Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 119 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THẢO





NGHIÊN CỨU SO SÁNH PHÁP LUẬT
VỀ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








Hà Nội – 2010


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THẢO





NGHIÊN CỨU SO SÁNH PHÁP LUẬT
VỀ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP




Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NHƢ PHÁT


Hà Nội – 2010

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu nêu trong Luận văn là trung thực. Những kết qủa nghiên
cứu của Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.

Tác giả Luận văn



Nguyễn Thị Phƣơng Thảo









3


MỤC LỤC



Trang

Lời cam đoan
2

Mục lục
3

Danh mục chữ viết tắt
5

MỞ ĐẦU
6

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU
SO SÁNH PHÁP LUẬT THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
9
1.1.
Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp
9
1.1.1.
Nhận dạng đối tượng nghiên cứu - pháp luật về thành lập
doanh nghiệp

9
1.1.2.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu so sánh
15
1.2.
Nhu cầu và thực trạng nghiên cứu so sánh pháp luật về thành
lập doanh nghiệp ở nước ta hiện nay
18
1.2.1.
Nhu cầu nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh
nghiệp ở nước ta hiện nay
18
1.2.2.
Thực trạng nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh
nghiệp của nước ta hiện nay
22


Chƣơng 2: SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ THÀNH LẬP
DOANH NGHIỆP
28
2.1.
So sánh về các loại hình doanh nghiệp được phép thành lập
30
2.1.1.
So sánh về loại hình doanh nghiệp tư nhân
30
2.1.2.
So sánh về loại hình công ty hợp danh
32

2.1.3.
So sánh về loại hình công ty cổ phần
38
2.1.4.
So sánh về loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn
42
2.2.
So sánh về một số điều kiện thành lập doanh nghiệp
49

4
2.2.1.
So sánh điều kiện về chủ thể
49
2.2.2.
So sánh điều kiện về vốn góp
54
2.2.3.
So sánh điều kiện về ngành nghề đăng ký kinh doanh
60
2.2.4.
So sánh điều kiện về tên của doanh nghiệp
66
2.3.
So sánh về thủ tục thành lập doanh nghiệp
70
2.3.1.
Các thủ tục chuẩn bị thành lập doanh nghiệp
72
2.3.2.

Các thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp
79
2.3.3.
Các thủ tục sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp
85
2.4.
So sánh về xử lý vi phạm pháp luật thành lập doanh nghiệp
86

Chƣơng 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ BAN ĐẦU TỪ
NGHIÊN CỨU SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ THÀNH
LẬP DOANH NGHIỆP
94
3.1.
Phân loại đa dạng doanh nghiệp và quy định cụ thể về thành
lập cho từng loại hình
95
3.2.
Xác định địa vị pháp lý phù hợp để thúc dẩy việc thành lập
loại hình hợp danh
99
3.3.
Quy định về đăng ký và bảo lưu tên gọi trong thủ tục thành
lập doanh nghiệp
101
3.4.
Quy định chặt chẽ về điều kiện thành lập doanh nghiệp và có
cơ chế thẩm định, giám sát phù hợp
104


KẾT LUẬN
112

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
114






5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN
:
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ĐKKD
:
Đăng ký kinh doanh
DNNN
:
Doanh nghiệp Nhà nước
DNTN
:
Doanh nghiệp tư nhân
EURL
:
Entreprise unipersonelle à responsabilité limitée
(Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên

của Pháp)
KK
:
Kabushiky-Kaisha
(Công ty cổ phần của Nhật Bản)
LLC
:
Limited Liability Company
(Công ty trách nhiệm hữu hạn)
SA
:
Soicété Anonyme
(Công ty cổ phần của Pháp)
SARL

Société à responsabilité limitée
(Công ty trách nhiệm hữu hạn của Pháp)
TNHH
:
Trách nhiệm hữu hạn
UBND
:
Uỷ ban nhân dân
WTO
:
Tổ chức Thương mại Thế giới









6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ở Việt Nam, Luật Doanh nghiệp 2005 và tiếp theo đó là các Nghị
định, Thông tư hướng dẫn được ban hành đã đánh dấu bước phát triển mới
của pháp luật thành lập doanh nghiệp. Những quy định cụ thể và tương đối
phù hợp đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước thành lập, phát huy
nội lực, khai thác tiềm năng sẵn có và bước đầu tạo môi trường pháp lý thuận
lợi để thu hút đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, sau 5 năm thực hiện, Luật Doanh nghiệp 2005 cũng như
những văn bản hướng dẫn thi hành đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập trước sự
phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội, nhất là sau khi Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ngày
11 tháng 01 năm 2007. Pháp luật Việt Nam về kinh doanh nói chung và về
thành lập doanh nghiệp nói riêng, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,
không những phải đáp ứng yêu cầu cụ thể hóa đường lối, chủ chương, chính
sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, điều chỉnh có hiệu quả hoạt
động kinh doanh của quốc gia, mà còn phải phù hợp với pháp luật kinh doanh
của cộng đồng quốc tế. Vì vậy, pháp luật về thành lập doanh nghiệp của Việt
Nam cần được so sánh, đối chiếu với pháp luật thành lập doanh nghiệp của
các nước để nhìn nhận khách quan và toàn diện hơn những thành tựu đã đạt
được cũng như những hạn chế và tham khảo, học hỏi kinh nghiệm nước ngoài
để từng bước hoàn thiện pháp luật kinh doanh của Việt Nam.
Vì vậy, nghiên cứu Đề tài "Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập
doanh nghiệp" là rất cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ trước đến nay đã có một số công trình khoa học, bài viết hoặc tham
luận khoa học được công bố trên các sách chuyên khảo, tạp chí khoa học

