1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ NGA
PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM BẰNG CÁC
LOẠI GIẤY TỜ CÓ GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2011
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỀN THỊ NGA
PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM BẰNG CÁC
LOẠI GIẤY TỜ CÓ GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO
VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT
NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy
Hà nội – 2011
4
MỤC LỤC
BẢNG VIẾT TẮT 1
LỜI CẢM ƠN! 3
LỜI MỞ ĐẦU 6
Chƣơng I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM BẰNG
CÁC GIẤY TỜ CÓ GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI. 10
1.1.Khái niệm, đặc điểm, bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của
NHTM 10
1.1.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay 10
1.1.2. Đặc điểm của bảo đảm tiền vay. 11
2.2.Khái niệm, đặc điểm của giấy tờ có giá và bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ
có giá. 12
2.2.1.Khái niệm giấy tờ có giá. 12
2.2.2.Đặc điểm của giấy tờ có giá: 14
2.2.3. Các loại giấy tờ có giá. 14
1.3. Điều kiện để các giấy tờ có giá trở thành tài sản bảo đảm tiền vay của
các NHTM 18
1.4. Vai trò của đảm bảo tiền vay bằng giấy tờ có giá trong hoạt động cho
vay của các Ngân hàng thƣơng mại. 22
1.4.1. Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá là cơ sở bảo đảm an toàn cho
hoạt động cho vay của các NHTM. 22
1.4.2. Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá kích thích hoạt động cho vay
của các ngân hàng 25
1.4.3. Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá có vai trò quan trọng trong
việc hạn chế tranh chấp xảy ra, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên tham gia quan hệ tín dụng ngân hàng. 26
1.5.Mối quan hệ giữa hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá và hợp
đồng tín dụng 28
Chƣơng II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM BẰNG
GIẤY TỜ CÓ GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 32
2.1. Chủ thể của hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá. 32
2.1.1. Bên nhận bảo đảm. 33
2.2. Định giá tài sản bảo đảm tiền vay là giấy tờ có giá 41
2.3.Hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá. 44
2.3.1. Hợp đồng cầm cố GTCG. 45
2.3.2. Hợp đồng thế chấp GTCG 46
5
2.4. Công chứng, chứng thực hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá.
47
2.5. Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá. 48
2.5.1. Ý nghĩa pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm 48
2.5.2. Đối tƣợng đăng ký giao dịch bảo đảm 51
2.6. Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là giấy tờ có gía 53
2.6.1. Căn cứ để xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. 53
2.6.2. Thủ tục và phƣơng thức xử lý tài sản bảo đảm tiền vay 54
2.7. Bảo đảm tiền vay bằng một số giấy tờ có giá phổ biến 59
2.7.1.Cầm cố chứng khoán. 59
2.7.2. Cầm cố sổ tiết kiệm. 66
Chƣơng III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN HIỆU QUẢ BẢO ĐẢM
TIỀN VAY BẰNG GIẤY TỜ CÓ GIÁ CỦA NHTM Ở VIỆT NAM. 74
3.1. Về quyền của bên nhận cầm cố giấy tờ có giá 75
3.2. Về định giá tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá 75
3.3. Công khai hóa thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm. 76
3.4. Về hiệu lực của giao dịch bảo đảm bằng GTCG. 78
3.5. Các quy định về xử lý tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá. 82
KẾT LUẬN 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 86
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đại hội Đảng lần thứ VI và những văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
mở đường cho công cuộc đổi mới đất nước theo hướng chuyển đổi nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong 20 năm qua, công cuộc đổi mới nền kinh tế đã đạt được nhiều thành
công, các chỉ số kinh tế cơ bản như GDP, xuất nhập khẩu, đầu tư, thu chi ngân sách
nhà nước đều đạt cao và bền vững, Có được kết quả trên, ngoài sự đóng góp chung
của cả nước, phải kể đến những nỗ lực của các ngành, các cấp, trong đó có ngành
ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi và kiềm chế
lạm phát, từng bước duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá, góp phần cải thiện
kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh. Đây là kết quả tác động
nhiều mặt của đổi mới hoạt động ngân hàng, nhất là những cố gắng của ngành ngân
hàng trong việc huy động các nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển, trong
việc đổi mới chính sách cho vay và cơ cấu tín dụng theo hướng căn cứ chủ yếu vào
tính khả thi và hiệu quả của từng dự án, từng lĩnh vực ngành nghề để quyết định
cho vay. Dịch vụ ngân hàng cũng phát triển cả về chất lượng và chủng loại, góp
phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực cho
việc duy trì sự tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao trong nhiều năm liên tục. Với dư
nợ cho vay nền kinh tế chiếm khoảng 35-37% GDP, mỗi năm hệ thống ngân hàng
đóng góp trên 10% tổng mức tăng trưởng kinh tế của cả nước[36].
Cũng thời gian gần đây, thế giới đã chứng kiến sự sụp đổ của hàng loạt các
ngân hàng và các tập toàn tài chính lớn trên thế giới tạo ra sự khủng hoảng toàn
diện, sâu rộng đến mọi mặt của nền kinh tế- xã hội toàn cầu.
7
Vấn đề đặt ra cho chúng ta đó là sự mâu thuẫn giữa sự phát triển của thị
trường tín dụng và vấn đề an toàn tín dụng. Chúng ta biết rằng, rủi ro trong hoạt
động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng được biết đến như một đặc
thù, một yếu tố khách quan của kinh doanh tiền tệ ngân hàng. Và kinh doanh tiền tệ
chứa đựng nhiều rủi ro hơn bất kỳ một ngành kinh doanh nào khác. Thực tiễn hoạt
động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại đã cho thấy, rủi ro đối với NHTM
trong nền kinh tế thị trường gồm nhiều loại như: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản,
rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái…trong đó rủi ro tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất. Bởi
vậy, cùng với các biện pháp bảo đảm mang tính chuyên ngành, nghiệp vụ…không
thiếu những chế tài, biện pháp, các quy định pháp luật nhằm hạn chế những rủi ro
này, đăc biệt là rủi ro trong hoạt động cho vay. Không chỉ với các nước có nền phát
triển lâu đời trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, mà ở nước ta, mặc dù thị trường tín
dụng mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển song đã có rất nhiều các quy định pháp
luật chung cũng như chuyên ngành nhằm bảo đảm an toàn tín dụng nói chung cũng
như bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu.
