây là vấn đề mà khi
xem xét các vụ kiện, toà án sẽ phải căn cứ vào các dấu hiệu đã nêu ở trên để
xác định xem từ khi nào một người trở thành sáng lập viên của công ty cổ
phần.
Vai trò của một sáng lập viên có thể kéo dài cho đến sau khi công ty cổ
phần được thành lập. Không phải mọi trường hợp vai trò của sáng lập viên
chấm dứt khi công ty được thành lập. Sẽ có hai trường hợp xảy ra cho sáng
lập viên lựa chọn khi công ty được hình thành, một là sáng lập viên tiếp tục
tham gia vào công ty mới dưới một số hình thức hoặc nhận thù lao từ công ty
và rời đi.
 Sáng lập viên công ty cổ phần có thể tiếp tục tham gia vào công ty
mới, dưới các hình thức:
 Sáng lập viên công ty cổ phần đăng ký nhận cổ phần của công ty và
trở thành cổ đông của công ty. Trong trường hợp sáng lập viên
thông qua, ký tên vào điều lệ đầu tiên của công ty thì lúc này người
đó trở thành cổ đông sáng lập của công ty cổ phần.
 Sáng lập viên công ty cổ phần cũng có thể ứng cử hoặc tham gia

vào bộ máy quản lý của công ty cổ phần được thành lập.
 Hoặc sáng lập viên công ty cổ phần nhận lấy một khoản lợi ích từ công
ty, có thể bằng cách bán tài sản mà mình đang sở hữu hoặc là một khoản bù


đắp cho công việc mà người đó đã thực hiện và rời khỏi công ty. Trong
trường hợp này vai trò của sáng lập viên công ty cổ phần chấm dứt khi người
này hoàn thành các quyền và nghĩa vụ với công ty mới.
Vai trò của một promoter tiếp diễn trong trường hợp thứ nhất, theo quan
điểm của Thẩm phán trưởng Cockburn của Tòa Phúc thẩm Anh giải thích như
sau [7]: “Theo tôi nếu việc hình thành công ty vẫn tiếp tục thì những người
thực hiện công việc này vẫn tiếp tục giữ vai trò sáng lập viên công ty. Còn
đương nhiên khi một cơ quan quản lý như một ban lãnh đạo đã được thiết lập
và có thể duy trì việc quản lý theo cách của họ thì chức năng của sáng lập
viên sẽ kết thúc. Nhưng nếu các sáng lập viên được ban giám đốc cho phép
thực hiện công việc xây dựng công ty về sau theo yêu cầu thì họ giữ tư cách
sáng lập viên trong ban quản trị (đại hội đồng cổ đông) để bảo đảm cho hoạt
động công ty”.
Thực tế rằng một người khi nhận lấy vai trò sáng lập viên công ty cổ
phần, trước khi công ty được hình thành, người này hành động tất cả vì lợi ích
của công ty tương lai nhưng mục đích của việc thành lập công ty vẫn là lợi
nhuận. Khi công ty đã được hình thành, tất yếu sáng lập viên công ty cổ phần
sẽ phải được nhận lại những lợi ích nhất định hoàn trả cho nghĩa vụ ủy thác
mà họ thực hiện. Việc duy trì vai trò của sáng lập viên công ty cổ phần khi
công ty đã được thành lập chỉ có ý nghĩa cho việc bảo đảm vốn cho công ty
với tư cách là người giữ một phần vốn của công ty.
e) Sự tồn tại của các “promoter” ngày nay: Từ Chiến tranh thế giới thứ
nhất có rất ít các vụ kiện liên quan đến trách nhiệm của các sáng lập viên
công ty cổ phần. Từ sau khi Luật Công ty Anh năm 1907 quy định giảm số
lượng thành viên tối thiểu của công ty tư nhân còn hai người đã làm giảm và

không có khiếu kiện về các hợp đồng mà sáng lập viên công ty cổ phần ký
kết. Đối với các công ty đầu tư lớn, cổ phần được bán rộng rãi cho công

×