7
chuyên ngành hoặc các diễn đàn khoa học đề cập đến so sánh pháp luật về
thành lập doanh nghiệp ở những cấp độ và phạm vi khác nhau, như: Dự án
VIE/97/016 so sánh về luật doanh nghiệp của 4 nước: Singapore, Malaysia,
Philipine và Thái Lan của Nguyễn Toàn Phan và John Bentley; "Hình thức
pháp lý doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ luật so sánh" của TS
Nguyễn Am Hiểu; “Sự thay đổi trong luật công ty Đức và so sánh với pháp luật
công ty Việt Nam” và "Uớc mơ nửa triệu doanh nghiệp và một đạo luật chung:
Luật doanh nghiệp 2005 từ một góc nhìn so sánh" của PGS.TS Phạm Duy
Nghĩa; “Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: nhìn từ ví dụ luật công ty của Nhật và
Luật doanh nghiệp của Việt Nam” của Th.s Nguyễn Đức Lam… Nhưng hầu
hết những công trình khoa học hoặc bài viết đó hoặc là nghiên cứu so sánh
chung về luật doanh nghiệp, hoặc là nghiên cứu so sánh một lĩnh vực cụ thể
nào đó của luật doanh nghiệp chứ chưa có công trình nào nghiên cứu so sánh
riêng về pháp luật thành lập doanh nghiệp giữa Việt Nam và các nước khác.
Đề tài "Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp" là
một đề tài hoàn toàn mới và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn trong khoa học pháp
lý của Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: so sánh pháp luật về thành lâp doanh nghiệp của
Việt Nam với một số nước nhằm làm rõ sự tương đồng, khác biệt và rút ra
những giá trị có thể tham khảo, học hỏi góp phần xây dựng, hoàn thiện pháp
luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu: làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên
cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp; so sánh pháp luật thành lập
doanh nghiệp của Việt Nam với một số nước; đề xuất những khuyến nghị ban
đầu qua việc nghiên cứu so sánh nhằm hoàn thiện pháp luật về thành lập

doanh nghiệp của Việt Nam.

8
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: pháp luật về thành lập doanh nghiệp của Việt
Nam và của một số nước được chọn lựa so sánh.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu pháp luật về việc thành lập mới một số
loại hình doanh nghiệp là: doanh nghiệp tư nhân, hợp danh, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần (tương ứng với các loại hình doanh nghiệp
được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005 của Việt Nam); không nghiên cứu
việc thành lập các loại hình doanh nghiệp khác (như doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ) cũng như việc chuyển đổi loại hình
doanh nghiệp, thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh hoặc việc thành lập chi
nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu là
phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử - lôgic, đối chiếu so sánh.
6. Đóng góp khoa học của đề tài
Góp phần làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt, làm cơ sở cho
việc nghiên cứu, học tập về pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam
và một số nước trên thế giới, góp phần làm cơ sở để xây dựng và hoàn thiện
pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Mục lục và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về nghiên cứu so sánh pháp luật thành
lập doanh nghiệp
Chương 2: So sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp
Chương 3: Một số khuyến nghị ban đầu từ nghiên cứu so sánh pháp
luật về thành lập doanh nghiệp


9
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU SO SÁNH
PHÁP LUẬT THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
1.1. Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp
1.1.1. Nhận dạng đối tượng nghiên cứu - pháp luật về thành lập
doanh nghiệp
Pháp luật về thành lập doanh nghiệp
Nếu ví doanh nghiệp như một thực thể sống bình thường (thuật ngữ
"pháp nhân" cũng chính là sự ví von ấy: người do pháp luật sáng tạo ra, có
những quyền như một con người thực sự) thì có thể thấy, một doanh nghiệp
cũng phải được "sinh ra" trên cơ sở “thai nghén” từ những ý tưởng kinh
doanh của một chủ thể nhất định. "Vạn sự khởi đầu nan", bước thành lập
doanh nghiệp là bước đầu tiên, khó khăn nhất để biến những dự định của
người kinh doanh thành hiện thực. Thành lập doanh nghiệp thực chất là quá
trình khai sinh và công khai hóa sự tồn tại và xác nhận doanh nghiệp đủ điều
kiện hoạt động trước xã hội trên cơ sở những quy định của pháp luật.
Thành lập doanh nghiệp là hành vi hợp pháp hóa sự tồn tại và hoạt
động của chủ thể kinh doanh. Việc thành lập doanh nghiệp là một biện pháp
bảo vệ lợi ích cho các tổ chức và cá nhân trên thương trường. Khi có một địa
vị pháp lý hợp pháp họ có thể chính thức tìm kiếm thị trường, thuê lao động,
ký kết hợp đồng, xuất nhập khẩu, vay vốn của các tổ chức tín dụng, phát hành
cổ phiếu để huy động vốn đầu tư, tiến hành các họat động sản xuất kinh
doanh cụ thể. Mặt khác, doanh nghiệp sau khi thành lập có cơ hội tiếp cận với
thị trường nước ngoài, liên doanh, hợp tác, mở chi nhánh, văn phòng đại diện.
Khi tiến hành thủ tục thành lập, các thông tin cơ bản về doanh nghiệp sẽ được
lưu trữ tại cơ quan đăng ký kinh doanh và tất cả mọi cá nhân, tổ chức đều có
thể tiếp xúc với thông tin đó, nhờ vậy, các doanh nghiệp trên thị trường biết