Nghiên cứu về các biện pháp bảo đảm tiền vay nói chung không phải là một
vấn đề mới mẻ, trái lại, đây là một vấn đề quen thuộc, đã được đề cập đến nhiều
trong các công trình nghiên cứu khoa học cũng như các bài báo, tạp chí, có thể kể
đến: Sách chuyên khảo “Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ
chức tín dụng” do TS. Lê Thị Thu Thuỷ chủ biên; Luận án tiến sỹ “Những giải
pháp bảo đảm tiền vay của Ngân hàng thương mại” của tác giả Nguyễn Như Minh
(năm 1996)…Song chưa thực sự có một công trình nghiên cứu nào đi sâu vào
nghiên cứu một cách có hệ thống về biện pháp bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có
giá, vì vậy, với yêu cầu của sự phát triển kinh tế và những thách thức to lớn đặt ra
đối với vấn đề an toàn tín dụng trong giai đoạn hiện nay, đề tài “Pháp luật về biện
8
pháp bảo đảm bằng các loại giấy tờ có giá trong hoạt động cho vay của các Ngân
hàng thương mại Việt Nam” với cách tiếp cận có hệ thống về các quy định của
pháp luật Việt Nam về vấn đề bảo đảm bằng các loại giấy tờ có giá trong hoạt động
cho vay của các Ngân hàng thương mại từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Hy vọng đề tài sẽ đem lại những kết quả thiết
thực về lý luận cũng như thực tiễn.
3. Phạm vi và mục tiêu nghiên cứu.
Trong phạm vi của luận văn này, tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu những
vấn đề sau:
Thứ nhất, các vấn đề lý luận về bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay
của các NHTM, về giấy tờ có giá, giao dịch bảo đảm, quyền và nghĩa vụ của các
bên trong quan hệ tín dụng có bảo đảm bằng các giấy tờ có giá của các NHTM ở
Việt Nam
Thứ hai, hệ thống hoá, tập trung đi sâu làm rõ các quy định hiện hành của
pháp luật Việt Nam trong việc bảo đảm bằng các giấy tờ có giá trong hoạt động cho
vay, điều kiện áp dụng, chỉ ra những hạn chế vướng mắc trong khi áp dụng các quy
định của pháp luật nói trên trong thực tiễn.
Thứ ba, luận văn đi sâu vào phân tích thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của
những vướng mắc liên quan đến việc bảo đảm bằng các giấy tờ có giá trong hoạt
động cho vay của các NHTM ở Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp,
kiến nghị để hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện bảo đảm bằng các giấy tờ có
giá trong hoạt động cho vay của NHTM ở Việt Nam, nâng cao hiệu quả của giao
dịch bảo đảm đối với loại giấy tờ có giá.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
9
Trong quá trình nghiên cứu, dựa trên nền tảng của phép duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, người viết sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp các quy định của pháp luật.
- Phương pháp so sánh pháp luật: So sánh các quy định của pháp luật trước
đây và các quy định của pháp luật hiện hành,
- Phương pháp thống kê.
5.Bố cục của luận văn.
Ngoài lời cảm ơn, lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bảng
viết tắt, luận văn gồm ba chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về biện pháp bảo đẩm bằng các giấy tờ
có giá trong hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại.
Chương II: Thực trạng pháp luật về biện pháp bảo đảm bằng các giấy
tờ có giá trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thƣơng mại ở Việt
Nam.
Chương III: Các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả bảo đảm tiền
vay bằng giấy tờ có giá của NHTM ở Việt Nam
10
Chƣơng I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẢO
ĐẢM BẰNG CÁC GIẤY TỜ CÓ GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO
VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI.
1.1.Khái niệm, đặc điểm, bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của
NHTM .
1.1.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay
Theo nghĩa rộng, bảo đảm tiền vay là việc thiết lập các điều kiện nhằm xác
định khả năng thực có của khách hàng đối với việc hoàn trả vốn vay đúng thời hạn
[32,Tr 43]. Với cách hiểu này, bảo đảm tiền vay không chỉ đơn thuần và duy nhất là
cho vay phải có tài sản để thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh mà cần hiểu nó theo
nghĩa rộng. Hay nói cách khác, bảo đảm tiền vay “là hàng loạt các giải pháp nhằm
mục đích thực hiện cho được yêu cầu buộc vốn cho vay ra phải được quay về với
người cho vay sau một chu kỳ nhất định với đầy đủ cả gốc và lãi”[32, Tr44].
Điều này có nghĩa, ngoài các biện pháp cụ thể như cầm cố, bảo lãnh, thế
chấp…được áp dụng để đảm bảo thu hồi khoản vay thì các tổ chức tín dụng phải áp
dụng các biện pháp tổng thể mang tính nghiệp vụ, các công cụ phân tích tài chính-
tín dụng, xem xét tính khả thi của dự án, mục đích của người vay, khả năng tài
chính hiện tại và trong tương lai của khách hàng vay…nhằm đảm bảo cho các
khoản vay có được sự an toàn cao nhất trong khả năng thu hồi nợ.
Theo nghĩa hẹp, bảo đảm tiền vay là những biện pháp bảo đảm việc trả nợ
vốn vay (cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay, bảo lãnh bằng tài sản
của bên thứ ba, cầm cố, thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay).
