Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.4 KB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ THU HÀ





PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI




Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS NGUYỄN HỮU CHÍ







HÀ NỘI – 2010


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



Nguyễn Thị Thu Hà


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1 5

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI VÀ
PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI 5
1.1. KHÁI NIỆM CỨU TRỢ XÃ HỘI 5
1.1.1. Sự ra đời của cứu trợ xã hội 5
1.1.2. Khái niệm cứu trợ xã hội. 7
1.2. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI 12
1.3. NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA CHẾ ĐỘ CỨU TRỢ XÃ HỘI 16
1.3.1. Nguyên tắc mức trợ cấp cứu trợ xã hội không phụ thuộc vào sự đóng
góp, thu nhập hoặc mức sống trước khi phát sinh nhu cầu cứu trợ mà phụ
thuộc vào nhu cầu chi tiêu, tình trạng tài sản thực tế của đối tượng 16
1.3.2. Nguyên tắc cân đối giữa nhu cầu thực tế của đối tượng với khả năng
đáp ứng và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội 17
1.3.3. Nguyên tắc đa dạng hóa, xã hội hóa các hoạt động CTXH 18
1.4.1. Cứu trợ xã hội là quyền cơ bản của con người trong xã hội 19
1.4.2. Cứu trợ xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ cuộc sống của
các thành viên trong xã hội. 20
1.4.3. Cứu trợ xã hội góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế, công
bằng xã hội và thúc đẩy tiến bộ xã hội. 21
1.4.4. Cứu trợ xã hội có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc và mang tính toàn cầu 23
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 24
CHƢƠNG 2 26
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM 26
2.1. SƠ LƢỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI VIỆT NAM 26
2.1.1. Giai đoạn 1945 – 1975 26
2.1.2. Giai đoạn 1975 đến nay 27
2.2. PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI 29
2.2.1. Về đối tượng và điều kiện hưởng CTXH 29
2.2.2. Các chế độ cứu trợ xã hội 40

2.2.3. Nguồn kinh phí thực hiện cứu trợ xã hội 45
2.2.4. Cơ cấu tổ chức hoạt động cứu trợ xã hội 48
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 53
CHƢƠNG 3 56
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI 56
3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CTXH 56
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật cứu trợ xã hội nhằm cụ thể hóa chủ trương
đường lối của Đảng và Nhà nước ta. 56
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật cứu trợ xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi
thành viên trong xã hội. 57
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật cứu trợ xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu khách
quan của nền kinh tế thị trường. 59
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật cứu trợ xã hội nhằm tiến tới hoàn thiện hệ
thống pháp luật an sinh xã hội. 61
3.2. YÊU CẦU CƠ BẢN ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
CỨU TRỢ XÃ HỘI 62
3.2.1. Nhận thức đúng vai trò của cứu trợ xã hội ở nước ta hiện nay 62
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật CTXH phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của
đất nước. 63
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật CTXH nhằm mở rộng hơn nữa đối tượng
CTXH hướng tới mục tiêu bao quát toàn bộ dân số. 64
3.2.4 Hoàn thiện pháp luật CTXH phải hướng tới thiết lập được pháp luật
CTXH tiến bộ, kế thừa thành tựu lập pháp, khắc phục những hạn chế của
pháp luật CTXH hiện hành. 65
3.3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 66
3.3.1 Về đối tượng và điều kiện được hưởng CTXH 66
3.3.2. Về chế độ áp dụng đối với các đối tượng hưởng CTXH 70
3.3.3. Nguồn kinh phí thực hiện CTXH 71
3.3.4. Trong công tác tổ chức thực hiện 72

3.3.5. Ban hành Luật cứu trợ xã hội. 74
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 76
KẾT LUẬN CHUNG 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

BIỂU ĐỒ 2.1: TỔNG SỐ ĐỐI TƯỢNG SỐNG TẠI CỘNG ĐỒNG ĐƯỢC
HƯỞNG CHẾ ĐỘ CTXH THEO NĐ 67/2007/NĐ-CP 55

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
An sinh xã hội nói chung và cứu trợ xã hội (CTXH) nói riêng là một
trong những thiết chế quan trọng của hầu hết các quốc gia nhằm giúp đỡ
những người “yếu thế” trong xã hội khắc phục cuộc sống khó khăn và sớm
ổn định, hòa nhập cộng đồng. CTXH ở Việt Nam đã xuất hiện từ rất lâu
trong truyền thống dân tộc, với tinh thần “áo lành đùm áo rách”, “nhường
cơm xẻ áo” khi cá nhân, gia đình gặp hoạn nạn khó khăn. Đặc biệt, trong
giai đoạn hiện nay, kinh tế thị trường phát triển một mặt thúc đẩy sức sản
xuất, tăng sức cạnh tranh, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế nhưng mặt
khác nó cũng tạo ra những rủi ro đối với môi trường sống và xã hội. Tình
trạng ô nhiễm, phá hủy môi trường gây nên bão, lũ lụt, hạn hán triền miên,
sự phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội ngày càng thể hiện rõ
nét. Chính vì vậy, nghiên cứu nội dung CTXH là vấn đề mang tính cấp thiết
hơn bao giờ hết.
Hơn nữa, an sinh xã hội cùng với kinh tế, chính trị là ba thiết chế cơ
bản của nhà nước hiện đại. Một Nhà nước hiện đại không chỉ chú trọng phát
triển kinh tế mà phải cân bằng với chính trị ổn định và có nền an sinh tốt.Vì

vậy, nghiên cứu pháp luật CTXH- một bộ phận cấu thành an sinh xã hội là
chúng ta góp phần xây dựng các thiết chế của nhà nước hiện đại, phù hợp với
tình hình thế giới trong điều kiện hội nhập hiện nay.
Mặt khác, thời gian qua công tác về CTXH đã đạt được những thành
tựu đáng kể, tuy nhiên trong quá trình thực hiện, các quy định của pháp luật
CTXH hiện hành vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển của xã hội cũng như độ bao phủ tới các đối tượng CTXH.