10
được đối tác mới và có những cơ hội kinh doanh mới.
Hành vi thành lập doanh nghiệp, cũng như nhiều hành vi khác của con
người trong xã hội, được điều chỉnh bằng pháp luật. Pháp luật về thành lập
doanh nghiệp quy định cụ thể về địa vị pháp lý, về đặc tính pháp lý, về cách
thức hoạt động, quản lý, điều hành với cả những ưu điểm và hạn chế của từng
loại hình doanh nghiệp được phép thành lập để chủ thể kinh doanh căn cứ vào
khả năng, điều kiện cụ thể của mình đưa ra lựa chọn đúng đắn. Điều kiện
thành lập doanh nghiệp cũng được cụ thể hóa trong pháp luật về thành lập
doanh nghiệp, bao gồm điều kiện về chủ thể (người như thế nào thì được phép
thành lập?); điều kiện về vốn (cần có số tiền tối thiểu là bao nhiêu để thành
lập?); điều kiện về ngành nghề (được kinh doanh trong những lĩnh vực gì, nếu
là những ngành nghề có điều kiện thì phải đáp ứng thêm những tiêu chuẩn gì?);
điều kiện về tên gọi của doanh nghiệp, về trụ sở Pháp luật về thành lập doanh
nghiệp còn quy định hồ sơ cần phải chuẩn bị, quy định trình tự, thủ tục thành
lập như nộp hồ sơ, lệ phí tại cơ quan có thẩm quyền, thời hạn, nội dung xét
duyệt, cấp phép, công bố việc thành lập, xử lý các vi phạm trong thành lập
doanh nghiệp Tuy nhiên, những quy định cụ thể và chi tiết của pháp luật về
thành lập doanh nghiệp không phải để hạn chế quyền tự do kinh doanh mà chỉ
nhằm thiết lập một khung pháp lý để quyền tự do kinh doanh ấy được thực hiện
một cách thuận lợi trong mối tương quan với lợi ích của cộng đồng và xã hội.
Như vậy, pháp luật về thành lập doanh nghiệp là tổng thể các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và đảm bảo thực
hiện, điều chỉnh về các loại hình doanh nghiệp được phép thành lập, điều
kiện, hồ sơ, trình tự thủ tục thành lập doanh nghiệp.
Hai khái niệm: pháp luật về thành lập doanh nghiệp và pháp luật về
đăng ký kinh doanh có một số khác biệt. Khái niệm "pháp luật về thành lập
doanh nghiệp" rộng hơn khái niệm "pháp luật về đăng ký kinh doanh". Nếu

11

pháp luật về đăng ký kinh doanh chủ yếu điều chỉnh hành vi "đăng ký" của
người kinh doanh trước một cơ quan nhà nước nhất định để hoàn tất những
thủ tục pháp lý cho sự ra đời một doanh nghiệp, thì pháp luật về thành lập
doanh nghiệp còn điều chỉnh những hành vi trước đó (như: lựa chọn loại hình
doanh nghiệp nào để thành lập, những điều kiện cụ thể để thành lập) và sau
đó (như công bố việc thành lập, xử lý vi phạm pháp luật thành lập doanh
nghiệp). Nếu "pháp luật về đăng ký kinh doanh" chủ yếu điều chỉnh mối quan
hệ giữa hai nhóm đối tượng: người đi đăng ký và cơ quan tiến hành những thủ
tục đăng ký thì "pháp luật về thành lập doanh nghiệp" có khi chỉ điều chỉnh
hành vi của chủ thể kinh doanh (lựa chọn loại hình thành lập, chuẩn bị hồ sơ )
hoặc điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ thể kinh doanh với các chủ thể khác
ngoài cơ quan đăng ký kinh doanh (như các phương tiện thông tin đại chúng
khi công bố việc thành lập hoặc tòa án trong trường hợp vi phạm pháp luật về
thành lập doanh nghiệp ). Hơn nữa, không thể có việc đi "đăng ký" nếu chủ
thể kinh doanh chưa lựa chọn được cho mình một loại hình doanh nghiệp để
thành lập, hoặc khi lựa chọn được rồi lại không đủ điều kiện để thành lập. Việc
thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng sau khi đã hoàn tất những
thủ tục tại cơ quan nhà nước và đã nộp đủ lệ phí, được cấp giấy chứng nhận
kinh doanh không thể vẫn gọi là "đăng ký kinh doanh".
Pháp luật về thành lập doanh nghiệp là một chế định có vị trí quan
trọng trong hệ thống pháp luật kinh doanh, là cơ sở để xây dựng các chế định
khác như đầu tư, cạnh tranh, hợp đồng; tranh chấp thương mại Có người ví
rằng: doanh nghiệp là cái "áo khoác" của ý tưởng kinh doanh [24]. Qua việc
thành lập doanh nghiệp, những dự định, kế hoạch kinh doanh của nhà đầu tư
sẽ trở thành hiện thực, kéo theo nó là hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến
hành với hàng loạt các hoạt động bổ trợ như huy động vốn, thuê nhân công,
ký kết hợp đồng Pháp luật điều chỉnh về quản lý doanh nghiệp và những