Hiểu theo nghĩa này, bảo đảm tiền vay bao gồm các biện pháp bảo đảm
thuộc phạm trù chủ quan, thể hiện ở chỗ: do các chủ thể thoả thuận thiết lập, áp
dụng dựa trên các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm nói chung và bảo
11
đảm tiền vay nói riêng, để tạo sự yên tâm cho nhau trong quan hệ nghĩa vụ, có tác
dụng dự phòng đối với những hành vi không hợp pháp, tạo cơ sở kinh tế khắc phục
thiệt hại vật chất của bên bị thiệt hại. Nói cách khác, bảo đảm tiền vay là sự thoả
thuận của người đi vay và người cho vay dựa trên các quy định của Nhà nước nhằm
thiết lập các biện pháp tác động mang tính chất dự phòng để đảm bảo việc trả nợ
vốn vay, ngăn ngừa vi phạm và tạo khả năng khắc phục những hậu quả do vi phạm
nghĩa vụ trả nợ gây ra.
1.1.2. Đặc điểm của bảo đảm tiền vay.
Qua định nghĩa về bảo đảm tiền vay cả trên phương diện nghĩa rộng và nghĩa
hẹp, bảo đảm tiền vay có một số đặc điểm sau:
- Bảo đảm tiền vay là các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Đặc điểm này cũng
được xem như là mục đích của việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay, bởi lẽ
các biện pháp bảo đảm tiền vay chính là các bảo đảm cho các tổ chức tín dụng có
khả năng thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Việc xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay không phải là cái đích mà các bên hướng tới, song, trong điều kiện
nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay thì có lẽ đây là biện pháp hữu hiệu nhất
để phòng ngừa rủi ro và bảo toàn vốn vay của các TCTD.
- Bảo đảm tiền vay tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã
cho khách hàng vay. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh
luôn gắn liền với yếu tố rủi ro và rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng
vay vốn chính là một trong các nguyên nhân dẫn đến việc các TCTD không thu hồi
được các khoản nợ đã cho vay. Trong trường hợp khách hàng rơi vào tình trạng mất
khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán, ngân hàng có thể tránh được mọi hậu
quả liên quan đến việc phá sản của khách hàng thông qua tài sản bảo đảm tiền vay.
Nếu một khoản vay không có bảo đảm thì trong trường hợp khách hàng không trả
nợ khi đến thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, ngân hàng sẽ đứng
12
chung hàng với các chủ nợ không có bảo đảm khác và việc thu hồi các khoản nợ là
rất khó khăn. Ngoài ra, nhờ có bảo đảm tiền vay mà ngân hàng có thể thu hồi vốn
mà không phụ thuộc vào khách hàng có ý định thực hiện nghĩa vụ trả nợ hay
không. Do vậy, vấn đề đặt ra là cần phải áp dụng biện pháp nào đó để TCTD có thể
thu hồi được các khoản nợ đã cho vay trong mọi trường hợp và bảo đảm tiền vay
chính là để nhằm mục đích này.
2.2.Khái niệm, đặc điểm của giấy tờ có giá và bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có
giá.
2.2.1.Khái niệm giấy tờ có giá.
Pháp luật Việt Nam hiện hành chưa có một quy định thống nhất nào về giấy
tờ có giá. Giấy tờ có giá nói chung, được hiểu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ,
trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định (tổ chức, cá nhân) xét
trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể khác[ ].
Đối với hoạt động huy động vốn của các ngân hàng, khái niệm giấy tờ có giá
được hiểu theo nghĩa rất hẹp, chỉ bao gồm các phiếu nợ do ngân hàng phát hành
dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền chủ nợ của
người sở hữu phiếu nợ và nghĩa vụ trả một số tiền nhất định của ngân hàng phát
hành vào một thời điểm xác định ghi trên phiếu nợ.
Điều 4 Quyết định 07/2008/QĐ- NHNN ngày 24/3/2008 của Ngân hàng nhà
nước ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của tổ chức tín dụng,
quy định: “Giấy tờ có giá” là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy
động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn
nhât định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng
và người mua”.
Tại điều 5 Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của TCTD đối
với khách hàng vay ban hành kèm theo Quyết định số 1325/2004/QĐ- NHNN ngày
15/10/2004 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước (đã được sửa đổi, bổ sung, theo
13
Quyết định số 17/2006/QĐ-NHNN ngày 20/4/2006 của NHNN, quy định: Các
loại giấy tờ có giá được tổ chức tín dụng lựa chọn chiết khấu, tái chiết khấu bao
gồm:
1.Các giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng phát hành theo quy định của Luật
các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2.Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước phát hành theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam.
3.Các loại trái phiếu được phát hành theo quy định của Chính phủ và hướng
dẫn của Bộ Tài chính, bao gồm: Tín phiếu kho bạc; Trái phiếu kho bạc; Trái phiếu
công trình trung ương; Trái phiếu đầu tư; Trái phiếu ngoại tệ; Công trái xây dựng
tổ quốc; Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh; Trái phiếu chính quyền địa phương.
4.Các tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu do tổ chức khác phát hành và đươc chiết
khấu, tái chiết khấu theo quy định của pháp luật.
Theo Khoản 9, Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ- CP ngày 29/12/2006 về giao
dịch bảo đảm: “Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu,
chứng chỉ tiền gửi, séc, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá
được thành tiền và được phép giao dịch”.
Trong thực tế giấy tờ có giá cũng chỉ được hiều một cách chung chung, trong
quy định về cho vay cầm cố giấy tờ có giá của các NHTM cũng không có khái
niệm thống nhất về giấy tờ có giá mà chỉ quy định các loại giấy tờ có giá, như theo
quy định về cầm cố giấy tờ có giá của Ngân Hàng MHB ,các loại giấy tờ có giá
được cầm cố gồm :
Trái phiếu Chính phủ: Tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc,
trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu ngoại tệ, công trái
xây dựng Tổ quốc.
Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
14
Các giấy tờ có giá do MHB và các ngân hàng thương mại quốc
doanh khác (kể cả các công ty chứng khoán của các Ngân hàng
Thương mại quốc doanh), hoặc các công ty tài chính của các
tổng công ty nhà nước phát hành gồm: Trái phiếu, kỳ phiếu, sổ
tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi …
Giấy tờ có giá do tiết kiệm bưu điện phát hành.
Các giấy tờ có giá khác do Tổng Giám đốc MHB quy định trong
từng thời kỳ.
Như vậy, pháp luật nước ta và trong thực tế hoạt động của các tổ chức tài
chính chưa đưa ra được một định nghĩa thống nhất nào về giấy tờ có giá, mà chỉ
quy định theo hướng liệt kê các loại giấy tờ nào được coi là giấy tờ có giá. Thông
qua các quy định nói trên, có thể hiểu một cách khái quát nhất: “Giấy tờ có giá là
các loại giấy tờ xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu giấy tờ đó, có
thể định giá được bằng tiền và được phép sử dụng trong các giao dịch dân sự”.
2.2.2.Đặc điểm của giấy tờ có giá:
Giấy tờ có giá có 3 đặc điểm:
- Xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định.
- Trị giá được bằng tiền.
- Có thể chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao lưu dân sự.
2.2.3. Các loại giấy tờ có giá.
Xét trên khía cạnh thời hạn của các loại giấy tờ có giá, có thể chia chúng
thành hai loại: giấy tờ có giá ngắn hạn và giấy tờ có giá dài hạn.
Giấy tờ có giá ngắn hạn:
15
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá: Giấy tờ
có giá ngắn hạn là giấy tờ có thời hạn dưới một năm bao gồm kỳ phiếu, chứng chỉ
tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Kỳ phiếu ngân hàng là một loại hối phiếu nhận nợ, do Ngân hàng phát hành,
trong đó ngân hàng cam kết thanh toán một số tiền nhất định cho người thụ hưởng
được chỉ định trên hối phiếu vào một thời điểm xác định [36, tr134]
Chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn là văn bản do ngân hàng phát hành để chứng
nhận rằng người sở hữu văn bản đã gửi tiền vào ngân hàng. Chứng chỉ tiền gửi
ngắn hạn (với thời hạn dưới 1 năm) thực chất là lời hứa trả một lượng tiền nhất
định cho người sở hữu nó vào một thời điểm nhất định trong tương lai.
Ở Mỹ và Anh, nó là loại trái phiếu “có thể trao đổi”, nghĩa là có thể chuyển
nhượng đơn giản bằng cách trao cho người mua. Đồng thời ở một số nước, ngân
hàng phát hành còn cho phép người sở hữu loại chứng chỉ này có thể bán chúng
trước hạn (với một mức giá khấu trừ). Vì vậy, chúng có khả năng thanh toán cao
đối với người sở hữu, đồng thời đảm bảo nguồn vốn cho ngân hàng trong một thời
gian.
Chứng chỉ tiền gửi có các đặc điểm tương tự như Tiền gửi tiết kiệm nhưng
khác ở chỗ: được hưởng lãi suất cao hơn, được phép chuyển nhượng, không được
đáo hạn.
Chứng chỉ tiền gửi áp dụng lần đầu tiên ở Mỹ vào đầu những năm 60, sau đó
được lưu hành ở Anh. Hiện nay công cụ này được hầu hết các ngân hàng thương
mại lớn của Mỹ phát hành và thu được những thành công lớn, với tổng số dư gần
đây vượt quá tổng số dư của tín phiếu kho bạc Mỹ. Chúng là những nguồn vốn đặc
biệt quan trọng mà các ngân hàng thương mại nhận từ các công ty, các quỹ tương
trợ cho thị trường tiền tệ, và các cơ quan của chính phủ. Ở Việt Nam hiện nay,
chứng chỉ tiền gửi đang trở thành một trong những sản phẩm huy động vốn “ưa
16
thích” của các ngân hàng bởi tính chất “không được đáo hạn” của loại giấy tờ có
giá này rất thuận lợi cho các ngân hàng trong kế hoạch sử dụng vốn lâu dài.
Tín phiếu là một loại giấy tờ có giá ngắn hạn (có kỳ hạn dưới một năm) do
chính phủ (NHNN, BTC…) phát hành nhằm mục đích huy động vốn nhàn rỗi trong
nhân dân bổ sung cho ngân sách nhà nước. Tín phiếu thường được phát hành bằng
phương pháp đấu giá hàng tuần, hàng tháng hoặc hàng quý qua hệ thống ngân
hàng. Người mua tín phiếu đóng vai trò là chủ nợ, sau khi đến kỳ hạn người mua sẽ
được hoàn trả lại cả vốn và lãi và được bảo đảm quyền lợi theo quy định của pháp
luật ngân hàng. Loại giấy tờ có giá này thường có trong danh mục đầu tư của các
ngân hàng thương mại, các quỹ đầu tư tập thể, các công ty chứng khoán…
Giấy tờ có giá trung và dài hạn:
Theo Khoản 3 Điều 4 Quy chế phát hành Giấy tờ có giá của các tổ chức tín
dụng: “ Giấy tờ có giá trung và dài hạn là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở
lên, bao gồm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài hạn
khác”. Định nghĩa nêu trên là một định nghĩa tương đối đầy đủ khi liệt kê được một
số loại giấy tờ có giá thường sử dụng nhất của NHTM. Tuy nhiên, Quy chế phát
hành giấy tờ có giá đã bỏ qua một loại giấy tờ có giá rất quan trọng trên thị trường,
là đối tượng chủ yếu của các giao dịch chứng khoán và được niêm yết trên thị
trường chứng khoán. Đó là các cổ phiếu.