2
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu về cơ sở lý luận
và thực tiễn pháp luật CTXH, từ đó đưa ra định hướng, giải pháp xây dựng và hoàn
thiện pháp luật CTXH đặc biệt có ý nghĩa cả trên phương diện lý luận và thực
tiễn. Đây chính là những lý do cơ bản để tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật
Việt Nam về cứu trợ xã hội” cho luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
CTXH là một trong ba nội dung quan trọng của an sinh xã hội Việt Nam.
Trong những năm gần đây, nghiên cứu về an sinh xã hội đã được các học giả,
các nhà nghiên cứu trong nước quan tâm. Ở bậc tiến sỹ, đề tài “Cơ sở lý luận
và thực tiễn cho việc xây dựng pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam” (năm
2008) của tác giả Nguyễn Hiền Phương; đề tài khoa học cấp Nhà nước“Cơ sở
khoa học của việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở
nước ta giai đoạn 2006-2015” (năm 2009) do GS, TS Mai Ngọc Cường làm
chủ nhiệm đề tài và ngoài ra có nhiều bài báo, tạp chí khác… nghiên cứu về
lĩnh vực này. Với tư cách là một bộ phận của an sinh xã hội nên việc nghiên
cứu nội dung CTXH các tác giả mới dừng lại ở mức độ khái quát nhất và chưa
có những đánh giá cụ thể, sâu sắc từng nội dung của CTXH.
Ngoài ra, một số khóa luận tốt nghiệp của sinh viên nghiên cứu về nội
dung pháp luật CTXH, song nội dung của khóa luận không còn mang tính
thời sự, số liệu cung cấp không phù hợp tại thời điểm nghiên cứu hiện nay.
Việc tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội” mang

một ý nghĩa thiết thực, trên cơ sở nghiên cứu đề tài tìm ra những vấn đề
pháp lý cần bổ sung, hoàn thiện về pháp luật CTXH.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của luận văn là nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật
CTXH ở Việt Nam, từ đó đưa ra những luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện

3
pháp luật CTXH. Nhằm đạt được mục đích này luận văn đề ra những nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động CTXH như
khái niệm, bản chất, nội dung…từ đó có cái nhìn tổng quan về CTXH nói
riêng và an sinh xã hội nói chung.
Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng các quy định về CTXH với
các nội dung cơ bản như đối tượng CTXH, điều kiện hưởng CTXH, tổ chức
thực hiện…đồng thời chỉ ra những kết quả đạt được cũng như các nội dung
còn hạn chế của pháp luật hiện hành về CTXH cần được hoàn thiện.
Thứ ba, từ những kết quả rút ra được khi nghiên cứu và phân tích thực
trạng về pháp luật CTXH tác giả đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm góp
phần hoàn thiện hệ thống pháp luật quan trọng này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, trong quá trình tiếp cận và giải quyết
những vấn đề mà luận văn đặt ra, tác giả dựa trên cơ sở phép duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử để nghiên cứu pháp luật về CTXH. Ngoài ra, tác giả sử dụng
các phương pháp nghiên cứu đối với từng trường hợp cụ thể như:
Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Nghiên cứu, phân tích, tiếp thu
có chọn lọc các nghiên cứu khoa học có giá trị của các nhà nghiên cứu đi
trước, cũng như các quy định pháp luật của các nước trên thế giới trong
một số nội dung nhất định.
Phƣơng pháp so sánh: Sử dụng trong các trường hợp phân biệt một
số khái niệm và trong trường hợp cần thiết so sánh nội dung cụ thể của

Pháp luật CTXH Việt Nam với quy định pháp luật các nước trên thế giới.
Phƣơng pháp khảo sát thực tiễn: Tìm hiểu, thu thập các số liệu về
công tác CTXH qua các năm gần đây. Qua đó cung cấp cho luận văn những
số liệu minh chứng thuyết phục và có tính khoa học cao.

4
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp bậc sau đại học, luận văn
tập trung nghiên cứu một số vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động CTXH.
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu những nội dung cơ bản của các đối tượng
CTXH thường xuyên và CTXH đột xuất mà không nghiên cứu các đối tượng
khác như đối tượng nghèo đói, đối tượng tệ nạn xã hội nghiện hút, mại dâm,
nhiễm HIV/AIDS.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về cứu trợ xã hội và pháp luật cứu trợ xã hội
Chương 2: Thực trạng chính sách và pháp luật cứu trợ xã hội ở Việt Nam
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật cứu trợ xã hội ở Việt Nam

5
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
CỨU TRỢ XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI

1.1. KHÁI NIỆM CỨU TRỢ XÃ HỘI
1.1.1. Sự ra đời của cứu trợ xã hội
Trong cuộc sống không phải lúc nào con người cũng gặp những điều
kiện thuận lợi và may mắn để tồn tại và phát triển. Trái lại họ thường xuyên bị
đe dọa bởi sự tác động tiêu cực của điều kiện sống. Trước tác động tiêu cực

của thiên nhiên như thiên tai, lũ lụt, hạn hán, của quá trình phát triển kinh tế
như sự phân công lao động, sự phân hóa giàu nghèo, của các cuộc chiến
tranh xung đột sắc tộc, dịch bệnh…dẫn đến trong xã hội có không ít người bị
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, vật chất và tinh thần. Họ bị rơi vào tình trạng
khó khăn, bần cùng, yếu thế, khó có điều kiện tồn tại, phát triển và cần sự
giúp đỡ của cộng đồng. Đây trở thành một yêu cầu khách quan cho sự tồn tại
của mỗi cá nhân trong cộng đồng.
Để khắc phục khó khăn, đáp ứng yêu cầu tồn tại của mình, ban đầu con
người tìm cách đáp ứng bằng những biện pháp mang tính bản năng, tự phát và
được thực hiện ở phạm vi hẹp như gia đình, họ hàng, chòm xóm… với những
hình thức đơn giản như nhường cơm, xẻ áo, giúp đỡ công lao động, lập quỹ
dự phòng…Dần dần khi xã hội có sự phân công lao động, của cải xã hội nhiều
hơn, các hình thức phân phối đa dạng hơn thì các hình thức tương trợ cộng
đồng cũng phát triển phong phú và có tính tổ chức cao hơn. Bên cạnh các
hình thức cứu trợ mang tính tự phát, các hoạt động cứu trợ được thực hiện bởi
các phường, hội và đặc biệt khi tôn giáo ra đời thì hoạt động cứu trợ càng
được quan tâm, thúc đẩy ý thức cưu mang, đùm bọc lẫn nhau của mỗi người
dân trong xã hội.

6
Trước những nhu cầu của người dân về CTXH, đòi hỏi các nhà nước
phải đứng ra gánh vác “trách nhiệm xã hội” của mình. Dưới sự điều tiết của
Nhà nước, hoạt động CTXH phát triển đa dạng và phong phú hơn. Hoạt động
CTXH không chỉ dừng lại ở hình thức mang tính truyền thống như từ thiện,
phát chẩn cứu đói…mà còn có sự tham gia chặt chẽ của nhà nước, hiệp hội,
cá nhân…nhằm giúp đỡ những thành viên của mình khi họ gặp rủi ro, bất
hạnh trong cuộc sống vì nhiều lý do.
Xem xét về lịch sử ra đời của CTXH cho thấy, CTXH xuất phát từ nhu
cầu khách quan, tất yếu của cuộc sống trong cộng đồng nhằm đảm bảo sự tồn
tại và phát triển, CTXH cũng là hình thức tương trợ đầu tiên, làm cơ sở cho sự

phát triển đa dạng, phong phú của các hình thức tương trợ hiện đại sau này
của hệ thống an sinh xã hội các quốc gia. CTXH cũng được nhìn nhận như là
“trách nhiệm xã hội” của Nhà nước đối với công dân của mình, là sự thể hiện
“thái độ” của Nhà nước đối với bộ phận người “yếu thế” trong xã hội. Thực tế
cũng minh chứng rất rõ cho sự tồn tại của các Nhà nước, của chính quyền các
quốc gia mà ở đó công tác xã hội được đảm bảo làm cơ sở vững vàng cho sự
tồn tại và phát triển kinh tế.
Trong xã hội hiện đại, cùng với sự phát triển kinh tế thì sự phân hóa
giàu nghèo càng trở nên gay gắt, nó không chỉ diễn ra ở phạm vi một quốc gia
mà còn ở phạm vi quốc tế. Trên thế giới cũng hình thành hai nhóm nước là
nước giàu và nước nghèo. Dưới góc độ dân sinh thì nước nghèo là trung tâm
của mọi sự quan tâm với các quyền cơ bản như: ăn, ở, đi lại, y tế, giáo dục,
thông tin…Vì vậy hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện hoạt động
CTXH đối với người dân “yếu thế” của mình với những mức độ khác nhau.
Chính sách CTXH đã trở thành chính sách quan trọng của nhiều quốc gia và
được thể chế hóa thông qua các văn bản pháp luật về CTXH. Mặt khác giữa
các quốc gia cũng có sự hợp tác, hỗ trợ nhau trong việc thực hiện CTXH.
CTXH trở thành vấn đề có tính toàn cầu và có ý nghĩa quốc tế sâu sắc.

7
1.1.2. Khái niệm cứu trợ xã hội.
1.1.2.1. Cứu trợ xã hội là một bộ phận của an sinh xã hội.
Con người ai cũng muốn cuộc sống yên vui no đủ, xã hội nào cũng
muốn được ổn định và phát triển. Nhà nước muốn duy trì trật tự xã hội tốt
buộc phải đảm bảo cho mọi người các điều kiện trước hết về ăn, ở, sức khỏe,
tìm kiếm việc làm, giải quyết các tệ nạn xã hội, tha hóa xã hội…bằng các biện
pháp xã hội. Những biện pháp công cộng của xã hội nhằm giúp con người và
gia đình họ khi ở vào hoàn cảnh bị ngừng hoặc giảm thu nhập, không có
thu nhập do ốm đau, già yếu, tai nạn lao động, mồ côi, bệnh hoạn, thiên
tai…có thể khắc phục một phần những khó khăn, những nội dung đó