12
hoạt động cụ thể của doanh nghiệp chỉ có thể hình thành sau khi đã có pháp

luật về thành lập doanh nghiệp và nó phải phù hợp với pháp luật về thành lập
doanh nghiệp.
Pháp luật về thành lập doanh nghiệp của các nước có sự tương đồng
và khác biệt
Pháp luật về thành lập doanh nghiệp chịu sự ảnh hưởng sâu sắc từ văn
hóa kinh doanh của mỗi một quốc gia. Sự đa dạng của pháp luật cũng giống
như sự đa dạng của ngôn ngữ và văn hóa. Hầu như các nước đều có pháp luật
về thành lập doanh nghiệp, trong đó quy định về các loại hình doanh nghiệp
đuợc thành lập, điều kiện thành lập, hồ sơ, trình tự, thủ tục thành lập doanh
nghiệp. Tuy nhiên, do sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, về văn hóa
pháp lý, về ngôn ngữ pháp luật về thành lập doanh nghiệp của mỗi nước lại
có những điểm khác biệt nhất định, như:
- Pháp luật về thành lập doanh nghiệp, có nước xuất hiện rất sớm có
nước xuất hiện muộn. Ở một số nước châu Âu có điều kiện địa lý thuận lợi
cho viêc giao lưu, buôn bán, từ Thế kỷ XIII đã xuất hiện các công ty thương
mại, pháp luật về thành lập doanh nghiệp cũng ra đời rất sớm tại đây. Năm
1807, Pháp đã ban hành Bộ luật thương mại, năm 1896, Bộ luật dân sự của
Đức ra đời và nhiều nước châu Âu tiếp theo đó cũng ban hành luật thương
mại của nước mình, trong đó có các quy định về thành lập doanh nghiệp.
Trong khi đó, pháp luật về thành lập doanh nghiệp của Việt Nam ra đời muộn
hơn tới hàng trăm năm. Do Việt Nam là thuộc địa của Pháp nên có thời kỳ luật
thương mại của Pháp được áp dụng vào Việt Nam trong đó có quy định về việc
thành lập các “hội buôn” (trong Dân luật thi hành tại các toà Nam án Bắc kì
năm 1931). Năm 1944, chính quyền Bảo Đại xây dựng Bộ luật Thương mại
trung phần. Năm 1972, chính quyền Sài Gòn ban hành Bộ luật Thương mại
Việt Nam cộng hoà. Từ năm 1986, khi Đảng ta đề ra đường lối xây dựng nền

13
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước thì các loại hình doanh nghiệp mới chính thức có cơ sở pháp lý để

phát triển. Luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty mới lần lượt ra đời.
- Pháp luật về thành lập doanh nghiệp, có nước khá ổn định - có nước
thường xuyên thay đổi. Anh là nước có quy định về thành lập hợp danh từ rất
sớm và rất ổn định. Hai luật về hợp danh của Anh là Luật Hợp danh trách
nhiệm hữu hạn năm 1907 và Luật Hợp danh thông thường năm 1890 ra đời
cách đây hơn 100 năm nhưng vẫn được áp dụng. Trong khi đó, pháp luật của
những nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam, Trung Quốc lại thường
xuyên thay đổi. Trong vòng 15 năm, luật về doanh nghiệp của Việt Nam trong
đó có những quy định về thành lập doanh nghiệp đã 3 lần thay thế. Ngày 21
tháng 12 năm 1990, Luật Công ty ra đời. Chỉ sau 8 năm, Luật Công ty đã bộc
lộ nhiều điểm thiếu sót, chưa theo kịp sự phát triển của nền kinh tế và bị thay
thế bởi Luật Doanh nghiệp 1999. Và cũng chỉ 6 năm sau, Luật Doanh nghiệp
1999 cũng bị thay thế bởi Luật Doanh nghiệp 2005. Luật Công ty Trung Quốc
ban hành năm 1993 cũng được thay thế bởi đạo luật sửa đổi ngày 27 tháng 10
năm 2005 (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006).
- Pháp luật về thành lập doanh nghiệp, có nước quy định chung ở một
luật - có nước lại quy định riêng ở nhiều luật tương ứng với mỗi loại hình
doanh nghiệp. Tiêu biểu cho những nước quy định riêng về thành lập doanh
nghiệp ở nhiều luật phải kể đến Anh, Mỹ với những đạo luật riêng cho công ty
cổ phần, công ty TNHH (trách nhiệm hữu hạn) và hợp danh. Hàn Quốc không
có đạo luật riêng áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp mà chỉ có Bộ luật
Thương mại (năm 1962) quy định chung về công ty, giao dịch thương mại, bảo
hiểm và hàng hải. Ở Thái Lan, Bộ luật Dân sự và Thương mại (ban hành năm
1925 sau đó đã sửa đổi, bổ sung nhiều lần) cũng quy định về một số loại hình
doanh nghiệp. Trung Quốc quy định gộp hai loại hình là công ty cổ phần và

14
công ty TNHH vào Luật Doanh nghiệp 2005. Việt Nam quy định việc thành
lập của cả 4 loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh,
công ty cổ phần và công ty TNHH vào chung trong Luật Doanh nghiệp 2005.

- Pháp luật về thành lập doanh nghiệp, có nước quy định về thành lập
doanh nghiệp ở luật, có nước lại quy định cả ở những văn bản dưới luật. Ở
hầu hết các nước, việc thành lập doanh nghiệp được quy định cụ thể và chi
tiết trong các văn bản luật. Chỉ cần dựa trên những quy định đó, cơ quan nhà
nước cũng như người dân đều có thể tiến hành việc thành lập doanh nghiệp
mà không phải tìm hiểu, đối chiếu ở các văn bản khác. Tuy nhiên, ở những
nước mà các quy định mang tính chất luật khung như Việt Nam dưới Luật còn
có các Nghị định, Thông tư hướng dẫn, nên khi xem xét, nghiên cứu và áp
dụng pháp luật thành lập doanh nghiệp cũng phải tính đến các văn bản dưới
luật này.
- Đặc biệt ở một số nước liên bang, pháp luật về thành lập doanh
nghiệp được quy định tại Luật liên bang, sau đó tại các tiểu bang lại có
những quy định riêng. Mỹ là một nước điển hình cho sự phức tạp giữa hai hệ
thống luật liên bang và tiểu bang. Ở cấp liên bang, Mỹ ban hành những bộ
luật mẫu (luật mẫu này có thể lấy từ luật của một bang nào đó có giá trị, được
nhiều bang thừa nhận cùng áp dụng sau đó nâng lên thành luật mẫu). Ở mỗi
tiểu bang lại có quyền ban hành những quy định của riêng mình. Vì vậy, trình
tự, thủ tục thành lập doanh nghiệp ở Mỹ còn tuỳ thuộc vào việc lựa chọn
thành lập ở địa phận bang nào và pháp luật của bang đó quy định như thế nào.
Mỗi một quốc gia có quá trình hình thành, phát triển không giống nhau
do chịu sự tác động khác nhau của môi trường địa lý, các giá trị tư tưởng, văn
hóa, lịch sử, tôn giáo của các dân tộc sinh sống trong quốc gia đó. Những điều
này đã để lại dấu ấn đặc thù lên từng hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.
Nói cách khác, chúng tạo nên sự khác biệt về pháp luật giữa các quốc gia.