Cổ phiếu là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối
với một công ty cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu.
Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng
nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một
giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu và chỉ có công ty cổ phần mới phát
hành cổ phiếu. Mệnh giá của cổ phiếu là số tiền ghi trên bề mặt của cổ phiếu. Đơn
vị của mệnh giá lớn hay nhỏ là do luật chứng khoán hoặc điều lệ của doanh nghiệp
quy định.
17
Trái phiếu là một loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành, quy định nghĩa vụ
của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ trái phiếu (cho
người vay) một khoản tiền xác định, thường là những khoảng thời gian cụ thể, và
phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi đáo hạn. Mệnh giá của trái phiếu là số tiền
ghi trên bề mặt của trái phiếu. Phát hành trái phiếu thực chất là việc đi vay vốn.
Người phát hành trái phiếu có thể là Chính phủ khi cần huy động vốn cho ngân
sách nhà nước hay doanh nghiệp khi huy động vốn để đầu tư phát triển sản xuất,
kinh doanh. Người mua trái phiếu, hay còn gọi là trái chủ, có thể là cá nhân, doanh
nghiệp hoặc Chính phủ (trừ việc mua trái phiếu chính phủ). Là chủ nợ, người nắm
giữ trái phiếu có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về số lượng và thời
hạn song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành. Lãi suất
của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố như cung cầu vốn
trên thị trường tín dụng (Lượng cung cầu đó lại tuỳ thuộc vào chu kỳ kinh tế, động
thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt ngân sách của chính
phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó), mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của
từng đợt phát hành (Cấu trúc rủi ro lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu.
Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao), và phụ thuộc vào thời gian đáo hạn của trái
phiếu (Nếu các trái phiếu có mức độ rủi ro như nhau, nhìn chung thời gian đáo hạn
càng dài thì lãi suất càng cao).
Về mặt lợi ích, Trái phiếu là công cụ nợ có độ tin cậy cao nhất, đặc biệt là
trái phiếu chính phủ. Trái phiếu Chính phủ thường được coi là có mức độ rủi ro
thấp nhất, vì Chính phủ có khả năng thu thuế hoặc phát hành tiền để trả nợ. Trong
môi trường lạm phát thấp, đầu tư trái phiếu là một cách an toàn để duy trì nguồn
thu nhập thường xuyên. Khi thị trường chứng khoán biến động, đầu tư trái phiếu là
một cách giúp đảm bảo an toàn vốn đầu tư và phân tán rủi ro. Bởi vậy trái phiếu nói
chung và trái phiếu Chính phủ nói riêng đã trở thành một công cụ tài chính quan
18
trọng và là loại giấy tờ có giá được sử dụng hiệu quả nhất trong việc bảo đảm tiền
vay tại các ngân hàng thương mại hiện nay.
Ngoài ra, sổ tiết kiệm cũng được xem là một loại giấy tờ có giá được sử dụng
khá phổ biến trong các giao dịch có bảo đảm bằng các loại giấy tờ có giá.
1.3. Điều kiện để các giấy tờ có giá trở thành tài sản bảo đảm tiền vay của các
NHTM
Cũng như các tài sản khác, để trở thành tài sản bảo đảm trong hợp đồng bảo
đảm tiền vay, giấy tờ có giá phải đảm bảo các điều kiện nhất định.
Theo quy định tại khoản 1, khoản 3, Điều 4, Nghị định 163/2006/ NĐ- CP
ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm: “Tài sản đảm bảo do các bên thoả thuận và
thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ…và được phép giao dịch”; “Doanh nghiệp nhà
nước được sử dụng tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”
Điều 236 BLDS cũng quy định: “Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
phải thuộc sở hữu của người bảo đảm và được phép giao dịch”. Đây là một quy
định rất đặc biệt của Bộ luật dân sự, của pháp luật dân sự Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay và cũng được áp dụng đối với trường hợp cầm cố giấy tờ có giá vay vốn
ngân hàng. Quy định này có ý nghĩa không chỉ về lý luận mà còn quan trọng trong
việc giải quyết những hậu quả trong thực tiễn. Giấy tờ có giá phải thuộc sở hữu của
bên cầm cố, vì khi đã đưa vào cầm cố thì tài sản đó có thể bị định đoạt để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ trả nợ (nghĩa vụ chính trong hợp đồng tín dụng ngân hàng), tức
là có thể phát mại. Vậy muốn định đoạt được các giấy tờ có giá được cầm cố, giấy
tờ có giá đó phải an toàn về phương diện sở hữu - phải thuộc sở hữu của bên cầm
cố. Trong những trường hợp cụ thể quy định này có thể có ngoại lệ, ví dụ: doanh
nghiệp nhà nước cầm cố giấy tờ có giá của nhà nước giao cho doanh nghiệp để vay
vốn ngân hàng, thì tài sản đó chỉ thuộc quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của doanh
nghiệp đó.
19
Giấy tờ có giá cầm cố thuộc sở hữu của nhiều người thì phải cam kết bằng
văn bản của các đồng chủ sở hữu. GTCG cầm cố thuộc sở hữu tập thể, liên doanh,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn phải có Nghị quyết của Hội đồng
quản trị hoặc Đại hội đại biểu các thành viên đồng ý và ủy quyền cho người đại
diện vay vốn và ký hợp đồng cầm cố.GTCG của hộ gia đình phải có cam kết đồng
ý của các đồng sở hữu trong gia đình.