được gọi là an sinh xã hội.
Ở Việt Nam, an sinh xã hội (social security [1]) do dịch từ tiếng nước
ngoài nên thuật ngữ an sinh xã hội có nhiều tên gọi khác nhau như: bảo đảm
xã hội, bảo trợ xã hội, an ninh xã hội…Tuy nhiên, dù dưới tên gọi nào an sinh
xã hội cũng bao hàm các nội dung đó là sự bảo vệ của xã hội đối với những
thành viên của mình: các trường hợp túng thiếu về kinh tế do mất người nuôi
dưỡng, về già, tàn tật; những trường hợp bị thiệt hại về thiên tai, hỏa
hoạn đồng thời xã hội cũng ưu đãi những người có công với cách mạng. Nội
dung này được khái quát qua rất nhiều khái niệm về an sinh xã hội. Trong
Hiến chương Đại Tây Dương, an sinh xã hội được hiểu theo nghĩa rộng là sự
bảo đảm thực hiện quyền con người sống trong hòa bình, được tự do làm ăn,
cư trú, di chuyển, phát triển chính kiến trong khuôn khổ pháp luật; được bảo
vệ bình đẳng trước pháp luật, được học tập, làm việc và nghỉ ngơi, có nhà ở;
được chăm sóc y tế và đảm bảo thu nhập để có thể thỏa mãn nhu cầu sinh
sống thiết yếu khi bị rủi ro, thai sản, tuổi già…Hay trong đạo luật an sinh xã
hội của Mỹ, an sinh xã hội được hiểu là sự đảm bảo của xã hội nhằm bảo tồn
nhân cách cùng giá trị của cá nhân, đồng thời tạo lập cho con người một đời

8
sống sung mãn và phát triển tài năng đến tột độ. Tổ chức lao động quốc tế
ILO đã đưa ra một trong những khái niệm về an sinh xã hội được sử dụng khá
rộng rãi: “An sinh xã hội là một sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành
viên của mình thông qua một số biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương
đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế làm mất hoặc suy giảm nghiêm
trọng về thu nhập hoặc tử vong. An sinh xã hội cung cấp chăm sóc y tế và trợ
giúp cho các gia đình có nạn nhân là trẻ em”. Trên cơ sở tiếp cận khái niệm
an sinh xã hội của các học giả cũng như của tổ chức lao động quốc tế ILO, ở
Việt Nam khái niệm an sinh xã hội gần đây được hiểu “ là một hệ thống các
cơ chế, chính sách, các giải pháp của Nhà nước và cộng đồng nhằm trợ giúp
mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế- xã

hội làm cho họ suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai
nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì các nguyên
nhân khách quan khác rơi vào cảnh nghèo khổ, bần cùng hóa và cung cấp
dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng, thông qua các hệ thống chính sách
về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội và trợ giúp đặc biệt”[26].
Có thể thấy, an sinh xã hội được hình thành gắn liền với các nội dung
đó là bảo hiểm xã hội; cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội, trong đó cứu trợ xã hội
là trụ cột chính không thể thiếu trong nền an sinh của mỗi quốc gia. CTXH là
hình thức sơ khai đầu tiên để thực hiện và phát triển các hình thức an sinh xã
hội hiện đại.
1.1.2.2. Khái niệm cứu trợ xã hội
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật quốc tế vẫn chưa có một khái niệm
chuẩn về CTXH mà chỉ đề cập bằng cách tiếp cận thông qua những quyền cơ
bản của con người như trong Tuyên ngôn nhân quyền 1948, khuyến nghị 67
của tổ chức lao động quốc tế ILO năm 1944 về đảm bảo phương tiện sinh
sống, khuyến nghị 69 của tổ chức lao động quốc tế ILO năm 1944 về chăm

9
sóc y tế và công ước 102-1952 về quy phạm tối thiểu an sinh xã hội. Theo đó
CTXH được tiếp cận với các quyền tối thiểu của con người, đó là các quyền
về ăn, mặc, ở, về giáo dục, chăm sóc y tế, đảm bảo nhu cầu thiết yếu khi bị rủi
ro, tai nạn, tuổi già…Cho đến nay hầu hết các nước đều thống nhất cho rằng
CTXH là hình thức tương trợ cộng đồng đơn giản, phổ biến nhất và được thực
hiện bởi nhà nước, cộng đồng nhằm đảm bảo cuộc sống cho mọi thành viên
trong xã hội khi họ lâm vào tình trạng khó khăn, bất hạnh vì nhiều nguyên
nhân khác nhau.
Ở Việt Nam, mặc dù CTXH đã được thực hiện từ rất lâu nhưng cho đến
nay vẫn chưa có một định nghĩa chính thức về CTXH trong các văn bản pháp
luật. Theo cách hiểu thông thường, cứu trợ là “giúp cho qua khỏi cơn nguy
khốn”[19] hoặc “giúp cho khỏi cơn nghèo ngặt”[19]. CTXH gồm hai nhóm từ

ghép là “cứu tế xã hội” và “trợ giúp xã hội”. Để hiểu rõ bản chất của CTXH
chúng ta bắt đầu đi từ khái niệm “cứu tế xã hội”. Theo từ điển bách khoa toàn
thư Việt Nam, cụm từ “cứu tế xã hội” được định nghĩa là “sự trợ giúp bằng
tiền hoặc hiện vật có tính cấp thiết, “cấp cứu” ở mức độ cần thiết cho những
người lâm vào hoàn cảnh bần cùng không có khả năng tự lo liệu cuộc sống
hàng ngày của bản thân và gia đình”[23]. Cứu tế xã hội mang tính tức thời,
tính cấp cứu nhằm giúp cho đối tượng tạm thời thoát khỏi tình cảnh hiểm
nghèo. Đối tượng của cứu tế xã hội chủ yếu là những người với những
nguyên nhân rủi ro, bất hạnh khác nhau dẫn đến cuộc sống bị đe dọa nghiêm
trọng, không có sự cứu tế thì bản thân và gia đình có thể bị nguy hại đến cuộc
sống, thậm chí có thể dẫn đến cái chết (chết đói, chết rét…). Hình thức thực
hiện cứu tế xã hội rất phong phú và linh hoạt. Cứu tế có thể bằng tiền hoặc
bằng hiện vật. Trên thực tế, cứu tế xã hội thường được áp dụng đối với đối
tượng bị thiệt hại do thiên tai, hoặc tai họa bất thường khác, hoặc là những
người cần được trợ giúp trong một khoảng thời gian ngắn, giúp họ vượt qua
tình trạng khó khăn nguy kịch của cuộc sống.