15
Dựa trên những quan điểm, đường lối, chủ trương và phương thức tác động
khác nhau, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia thường hướng tới giải quyết
những vấn đề phát sinh trong sự tồn tại và phát triển của quốc gia đó. Tuy
nhiên, ở một phương diện nhất định, điều đó có thể sẽ là một thách thức và

nguy cơ sẽ phải đối mặt với những khó khăn khi quốc gia đó giao lưu, hợp tác
với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
Hơn nữa, trên thực tế có thể có những vấn đề nảy sinh trong các xã hội
là tương tự nhau nhưng thông thường mỗi quốc gia lại xử lý những vấn đề đó
một cách hoàn toàn độc lập và thường không quan tâm xem xét các nước khác
điều chỉnh vấn đề đó như thế nào. Điều này đã làm nảy sinh hiện tượng xung
đột pháp luật trong quá trình giao lưu quốc tế, tạo ra sự ngăn cản đối với các
nỗ lực của các chủ thể trong hoạt động hợp tác, trao đổi đặc biệt trong bối
cảnh mà sự trao đổi quốc tế không còn chỉ là sự giới hạn trong những quan hệ
thương mại thông thường hay giữa những thương gia riêng lẻ mà ngày càng
mở rộng về tính chất cũng như số lượng và phạm vi chủ thể trên hầu hết các
lĩnh vực khác nhau của đời sống quốc tế. Pháp luật về thành lập doanh nghiệp
cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
1.1.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu so sánh
Những điểm tương đồng và khác biệt trên đây cho thấy sự đa dạng,
phong phú về pháp luật thành lập doanh nghiệp của các nước và cũng cho
thấy sự khó khăn trong việc lựa chọn pháp luật của một nước nào đó để so
sánh với Việt Nam. Thông thường, người ta hay phân chia luật của các nước
theo họ pháp luật: common law hay civil law, theo khu vực địa lý: châu Âu,
châu Mỹ, châu Á, châu Phi hoặc theo trình độ phát triển kinh tế: nước phát
triển, đang phát triển hay chậm phát triển [23]. Tuy nhiên, ở mỗi một tiêu
chí đều có những ưu thế và hạn chế khi lựa chọn để so sánh, nhất là chỉ so
sánh một chế định nhỏ là pháp luật về thành lập doanh nghiệp. Vì vậy, trong

16
phạm vi luận văn này, tác giả chỉ lựa chọn so sánh pháp luật thành lập doanh
nghiệp của một số nước dựa trên một số tiêu chí nhất định.
Thành lập doanh nghiệp là lĩnh vực thuộc về kinh tế, thương mại, vì
vậy, lựa chọn pháp luật về thành lập doanh nghiệp của những nước để so sánh
với pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam trước hết phải dựa trên cơ

sở quan hệ hợp tác kinh tế.
Với chủ trương đổi mới, mở cửa của Đảng cộng sản Việt Nam, từ năm
1986, nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang
nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước, thì các hoạt động giao lưu, hợp
tác được đẩy mạnh. Đặc biệt là từ khi gia nhập WTO, Việt Nam đã chính thức
tham gia vào sân chơi chung của kinh tế thế giới, các quan hệ hợp tác, giao
lưu với các nước, các nhóm nước trên cơ sở tự nguyện, tôn trọng, bình đẳng
và hai bên cùng có lợi đã được thiết lập và ngày càng được tăng cường. Nhiều
nước không kể khoảng cách về địa lý, không kể sự khác biệt về chế độ chính
trị hay trình độ phát triển đã đặt quan hệ làm ăn, hợp tác với Việt Nam, đó là
những đối tác truyền thống, lâu dài như: Mỹ, Anh, Nhật Bản, Pháp, Đức…
Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp với những nước này
là cơ hội để tìm hiểu, học hỏi và giúp Việt Nam có những đối sách phù hợp
trong hợp tác kinh tế.
Bên cạnh đó, những nước có điểm tương đồng về đường lối chính sách
kinh tế với Việt Nam cũng được đặc biệt coi trọng khi nghiên cứu so sánh,
trong đó có Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia có những
điểm tương đồng về thể chế chính trị, văn hóa xã hội, phong tục tập quán,
đồng thời đều là thành viên mới của WTO với những đặc điểm và những khó
khăn chung của một nền kinh tế đang chuyển đổi. Sự khác biệt nổi bật giữa
hai quốc gia là vị thế trên trường quốc tế, xuất phát điểm của Trung Quốc