Quy định này của Bộ luật dân sự khác với pháp luật của nhiều nước trên thế
giới: Điều 336 Bộ luật dân sự Nga. Điều 747 Bộ luật dân sự Thái Lan, Điều 342 Bộ
luật dân sự Nhật Bản … theo đó vật cầm cố không nhất thiết phải thuộc sở hữu của
bên cầm cố. Bên nhận cầm cố luôn được đảm bảo trong mọi trường hợp, họ có
quyền ưu tiên so với các chủ nợ khác, kể cả trong trường hợp tài sản cầm cố không
thuộc sở hữu của bên cầm cố[32]
Ngoài quy định về GTCG cầm cố phải thuộc sở hữu của khách hàng, pháp
luật còn yêu cầu tài sản đó phải được phép giao dịch và không có tranh chấp. Vì
cầm cố là một loại giao dịch dân sự, muốn cho giao dịch đó có hiệu lực pháp luật
thì tài sản trong giao dịch phải hợp pháp về sở hữu và được tham gia vào giao dịch.
Tài sản được phép giao dịch là tài sản mà pháp luật cho phép hoặc không cấm mua,
bán, tặng cho, chuyển đổi, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh và các giao
dịch khác. Tuy vậy, có những tài sản có thể ở dạng sở hữu hợp pháp nhưng không
được giao dịch, ví dụ: tài sản đang bị cơ quan có thẩm quyền tạm giữ, niêm phong,
phong tỏa, tài sản đang làm thủ tục giải thể, phá sản doanh nghiệp. Từ đó, có thể
hiểu rộng ra rằng, “được phép giao dịch” là theo qui định của pháp luật được đưa
tài sản đó vào giao dịch, trở thành đối tượng của giao dịch, phạm trù được phép
giao dịch được suy đoán bằng sự loại trừ ra những trường hợp bị cấm, bị hạn chế
tham gia giao dịch theo quy định của pháp luật.
20
Dựa vào các quy định chung của pháp luật, mỗi NHTM tuỳ thuộc vào đặc
điểm và điều kiện của mình để đưa ra các quy định loại giấy tờ có giá nào, điều
kiện được phép mang ra để bảo đảm cho khoản vay của khách hàng.
*Quy định về sản phẩm cho vay cầm cố bằng GTCG của NHTMCP Ngoại
Thương Việt Nam:
1. Giấy tờ có giá : Là trái phiếu Chính Phủ; tín phiếu kho bạc; chứng chỉ tiền
gửi, kỳ phiếu, trái phiếu, sổ tiết kiệm do NHTMCP Ngoại Thương Việt Nam và các
tổ chức tín dụng khác phát hành.
2. Điều kiện vay vốn: Ngoài các điều kiện vay vốn theo quy định cho vay
hiện hành của NHNT và các quy định khác của pháp luật, GTCG của khách hàng
phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- GTCG phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của khách hàng hoặc của bên thứ
ba (nếu có) và đang không chịu trách nhiệm cho bất cứ nghĩa vụ tài chính nào.
- GTCG nếu ở dạng chứng chỉ phải còn nguyên hình khuôn khổ, không tách
rời, chắp vá, bị sửa chữa, tẩy xoá, có dấu hiệu giả mạo.
*Quy định của Ngân hàng Bảo Việt về điều kiện đối với GTCG:
- Giấy tờ có giá phải thuộc quyền sở hữu của Người cầm cố, có nguồn gốc rõ
ràng, không có tranh chấp về quyền sở hữu, không bị phong tỏa, hạn chế quyền sở
hữu …
- Giá trị của Giấy tờ có giá đảm bảo trả nợ vay trong thời gian cam kết.
* Quy định củaNgân hàng Quốc tế - VIB Bank:
1. Có thể cầm cố nhiều loại Giấy có giá để vay vốn như:
- Thẻ tiết kiệm do VIB phát hành,
- Trái phiếu Chính phủ
- Tín phiếu Kho bạc
- Giấy tờ có giá do các Tổ chức tín dụng có uy tín phát hành.
21
2. Điều kiện về giấy tờ có giá:
- Thuộc sở hữu hợp pháp của người cầm cố.
- Còn hiệu lực thanh toán
- Không bị tranh chấp về quyền sở hữu, không bị phong thoả, hạn chế quyền
sở hữu.
- Trường hợp Chứng từ có giá của người thứ ba thì phải có giấy ủy quyền
hợp pháp của người thứ ba cho khách hàng mang đi cầm cố tại VIB.
* Quy định của Ngân hàng MHB:
1. Các giấy tờ có giá được cầm cố MHB:
- Trái phiếu Chính phủ : tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công
trình Trung ương, trái phiếu ngoại tệ, công trái xây dựng Tổ quốc.
Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Các giấy tờ có giá do MHB và các ngân hàng thương mại quốc doanh khác
(kể cả các công ty chứng khoán của các ngân hàng thương mại quốc doanh),
hoặc các công ty tài chính của các tổng công ty nhà nước phát hành gồm: trái
phiếu, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi …
- Giấy tờ có giá do tiết kiệm bưu điện phát hành.
- Các giấy tờ có giá khác do Tổng Giám đốc MHB quy định trong từng thời
kỳ.
2. Điều kiện về GTCG :
- Thuộc quyền sở hữu hợp pháp của khách hàng;
Được phép giao dịch (mua, bán, tặng cho, chuyển đổi, chuyển nhượng, cầm
cố, bảo lãnh và các giao dịch hợp pháp khác); riêng giấy tờ có giá ghi danh
và giấy tờ có giá của các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính tín dụng
phát hành thì phải được tổ chức phát hành xác nhận tính hợp lệ, hợp pháp và
22
cho phép chuyển nhượng cũng như chấp nhận đồng ý phong tỏa chứng từ có
giá có liên quan trong suốt thời gian được chi nhánh cầm cố.