10
Khác với cứu tế xã hội, trợ giúp xã hội vừa có tính tức thời, vừa có tính
lâu dài trong đó tính lâu dài là chủ yếu. Trợ giúp xã hội là “giúp đỡ thêm
bằng tiền hoặc các điều kiện sinh sống thích hợp để đối tượng được trợ giúp
có thể phát huy khả năng tự lo liệu cuộc sống cho mình và gia đình sớm hòa
nhập vào cộng đồng”[23]. Hay trong một số công trình nghiên cứu, cho rằng
trợ giúp xã hội là sự bảo đảm và giúp đỡ của Nhà nước, sự hỗ trợ của nhân
dân và cộng đồng quốc tế về thu nhập và các điều kiện sinh sống bằng các
biện pháp và hình thức khác nhau đối với các đối tượng bị lâm vào cảnh rủi
ro, bất hạnh, nghèo đói, thiệt thòi, yếu thế hoặc hụt hẫng trong cuộc sống khi
họ không đủ khả năng tự lo được cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia
đình”[4]. Trợ giúp xã hội không có tính “tức thời” “cấp cứu” bằng cứu tế xã
hội. Trợ giúp xã hội thường ổn định lâu dài và có tính đến việc phát huy nội

lực của bản thân đối tượng để vươn lên vượt hoàn cảnh, hòa nhập với cộng đồng.
Như vậy, dựa trên quan điểm của quốc tế nói chung và Việt Nam nói
riêng, CTXH có thể hiểu: Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội
và cộng đồng bằng những biện pháp và các hình thức khác nhau đối với các
đối tượng bị lâm vào hoàn cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói…vì những
nguyên nhân khác nhau dẫn đến không đủ khả năng tự lo liệu cuộc sống tối
thiểu của bản thân và gia đình nhằm giúp họ tránh được mối đe dọa của cuộc
sống thường nhật hoặc giúp họ vượt qua những khó khăn, ổn định cuộc sống
và hòa nhập cộng đồng.
Dưới góc độ kinh tế, CTXH là đảm bảo nguồn thu nhập tối thiểu cho
cuộc sống của một bộ phận dân cư trong xã hội khi họ bị rơi vào tình trạng
khó khăn, bất hạnh, hiểm nghèo…nên có mức sống thấp hơn mức sống tối
thiểu của xã hội. Họ không có khả năng tự đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu của
bản thân và gia đình mà tự mình không thể khắc phục được và cần có sự nâng
đỡ về vật chất để vượt qua khó khăn đó. CTXH là hoạt động không nhằm

11
mục đích kinh doanh, lợi nhuận nhưng lại có ý nghĩa là công cụ phân phối lại
tiền bạc, của cải, dịch vụ cho các thành viên xã hội gặp bất hạnh, thu hẹp dần
sự chênh lệch mức sống, giảm bớt bần cùng, nghèo đói.
Dưới góc độ xã hội, có thể hiểu CTXH là sự tương trợ cộng đồng có
tính xã hội sâu sắc. CTXH là biện pháp hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng và xã
hội cho các thành viên của mình khi họ gặp khó khăn, rủi ro nhằm giảm thiểu
những bất ổn xã hội, duy trì ổn định xã hội. Theo đó, những khó khăn bất
hạnh của mỗi cá nhân được cả xã hội chia sẻ, gánh vác mà không đòi hỏi một
nghĩa vụ trực tiếp nào về tài chính. Ở đây không có sự phân biệt về đối tượng
hưởng cũng như chủ thể thực hiện, hơn thế nữa lại là yếu tố tạo nên sự hòa
đồng giữa các thành viên trong xã hội. Cũng vì những ý nghĩa xã hội của
mình mà CTXH được coi là hình thức tương trợ cộng đồng phổ biến nhất, thể
hiện tính nhân văn sâu sắc của mỗi cá nhân và có sức hút hấp dẫn trước

những giá trị nhân bản của con người.
Trên thực tế hiện nay, chúng ta bắt gặp các cách sử dụng khác nhau về
thuật ngữ “cứu trợ xã hội” hay “bảo trợ xã hội”, “trợ giúp xã hội” trong các văn
bản pháp luật, tài liệu tham khảo, công trình nghiên cứu….Vậy có sự khác nhau
cơ bản nào trong các cách sử dụng thuật ngữ hiện nay? Như trên, tác giả trình
bày trong nhiều trường hợp khái niệm CTXH và trợ giúp xã hội được hiểu đồng
nghĩa với nhau, còn bảo trợ xã hội theo nghĩa truyền thống là hệ thống cơ chế,
chính sách và các giải pháp của Nhà nước và cộng đồng xã hội nhằm trợ giúp
và bảo vệ những đối tượng yếu thế, thiệt thòi trong cuộc sống ổn định cuộc sống
và hòa nhập cộng đồng như người già, người tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt…và những người có hoàn cảnh đặc biệt khác” [26].
Dù được sử dụng dưới bất kỳ thuật ngữ nào, chúng ta đều nhận thấy
đặc trưng chung của CTXH, bảo trợ xã hội và trợ giúp xã hội là:
- Đối tượng được hưởng chế độ, bao gồm mọi người dân không có sự
phân biệt khi gặp phải những rủi ro, bất hạnh, khó khăn…trong cuộc sống.