17
trong quá trình cải cách mở cửa, xây dựng phát triển đất nước cao hơn Việt
Nam, tiềm lực thực tế mạnh hơn, kinh tế vĩ mô ổn định hơn. Cùng ra đời năm
2005, Luật Doanh nghiệp của Việt Nam và Luật Doanh nghiệp của Trung
Quốc là một cơ sở quan trọng để nghiên cứu so sánh về pháp luật thành lập
doanh nghiệp.
Việt Nam là một thành viên trong khối ASEAN, nghiên cứu so sánh

pháp luật giữa Việt Nam với các nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái
Lan, Singapore, Malaysia, Philippines… có ý nghĩa rất lớn. Đây không chỉ là
những đối tác chiến lược có quan hệ hợp tác toàn diện về các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hoá với Việt Nam mà còn là những nước trong cùng khu vực có
những điều kiện phát triển kinh tế tương đối đồng đều. So sánh pháp luật thành
lập doanh nghiệp là cơ sở để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam
với các nước trong khối ASEAN, là cơ hội để Việt Nam tham khảo, học hỏi và
rút ra những bài học kinh nghiệm trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật về
thành lập doanh nghiệp.
Pháp luật về thành lập doanh nghiệp có nội dung rất đa dạng, xuất phát
từ sự đa dạng của các loại hình doanh nghiệp. Tuy vậy, dưới góc độ khoa học
pháp lý, dựa trên những tiêu chí nhất định có thể quy về một số loại hình doanh
nghiệp cơ bản và ở mỗi một loại hình đều có những quy định pháp luật về
thành lập doanh nghiệp tương ứng và phù hợp. Trong phạm vi luận văn này chỉ
nghiên cứu so sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp của 4 loại hình cơ bản là:
doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty TNHH và công ty cổ phần (là
các loại hình doanh nghiệp quy định trong Luật Doanh nghiệp 2005 của Việt
Nam) không nghiên cứu việc thành lập các loại hình doanh nghiệp khác như
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Pháp luật về thành lập doanh nghiệp không chỉ quy định về việc thành
lập mới mà còn bao hàm cả những quy định về thay đổi nội dung đăng ký

18
kinh doanh hoặc việc thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh
nghiệp. Để thống nhất và tránh sự chồng chéo, trùng lặp khi nghiên cứu so
sánh, phạm vi luận văn chỉ giới hạn ở việc so sánh thành lập mới doanh
nghiệp (không so sánh về thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh hoặc việc
thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện). Ngoài ra, cũng là việc thành lập
mới một doanh nghiệp nhưng pháp luật của một số nước còn phân chia rất cụ
thể và rõ ràng về việc người trong nước hay người nước ngoài đến nước đó

thành lập hoặc việc thành lập doanh nghiệp đó ở trong nước hay ở nước
ngoài. Trong phạm vi luận văn cũng chỉ nghiên cứu so sánh những quy định
về thành lập doanh nghiệp của người dân sở tại theo những thủ tục thông
thường (không so sánh trường hợp người nước ngoài thành lập doanh nghiệp
hay thành lập doanh nghiệp ở nước ngoài).
1.2. Nhu cầu và thực trạng nghiên cứu so sánh pháp luật về thành
lập doanh nghiệp của nƣớc ta hiện nay
1.2.1. Nhu cầu nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh
nghiệp của nước ta hiện nay
Mỗi một hiện tượng xã hội được cấu thành từ những yếu tố, điều kiện
khác nhau, thông qua hoạt động so sánh có thể nhận biết được bản thân những
hiện tượng nhất định trong mối quan hệ với những hiện tượng khác. Hoạt
động so sánh có thể được tiến hành một cách cá biệt từng chủ thể, hiện tượng,
yếu tố riêng lẻ hoặc có thể mang tính hệ thống, song nói chung đều nhằm
hướng tới việc xem xét sự đồng nhất, những quy luật chi phối chung cũng
như những yếu tố khác biệt của quá trình tiếp nhận và phát triển của từng cá
nhân cũng như cộng đồng. Với ý nghĩa như vậy, “Hoạt động so sánh luôn gắn
liền với hoạt động nhận thức của con người và hầu như có mặt trong bất kỳ
một lĩnh vực nào của đời sống xã hội”[37].

19
Trong xu thế toàn cầu hoá, khi mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia
đã và đang được mở rộng phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, văn
hoá, xã hội thì các hệ thống pháp luật không thể đứng ngoài quá trình đó.
C¸c khái niệm pháp luật của Liên minh Châu Âu (EU), pháp luật của Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), pháp luật của Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO)… đã và ngày càng được sử dụng rộng rãi. Pháp luật của các
quốc gia vốn rất khác biệt nhau về chế độ chính trị, trình độ phát triển vẫn có
xu hướng xích lại gần nhau thì nhu cầu so sánh pháp luật, trong đó có pháp
luật về thành lập doanh nghiệp ngày càng đóng vai trò quan trọng, trước hết là

để nâng cao nhận thức, sự hiểu biết về pháp luật thành lập doanh nghiệp của
các nước khác, sau đó là để nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện pháp
luật nước mình trên cơ sở đó học hỏi để từng bước hoàn thiện pháp luật thành
lập doanh nghiệp của Việt Nam ngày càng phù hợp hơn trong tình hình mới .
Giao lưu, hợp tác kinh tế là hệ quả tất yếu của quá trình hội nhập. Hoạt
động kinh doanh đã không còn biên giới giữa các quốc gia, các vùng lãnh thổ.
Khoảng cách về địa lý hay sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập
quán đã không phải là rào cản quá lớn cho sự giao lưu thương mại. Trong
sân chơi chung ấy, việc "biết người, biết ta" là vô cùng quan trọng. Ngày càng
có nhiều người Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài và
cũng ngày càng có nhiều cá nhân, tổ chức nước ngoài đầu tư vào nước ta. Và
một trong những hình thức lựa chọn để hợp tác, đầu tư là thành lập doanh
nghiệp. Nhưng ở bất kỳ quốc gia nào, việc thành lập doanh nghiệp đều phải
tuân theo những yêu cầu, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ của pháp luật. Những nhà
đầu tư, kinh doanh cần phải hiểu biết về pháp luật của nước sở tại thì mới có
thể thành lập được doanh nghiệp ở đó và khi hợp tác với nước ngoài cũng cần
phải hiểu về pháp luật thành lập doanh nghiệp của nước đối tác để xem xét tư
cách pháp lý của doanh nghiệp đó, xác định những thông tin, kiểm tra độ tin