- Chưa đến hạn thanh toán
- Được thanh toán theo quy định của tổ chức phát hành;
Như vậy, ngoài các điều kiện đối với tài sản cầm cố là GTCG theo quy định
của pháp luật hiện hành, các NHTM thường đưa thêm các điều kiện khác chi tiết
hơn, chặt chẽ hơn nhằm hạn chế rủi ro tới mức tối đa các khoản vay có bảo đảm
bằng GTCG như: Chỉ một số loại GTCG nhất định mới được phép cầm cố, thường
là các loại GTCG có mức tín nhiệm và tính thanh khoản cao như trái phiếu Chínhh
phủ, Tín phiếu NHNN và một số loại GTCG khác do chính ngân hàng đó hoặc do
các TCTD được nêu cụ thể trong danh mục riêng của mỗi NH phát hàng.; GTCG
được phép giao dịch phải có nguồn gốc rõ ràng, không do hành vi vi phạm pháp
luật mà có, không có tranh chấp về quyền sở hữu, không bị phong toả, hạn chế
quyền sở hữu; Trường hợp thuộc quyền sở hữu của người thứ ba hoặc của nhiều
người thì phải có giấy uỷ quyền hợp pháp của tất cả các đồng sở hữu cho NH được
toàn quyền định đoạt trong trường hợp không thanh toán được nợ đến hạn; Ngoài
ra còn phải đáp ứng một số điều kiện như GTCG đó phải chưa đến hạn thanh toán,
các điều kiện về hình thức bên ngoài của GTCG…
1.4. Vai trò của đảm bảo tiền vay bằng giấy tờ có giá trong hoạt động cho vay
của các Ngân hàng thƣơng mại.
1.4.1. Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá là cơ sở bảo đảm an toàn cho hoạt
động cho vay của các NHTM.
Trong cơ chế thị trường, sự ra đời và phát triển các loại hình ngân hàng cùng
với tính đa dạng của các hoạt động và các hình thức tín dụng đã tạo nên một thị
trường tín dụng sôi động. Nhưng bản thân ngành ngân hàng là một ngành kinh tế
nhạy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng của rất nhiều
23
loại rủi ro như: rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh toán, rủi
ro tồn đọng vốn…trong đó rủi ro tín dụng là đặc trưng tiêu biểu nhất, dễ xảy ra nhất
trong hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng là sự tổn thất tài chính xuất phát từ
người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc mất khả
năng thanh toán.
Hoạt động cho vay của ngân hàng thực chất là giao dịch hợp đồng. Chủ thể
tham gia quan hệ cho vay là bên cho vay (ngân hàng) và bên đi vay (khách hàng
vay). Hoạt động này tiềm ẩn rủi ro lớn và là hoạt động tiêu biểu nhất của hầu hết
các ngân hàng bởi vậy đòi hỏi các ngân hàng phải tìm mọi cách để kiểm soát được
khả năng hoàn trả nợ của khách hàng vay. Để ra quyết định cho vay, ngân hàng
phải tuân thủ quy trình thẩm định tín dụng một cách chặt chẽ, phân tích đầy đủ các
yếu tố liên quan đến thiện chí trả nợ, phương án trả nợ, lịch sử tín dụng cũng như
khả năng trả nợ của khách hàng vay sao cho có độ an toàn cao nhất. Tuy nhiên,
những nguy cơ rủi ro là khó tránh khỏi và luôn tiềm ẩn mà không một nhà kinh
doanh ngân hàng nào có thể dự đoán chính xác. Rủi ro tín dụng gần như đã trở
thành một đặc thù gắn liền với hoạt động cho vay của các ngân hàng. Có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt đông cho vay của các ngân hàng. Có thể
khái quát những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Từ phía ngân hàng: Thông thường, do trình độ yếu kém trong nghiệp vụ, do
một số cán bộ tín dụng bị tha hoá, thông đồng với khách hàng để mưu lợi cá nhân,
dẫn đến không thẩm định đầy đủ các dự án của khách hàng vay, cho vay những dự
án không có tính khả thi, không có khả năng thu hồi vốn để trả nợ cho ngân hàng,
cho vay không có biện pháp bảo đảm, cho vay vượt quá hạn mức tín dụng…là
những nguyên nhân phổ biến dẫn đến rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM.
- Từ phía khách hàng vay: Nếu khách hàng là cá nhân- thông thường do thu
nhập không ổn định, việc làm không thường xuyên hoặc thất nghiệp, hoặc những
khó khăn về hoàn cảnh gia đình. Đối với các tổ chức: do sử dụng vốn sai mục đích,
24
quá trình sản xuất kinh doanh bị thua lỗ, thậm chí dẫn đến phá sản; hoặc khách
hàng chây ỳ không trả nợ thì việc thu hồi gốc và lãi tín dụng đầy đủ là không chắc
chắn, do đó, ngân hàng có thể gặp rủi ro tín dụng.
Ngoài ra, nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cũng có thể từ phía Nhà nước
(do thay đổi cơ chế chính sách làm cho các doanh nghiệp vay vốn gặp phải khó
khăn về tài chính), hoặc do các yếu tố khách quan như chịu ảnh hưởng của thị
trường biến động, các cuộc khủng hoảng kinh tế- tài chính của các nước trong khu
vực và trên thế giới, do thiên tai…làm cho các ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn
trong việc thu hồi nợ đúng hạn.
Bởi vậy, để kiểm soát rủi ro mang lại từ hoạt động cho vay, hạn chế đến mức
thấp nhất các thiệt hại gây ra, pháp luật hầu hết các nước đều có quy định cụ thể về
an toàn tín dụng, theo đó các ngân hàng khi cấp tín dụng đều phải tuân thủ những
điều kiện nhất định, trong đó điều kiện về bảo đảm tiền vay nói chung và bảo đảm
tiền vay bằng giấy tờ có giá nói riêng được xem như một biện pháp quan trọng
nhằm đảm bảo an toàn tín dụng. Tư tưởng pháp lý này được thể hiện rõ nét trong
các điều khoản của luật ngân hàng nhiều nước trên thế giới. Chẳng hạn, theo pháp
luật Nhật Bản thì mọi quan hệ vay nợ chỉ có thể phát sinh trên cơ sở bảo đảm bằng
tài sản. Hoặc theo Điều 36 Luật ngân hàng thương mại của nước Cộng hoà nhân
dân Trung Hoa ngày 10/5/1995, ngân hàng thương mại chỉ cho vay khi có một sự
bảo đảm và tiến hành kiểm tra nghiêm ngặt về khả năng hoàn trả, quyền sở hữu và
giá trị tài sản cầm cố hay thế chấp và tính khả thi của việc bán tài sản cầm cố hay
thế chấp[32,tr33].