12
- Nghĩa vụ đóng góp không đặt ra như một yêu cầu đối với người
được hưởng có tính đến tình trạng kinh tế (thu nhập và tài sản) của họ.
- Mức trợ cấp được xác định dựa trên nhu cầu thực sự và thiết yếu của
người hưởng.
- Mục đích trợ cấp nhằm duy trì cuộc sống của người thụ hưởng và
gia đình họ chứ không nhằm khôi phục lại mức sống của họ như trước khi gặp
rủi ro bất hạnh.
Chính vì sự tương đồng, không có sự phân biệt đáng kể như trên nên
trong thời gian dài chúng ta sử dụng thuật ngữ “cứu trợ xã hội” trong các văn
bản pháp luật của Nhà nước như Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày
09.03.2000 của chính phủ; Thông tư số 18/2000/TT-BLDDTBXH ngày
28/07/2000 của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội…hay các giáo trình “an
sinh xã hội” của trường Đại học Luật HN; giáo trình “cứu trợ xã hội” của Đại

học Lao động- Xã hội. Với sự ra đời của Nghị định số 67/2007/NĐ- CP ngày
13.04.2007 của Chính phủ thuật ngữ “bảo trợ xã hội” lại được sử dụng nhiều.
Gần đây, trong các đề tài nghiên cứu khoa học khái niệm “trợ giúp xã hội”
cũng được sử dụng phổ biến rộng rãi [4,18]. Như vậy, theo quan điểm
của tác giả sử dụng thuật ngữ “cứu trợ xã hội”, “bảo trợ xã hội” hay “trợ
giúp xã hội” sẽ không có sự khác nhau về nội dung cấu thành của nó
trong giai đoạn nghiên cứu hiện nay.
1.2. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI
CTXH là một chính sách xã hội quan trọng của mỗi quốc gia, là biện
pháp bảo vệ của xã hội đối với các thành viên “yếu thế” của mình, góp phần
củng cố an toàn xã hội, ổn định chính trị, tạo điều kiện phát triển kinh tế, thể
hiện sự công bằng, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nhận thức được ý nghĩa và tầm
quan trọng của CTXH, hều hết các nước đều thực hiện nó bằng cách xây

13
dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật CTXH. Theo tổng kết của tổ
chức lao động quốc tế ILO thì trong số 172 nước thành lập hệ thống an sinh
xã hội thì chế độ CTXH đều được quan tâm thực hiện ngay từ đầu. Ở Mỹ sự
ra đời của đạo luật an sinh xã hội năm 1935 cũng gắn liền với áp lực của nhu
cầu CTXH với thực trạng đói nghèo trong đời sống của nhóm người yếu thế
như phụ nữ, trẻ em, người già…Một số nước như Pháp, Thụy Điển, Đức còn
xác định CTXH cho những người nghèo nhất chính là trọng tâm và mục tiêu
chủ đạo của an sinh xã hội [5].
Tuy nhiên, là một nội dung mang nặng tính xã hội nên khái niệm CTXH
phụ thuộc rất nhiều vào quan niệm của từng quốc gia. Dựa trên quan điểm
chung của tổ chức lao động quốc tế ILO và kết quả nghiên cứu khoa học luật
trong nước có thể đưa đến khái niệm về pháp luật CTXH như sau: Pháp luật
cứu trợ xã hội là tổng thể các quy định của Nhà nước nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực trợ giúp giữa Nhà nước, xã hội và
cộng đồng bằng các biện pháp và hình thức khác nhau cho các thành viên xã

hội khi gặp phải những khó khăn, rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống vì những
nguyên nhân khác nhau dẫn đến khả năng không đủ lo liệu được cuộc sống tối
thiểu cho bản thân và gia đình nhằm tránh được những mối đe dọa của cuộc
sống thường nhật và ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng.
Pháp luật CTXH quy định những nội dung cơ bản đó là: đối tượng
CTXH; các chế độ CTXH; tài chính thực hiện CTXH cũng như tổ chức quản
lý thực hiện hoạt động CTXH.
Thứ nhất, đối tượng CTXH
Đối tượng CTXH mặc dù là áp dụng cho mọi đối tượng ưu tiên trong
xã hội, tuy nhiên các quốc gia đều lựa chọn đối tượng theo thứ tự ưu tiên
những người bất hạnh, khó khăn, rủi ro nhất. Theo tổ chức lao động quốc tế
ILO, đối tượng của CTXH được đề xuất đầu tiên bao gồm người già, người cô

14
đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật…[31]. Không có một quy định chuẩn chung
áp dụng cho các quốc gia về đối tượng cứu trợ, song phụ thuộc vào mức độ
quan tâm, tình trạng kinh tế mà các quốc gia có những tiêu chí khác nhau khi
lựa chọn đối tượng CTXH. Chẳng hạn để được hưởng trợ cấp kinh tế định kỳ
đối với người già ở Canada đối tượng phải đạt độ tuổi từ 65 tuổi trở lên,
không có nguồn thu nhập, có nơi cư trú hợp pháp trên lãnh thổ Canada từ 10
năm trở lên và đảm bảo các chỉ số suy giảm sức khỏe thông qua kỳ kiểm tra
sức khỏe định kỳ hàng năm. Ở Đan Mạch, người tàn tật được hưởng trợ cấp
từ thu nhập chung quốc gia khi bị suy giảm vĩnh viễn 50% khả năng lao động
về vật chất và tinh thần trở lên, có ít nhất 3 năm cư trú tại Đan Mạch và đảm
bảo điều kiện thẩm tra thu nhập…[31]. Ở Việt Nam cùng với sự thay đổi
của đất nước đối tượng CTXH ngày càng được pháp luật quy định mở
rộng, bao gồm: trẻ em mồ côi và người có hoàn cảnh tương tự như trẻ em
mồ côi, người cao tuổi, người tàn tật, người mắc bệnh tâm thần, người già
trên 85 tuổi, người nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, người nhiễm HIV, AIDS
không có khả năng lao động, người gặp khó khăn do thiên tai hoặc những