20
cậy trước khi ký kết hợp đồng, tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Cùng với việc mở cửa chào đón các luồng đầu tư nước ngoài, nhà nước
cần phải tăng cường quản lý để giữ vững sự ổn định, điều tiết ở tầm vĩ mô để
các quan hệ hợp tác sản xuất kinh doanh phát triển theo đúng định hướng.
Nhưng muốn quản lý được trước hết phải có nhận thức đầy đủ về đối tượng
mình quản lý. Các cơ quan quản lý nhà nước khi cho phép một cá nhân, tổ
chức nước ngoài đầu tư tại Việt Nam hay một cá nhân, tổ chức Việt Nam đầu
tư ra nước ngoài với hình thức thành lập doanh nghiệp nếu không có sự hiểu
biết về pháp luật thành lập doanh nghiệp của các nước đối tác, không nhận
thấy được những điểm tương đồng và cả những khác biệt giữa các quy phạm

pháp luật được xây dựng trên nền tảng các cơ sở văn hoá pháp lý vốn rất khác
nhau đó thì không thể quản lý hoặc không thể có những phương thức quản lý
hữu hiệu.
Sự ứng xử của con người về cơ bản hầu như theo những nguyên tắc,
cho dù đó là những phản ứng hay là cách hành xử của một tổ chức, một nhóm
dân cư hay là một cá nhân trong việc bảo vệ các lợi ích của mình. Cho nên sự
điều chỉnh của pháp luật đối với những hành vi, sự ứng xử đó cũng theo
những nguyên tắc nhất định. Trên cơ sở những nguyên tắc ấy, hoạt động so
sánh pháp luật sẽ giúp hiểu biết sâu sắc hơn về đời sống xã hội, văn hóa của
các dân tộc trên thế giới nói chung và hệ thống pháp luật cũng như nền khoa
học pháp lý của mỗi quốc gia nói riêng. Vì vậy, không chỉ giúp nâng cao nhận
thức về pháp luật thành lập doanh nghiệp của các nước, thông qua hoạt động
so sánh pháp luật còn tạo ra sự hiểu biết sâu sắc hơn đối với chính hệ thống
pháp luật của quốc gia mình. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
lĩnh vực xây dựng pháp luật. Việc so sánh, đối chiếu pháp luật thành lập
doanh nghiệp sẽ giúp cho các chuyên gia pháp lý nhìn nhận hệ thống pháp
luật trong nước một cách khách quan hơn để có thể đưa ra các chuẩn mực

21
pháp luật quốc gia. Nếu không có sự nghiên cứu so sánh sẽ dễ chủ quan, dễ bị
ràng buộc một cách vô thức vào những chuẩn mực nhất định một cách phiến
diện mà ít có những giải pháp thay thế hữu hiệu, nhất là trong bối cảnh hội
nhập sâu rộng trên mọi bình diện, trong đó có cả về pháp luật như hiện nay.
Xét một cách công bằng, khi nhận thức về một sự vật, hiện tượng có
thể xem xét riêng biệt từng sự vật hiện tượng nhưng để nhận thức một cách
đầy đủ, toàn diện và khách quan thì việc đặt sự vật, hiện tượng ấy bên cạnh
những sự vật hiện tượng khác sẽ cho ta một kết quả khả quan hơn. Như vậy,
cho dù ở lĩnh vực nào, từ xây dựng pháp luật, thực thi pháp luật cho tới
nghiên cứu tìm hiểu về pháp luật thành lập doanh nghiệp; và dù đối với chủ
thể nào, từ các chuyên gia xây dựng luật, các nhà quản lý đến người kinh

doanh, người dân quan tâm đều cần tới nghiên cứu so sánh và kết quả của nó.
Có thể khẳng định, trong hoạt động nghiên cứu pháp luật, so sánh có
một ý nghĩa đặc biệt quan trọng về cả phương diện lý luận cũng như ứng
dụng. "Luật so sánh góp phần quan trọng vào việc cải cách pháp luật của quốc
gia. Nó cung cấp cho các nhà làm luật các nhà lý luận, các thẩm phán và
những người hoạt động thực tiễn pháp lý khác những giải pháp để giải quyết
các vấn đề xã hội. Các giải pháp này đôi khi hữu ích hơn những tư tưởng đang
bị vây hãm chặt bởi hệ thống pháp luật quốc gia đang cần cải cách."."Chức
năng đầu tiên và quan trọng nhất của luật so sánh là hỗ trợ cho các cơ quan
lập pháp xây dựng pháp luật" [16].
Với sự kiện ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam gia nhập WTO và
trở thành thành viên chính thức vào ngày 11 tháng 1 năm 2007, thì việc rà
soát, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta trong đó có pháp luật về
thành lập doanh nghiệp nhằm thực hiện các cam kết quốc tế đã và đang trở
thành vấn đề cấp bách. Thông qua nghiên cứu so sánh để tìm hiểu pháp luật
thành lập doanh nghiệp của nước ngoài và nhận thức về đặc điểm, thực trạng