Với bản chất là một tổ chức đặc thù có chức năng kinh doanh tiền tệ, ngân
hàng thương mại thực hiện hoạt động kinh doanh của mình thông qua các quan hệ
tín dụng, từ các quan hệ này, mối quan hệ giữa ngân hàng với các tổ chức, cá nhân
được thiết lập và phát triển, gắn ngân hàng gần với các hoạt động sản xuất kinh
doanh trong xã hội. Tuy nhiên, nếu không có những thiết chế cơ bản để bảo đảm
25
các khoản tiền đi vay và cho vay hiệu quả, ngân hàng sẽ tự đặt mình trước những
rủi ro khó lường đối với một loại hàng hóa vốn dĩ đã chứa đựng rất nhiều rủi ro, đó
là “tiền tệ”. Lúc này, những thiết chế cơ bản về các biện pháp bảo đảm trong Bộ
luật Dân sự 2005 sẽ được ngân hàng lựa chọn. Nhưng trong số 7 biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược,
ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp thì các biện pháp: cầm cố, thế chấp và bão lãnh được
ngân hàng sử dụng nhiều hơn cả.
1.4.2. Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá kích thích hoạt động cho vay của
các ngân hàng
Trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng, bảo đảm tiền vay giữ một vai trò quan
trọng đối với việc mở rộng tín dụng cho nền kinh tế. Vai trò đó được thể hiện thông
qua việc mở rộng khả năng, cơ hội tiếp cận tín dụng nói chung, tín dụng ngân hàng
nói riêng của các doanh nghiệp, tổ chức khác và cá nhân, đồng thời tác động trực
tiếp, mạnh mẽ tới quyết định cấp tín dụng của tổ chức tín dụng. Đặc biệt, đối với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bảo đảm tiền vay chính là giải pháp cho việc tiếp cận
tín dụng vì để nâng cao sự an toàn cho việc thu hồi vốn, các tổ chức tín dụng
thường yêu cầu có biện pháp bảo đảm bằng tài sản khi cấp tín dụng cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Bởi vậy quy định về bảo đảm tiền vay cùng với sự đa dạng hoá
các tài sản bảo đảm, các cá nhân, doanh nghiệp không chỉ có thể dùng bất động sản
để thế chấp, dùng uy tín để vay tín chấp hay vay vốn bằng sự bảo lãnh của bên thứ
ba mà có thể tiếp cận nguồn vốn thông qua việc cầm cố các loại giấy tờ có giá – là
một loại tài sản khá phổ biến hiện nay. Dưới góc độ này, bảo đảm tiền vay nói
chung và bảo đảm tiền vay bằng các giấy tờ có giá nói riêng đã trở thành công cụ
hữu hiệu để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận tín dụng ngân hàng qua đó góp
phần không nhỏ trong việc kích thích hoạt động cho vay của các ngân hàng.
26
Bên cạnh đó khi áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá
khách hàng vay còn được hưởng hạn mức cho vay tối đa có thể lên đến 95% giá trị
GTCG tại thời điểm vay nếu là GTCG do chính TCTD nhận bảo đảm phát hành và
90% tổng giá trị của giấy tờ có giá tại thời điểm vay nếu đó là GTCG do tổ chức
khác phát hành (Theo Quy định về hạn mức cho vay đối với sản phầm cho vay cầm
cố bằng GTCG của NHTMCP Ngoại thương Việt Nam năm 2008) … trong khi hạn
mức tín dụng tối đa đối với các giao địch bảo đảm tiền vay bằng các loại tài sản
khác như bất động sản thông thường chỉ là 50%. Rõ ràng so với các tài sản bảo
đảm khác, bảo đảm bằng giấy tờ có giá có hạn mức cho vay hấp dẫn khách hàng
vay vốn hơn .
1.4.3. Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá có vai trò quan trọng trong việc
hạn chế tranh chấp xảy ra, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham
gia quan hệ tín dụng ngân hàng.
Về mặt lý thuyết, quyền lợi của các chủ nợ luôn được pháp luật bảo vệ, một
khi nợ đến hạn, họ có quyền yêu cầu người mắc nợ trả nợ, nếu người mắc nợ không
trả một cách tự nguyện, thì họ có quyền tiến hành một vụ kiện kết thúc bằng việc
kê biên và bán đấu giá các tài sản thuộc quyền sở hữu của người mắc nợ để thanh
toán. Nhưng trên thực tế, chủ nợ không có bảo đảm luôn đứng trước nguy cơ không
thu hồi được nợ vì hai lý do:
Thứ nhất, giữa thời điểm nợ phát sinh và thời điểm nợ đến hạn khối tài sản
của người mắc nợ có thể thay đổi về nội dung. Có một quy tắc tự nhiên theo đó,
chủ nợ chỉ có quyền đòi nợ khi đã đến hạn đòi và trong trường hợp người mắc nợ
không chịu trả, chủ nợ chỉ có quyền yêu cầu kê biên những tài sản thuộc quyền sở
hữu của người mắc nợ ở thời điểm kê biên. Giả sử người mắc nợ thực hiện các
hành vi chuyển nhượng tài sản sau khi mắc nợ nhưng trước khi nợ được đòi, chủ nợ