lý do bất khả kháng khác gây ra.
Điểm đặc biệt của điều kiện hưởng CTXH đó là nghĩa vụ tài chính
không được đặt ra cho người thụ hưởng. Sở dĩ như vậy bởi các khoản CTXH
được coi như biểu hiện của việc đảm bảo quyền con người trong xã hội, là
trách nhiệm của Nhà nước đối với các công dân của mình và mang ý nghĩa
nhân đạo, xã hội cao cả.
Thứ hai, chế độ CTXH
Khi nói đến chế độ cứu trợ chúng ta hiểu đó là các hình thức trợ cấp
cho các đối tượng của CTXH dưới các cách khác nhau như: trợ cấp vật chất,
chăm sóc y tế hoặc bằng tinh thần…Trong đó, trợ cấp vật chất được coi là

15
quan trọng nhất, được xác định trên cơ sở nhu cầu trợ giúp và khả năng đáp
ứng tài chính của các quốc gia.
Xuất phát từ đối tượng CTXH đa dạng mà các chế độ CTXH cũng
phong phú để đáp ứng mục đích của CTXH. Pháp luật về CTXH Việt Nam
quy định hai hình thức CTXH chính đó là: CTXH thường xuyên và CTXH
đột xuất. Chế độ CTXH thường xuyên có tính chất ổn định, lâu dài, áp dụng
cho những đối tượng không thể tự lo cho cuộc sống hàng ngày của mình. Chế
độ CTXH đột xuất có tính tức thời, được thực hiện một lần và các hình thức
đa dạng, phong phú hơn phụ thuộc vào từng tình huống với những nhu cầu cụ
thể. Chế độ này áp dụng đối với đối tượng gặp khó khăn vì lý do bất khả
kháng mà cuộc sống của họ bị đe dọa trong một thời gian ngắn nhất định.
Ngoài ra ở phạm vi rộng hơn, hoạt động CTXH cũng được thực hiện
với các nội dung khác như xóa đói giảm nghèo, nâng đỡ người lầm lỡ, mắc
các tệ nạn xã hội…
Thứ ba, nguồn lực thực hiện CTXH
Tất cả các nội dung cơ bản của pháp luật CTXH đều là lý thuyết, không
có khả năng thực thi trên thực tế nếu không có nguồn lực thực hiện CTXH.
Pháp luật CTXH quy định rất rõ ràng, cụ thể nguồn lực thực hiện CTXH.

CTXH được thực hiện dựa trên nguồn kinh phí của Nhà nước (chủ yếu từ các
nguồn thuế của quốc gia). Bên cạnh nguồn tài chính được đảm bảo từ ngân
sách nhà nước, nguồn tài chính còn dựa trên cơ sở tự nguyện của các tổ chức
phi chính phủ (NGO), tổ chức, cá nhân…trong và ngoài nước cũng giữ vai trò
quan trọng trong hoạt động CTXH
Thứ tư, công tác tổ chức và thực hiện hoạt động CTXH
Theo quy định của Pháp luật, công tác tổ chức và thực hiện các hoạt
động CTXH được thống nhất từ trung ương xuống địa phương. Cơ quan đứng
đầu chịu trách nhiệm chính là Bộ Lao động- Thương Binh và Xã hội với cơ

16
quan chuyên môn là Cục bảo trợ xã hội. Tương đương với cấp tỉnh, thành phố
là Sở Lao động Thương binh và Xã hội với các cơ quan chuyên môn thực
hiện là phòng Lao động Thương binh và xã hội…
Tóm lại, pháp luật CTXH là một bộ phận của hệ thống pháp luật về các
vấn đề xã hội nói chung và pháp luật an sinh xã hội nói riêng. Pháp luật
CTXH là công cụ để các chủ trương, đường lối về chính sách CTXH đi sâu
vào thực tế cuộc sống, nhằm mục đích quản lý, kiểm soát và hướng hoạt động
CTXH theo những mục tiêu nhất định của mỗi quốc gia.
1.3. NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA CHẾ ĐỘ CỨU TRỢ XÃ HỘI
Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật CTXH là những tư tưởng chủ đạo
xuyên suốt và chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm CTXH trong việc điều
chỉnh các quan hệ CTXH. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật CTXH
Việt Nam thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
trong vấn đề đảm bảo quyền con người, từng bước cải thiện đời sống của mỗi
thành viên xã hội, phát triển kinh tế-xã hội thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Là bộ phận cấu thành của pháp luật an sinh xã hội, chế độ CTXH cũng
đảm bảo thực hiện các nguyên tắc chung của hệ thống an sinh như nguyên tắc
đảm bảo thực hiện đối với mọi thành viên xã hội, nguyên tắc nhà nước thống

nhất quản lý, nguyên tắc lấy số đông bù số ít…Tuy nhiên với đặc thù riêng
của mình về đối tượng, hình thức thực hiện, mục đích trợ cấp…nên chế độ
CTXH xác định những nguyên tắc riêng cho mình, cụ thể một số nguyên tắc sau:
1.3.1. Nguyên tắc mức trợ cấp cứu trợ xã hội không phụ thuộc vào sự đóng
góp, thu nhập hoặc mức sống trƣớc khi phát sinh nhu cầu cứu trợ mà phụ
thuộc vào nhu cầu chi tiêu, tình trạng tài sản thực tế của đối tƣợng
Quyền được hưởng an sinh xã hội nói chung và hưởng CTXH nói riêng