22
của hệ thống pháp luật thành lập doanh nghiệp của quốc gia, các chuyên gia
pháp lý cũng như các nhà lập pháp có thể rút ra những kinh nghiệm bổ ích để
học hỏi, có cơ hội cho việc tìm kiếm, xây dựng mô hình pháp luật lý tưởng,
phù hợp để hoàn thiện pháp luật về thành lập doanh nghiệp của nước nhà.
Thông thường, khi chuẩn bị cho một hoạt động lập pháp, các nhà làm
luật thường phải tham khảo vấn đề cùng loại thuộc các hệ thống pháp luật
khác nhau để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt và luận giải cho sự
tương đồng khác biệt ấy và tìm kiếm xem có những điểm nào có thể học hỏi
cho pháp luật Việt Nam. Hiện nay, các nhà làm luật cũng như các học giả
nghiên cứu thường phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn, thay vì phải dự
đoán và có những nguy cơ phải chịu những giải pháp kém thích hợp, họ có
thể khai thác, tham khảo kinh nghiệm tại các hệ thống pháp luật nước ngoài

mà ở đó có thể tìm thấy những giải pháp đơn giản hơn, hiệu quả hơn. Tuy
nhiên, điều này không hề dễ dàng. Xuất phát từ truyền thống kinh doanh,
trình độ phát triển kinh tế, chủ trương, chính sách quản lý kinh tế của từng
nước mà pháp luật thành lập doanh nghiệp của các nước rất khác biệt nên
nhiều hoạt động so sánh pháp luật đã cho nhiều kết quả khác nhau.
Thực tế đã cho thấy rằng, một quy định pháp luật sẽ có hiệu quả tốt ở
hệ thống pháp luật này nhưng chưa chắc đã phát huy tích cực ở một hệ thống
pháp luật khác. Vì lẽ đó, học hỏi điều gì và học hỏi như thế nào có tính quyết
định trong việc tham khảo, vận dụng kinh nghiệm xây dựng và áp dụng pháp
luật thành lập doanh nghiệp của các nước vào tình hình cụ thể của Việt Nam.
1.2.2. Thực trạng nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh
nghiệp của nước ta hiện nay
Mặc dù nhu cầu nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh
nghiệp của nước ta hiện nay là rất cấp thiết nhưng công việc này cho đến nay
vẫn còn khá mới mẻ.

23
Đã có một số bài viết, bài tham luận có liên quan và một số công trình
khoa học, luận án, đề tài nghiên cứu so sánh về pháp luật thành lập doanh
nghiệp, nhưng hầu hết những công trình khoa học hoặc bài viết đó hoặc là
nghiên cứu so sánh chung về pháp luật kinh doanh, hoặc là nghiên cứu riêng
về pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam chứ chưa có công trình
nào nghiên cứu so sánh pháp luật riêng về thành lập doanh nghiệp giữa Việt
Nam và các nước khác. Nhiều bài viết chỉ mới đề cập đến từng lĩnh vực cụ
thể mang tính đơn lẻ, nêu vấn đề hoặc giải quyết những công việc cụ thể,
nhiều công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ những lý luận chung
về pháp luật thành lập doanh nghiệp. Có một số công trình nghiên cứu và bài
báo khoa học như:
- Dự án VIE/97/016 so sánh về luật doanh nghiệp của 4 nước:
Singapore, Malaysia, Philippines và Thái Lan của Nguyễn Toàn Phan và

John Bentley;
- "Nghiên cứu so sánh luật công ty Đông Nam Á", Viện Nghiên cứu
quản lý Kinh tế Trung ương, tháng 1/1999;
- "Hình thức pháp lý doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ luật
so sánh" của TS Nguyễn Am Hiểu đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật;
- "Sự thay đổi trong luật công ty Đức và so sánh với pháp luật công ty
Việt Nam" của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp số 75, tháng 6/2005;
- "Ước mơ nửa triệu doanh nghiệp và một đạo luật chung: Luật doanh
nghiệp 2005 từ một góc nhìn so sánh" của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa đăng
trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 7/2006;
- " Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: nhìn từ ví dụ Luật Công ty của
Nhật và Luật Doanh nghiệp của Việt Nam" của Th.s Nguyễn Đức Lam (Trích
dẫn từ Blog của tác giả);

24
- "So sánh cấu trúc quản trị nội bộ của Công ty cổ phần Việt Nam với
các mô hình điển hình trên thế giới" của Ts Bùi Xuân Hải đăng trên Tạp chí
Khoa học pháp lý, số 6/2006; Luật Doanh nghiệp 1999 - nhìn từ góc độ so
sánh" của Ts Bùi Xuân Hải đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý;
- "Các loại hình doanh nghiệp phổ biến ở Pháp" của Lê Minh Phiếu
đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp lý số 4/2006…
Hoạt động nghiên cứu so sánh về pháp luật thành lập doanh nghiệp của
nước ta đã bước đầu được chú trọng, chẳng hạn như việc khảo sát mô hình
doanh nghiệp của các nước (trong đó có nghiên cứu cách thức thành lập
doanh nghiệp) để tham khảo khi xây dựng luật doanh nghiệp, tuy nhiên, công
việc này chưa hệ thống, chưa thường xuyên. Hoạt động nghiên cứu so sánh
mới chỉ chú trọng trong những thời điểm cụ thể, trước những yêu cầu cụ thể
(thường thì chỉ khi nào bắt tay vào xây dựng luật mới đi khảo sát, khi hợp tác
kinh doanh mới tìm hiểu ). Có thể chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến thực

trạng này:
Thứ nhất, nghiên cứu so sánh là một lĩnh vực mới: luật so sánh là một
hiện tượng mới được xuất hiện trong một số năm gần đây, khi mà nhà nước ta
thi hành chính sách mở cửa, hội nhập khu vực và hợp tác quốc tế, trong đó
bao gồm cả lĩnh vực pháp luật. Môn học luật so sánh cũng mới được đưa vào
giảng dạy trong nhà trường, tầm quan trọng của việc nghiên cứu môn luật học
so sánh mới được công nhận, phương pháp và mục tiêu của môn luật học so
sánh mới được nghiên cứu một cách có hệ thống, thuật ngữ luật so sánh mới
được sử dụng. Chính vì mới nên những người tiên phong trong lĩnh vực nghiên
cứu so sánh luật cũng giống như những người đi khai phá đất hoang, đòi hỏi
phải có bản lĩnh, sự cần cù và cả lòng dũng cảm, nhất là so sánh các vấn đề
trong những phạm vi hẹp như so sánh về pháp luật thành lập doanh nghiệp.

×