17
là quyền của công dân trong xã hội. Mọi thành viên trong xã hội không phân
biệt địa vị xã hội, trình độ văn hóa, giới tính…khi gặp khó khăn, bất hạnh bản
thân và gia đình không tự khắc phục được thì được hưởng trợ giúp xã hội.
Mức trợ cấp xã hội không phụ thuộc vào thu nhập, tài sản của đối tượng trước
khi có biến cố rủi ro xảy ra, mà phụ thuộc vào nhu cầu của đối tượng cần
CTXH cũng như khả năng đáp ứng của Nhà nước và cộng đồng. Nguyên tắc
này xuất phát từ mục đích của CTXH, theo đó các khoản trợ cấp không nhằm
bù đắp hay thay thế thu nhập của đối tượng, cũng không nhằm đảm bảo cuộc
sống với những yêu cầu định trước mà chỉ nhằm giúp cho đối tượng thoát ra
khỏi tình trạng cuộc sống bị đe dọa, vươn lên hòa nhập cộng đồng.
Tuy nhiên, trên thực tế nguyên tắc này trong CTXH không có
nghĩa là cào bằng, ai cũng như ai mà phải dựa trên mức độ rủi ro, hoàn
cảnh khác nhau…mà quyết định mức cứu trợ khác nhau. Vì vậy, pháp
luật CTXH đã phân loại đối tượng CTXH để đưa ra chế độ CTXH
thường xuyên và chế độ CTXH đột xuất.
Có thể nói, đây là nguyên tắc xuyên suốt bao trùm toàn bộ nội dung của
hoạt động CTXH trong hệ thống ASXH. Khác với nội dung bảo hiểm xã hội
hay ưu đãi xã hội thì vấn đề đóng góp vật chất hay sức người không được đặt
ra đối với các đối tượng hưởng chế độ CTXH.
1.3.2. Nguyên tắc cân đối giữa nhu cầu thực tế của đối tƣợng với khả
năng đáp ứng và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội

Các nghiên cứu về an sinh xã hội cho thấy các quốc gia càng phát triển
thì mức độ và đối tượng CTXH càng phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên ở Việt
Nam với tình trạng đất nước còn nghèo, GDP bình quân đầu người năm 2006
đạt 740USD, năm 2009 đạt 1060 USD trong khi đó năm 2004 của Thái Lan
2.262 USD; Philipin là 1030 USD, Indonesia là 1.146 USD, Việt Nam chỉ cao

18
hơn Lào 286 USD và Campuchia 368 USD [16] nên quan tâm đến an sinh xã
hội nói chung và CTXH nói riêng vẫn còn nhiều mới mẻ và chưa được sự
quan tâm của Nhà nước trong một thời gian dài. Hơn nữa, do những đặc thù
của Việt Nam về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị xã hội mà nhu cầu
CTXH ở Việt Nam là rất lớn. Với tỷ lệ số hộ đói nghèo, số lượng người tàn
tật không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, tình trạng ô nhiễm môi trường và
biến đổi khí hậu hiện nay …thì số lượng đối tượng cần trợ giúp đang là bài
toán nan giải trên con đường phát triển đất nước. Vì vậy, thực hiện CTXH
phải cân đối giữa nhu cầu thực tế của đối tượng với khả năng đáp ứng và phù
hợp với điều kiện kinh tế xã hội. Theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước,
ngoài các khoản trợ giúp do ngân sách Trung ương chi trả thì các địa phương
trích từ 2%-5% các nguồn thu của địa phương làm quỹ dự phòng cho các hoạt
động phòng chống thiên tai, hỏa hoạn…. Nguồn thu các địa phương khác nhau
thì mức độ CTXH cho các đối tượng là khác nhau Tuy nhiên, mức trợ cấp
CTXH cũng phải đảm bảo được nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì được cuộc sống
cho mọi đối tượng hoặc thoát khỏi hoàn cảnh nguy nan trước mắt.
Với tầm quan trọng như vậy nên trong quá trình thực hiện công tác
CTXH nhà nước luôn luôn phải quan tâm và quán triệt thực hiện nguyên tắc
trên. Nếu mức CTXH cao hơn so khả năng đáp ứng thì sẽ không đảm bảo
thực hiện, thậm chí còn tạo tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nguồn cứu trợ. Nếu
mức trợ cấp quá thấp thì không đảm bảo được mục đích cứu trợ là “lưới đỡ
kinh tế cuối cùng” giúp đỡ người dân.
1.3.3. Nguyên tắc đa dạng hóa, xã hội hóa các hoạt động CTXH

Xuất phát từ các đối tượng CTXH khác nhau mà hình thức, mức độ cứu
trợ cũng khác nhau. Có những đối tượng là nguyên nhân từ thiên nhiên như
hạn hán, lũ lụt…; có những đối tượng do hoàn cảnh như trẻ em mồ côi, người

19
mắc các tệ nạn; có những đối tượng do điều kiện sức khỏe như người tàn
tật…nên các mức và hình thức cứu trợ từ đó cũng rất đa dạng và phong phú.
Có đối tượng cần cứu khỏi chết đói, chết rét, bệnh tật… nhưng có những đối
tượng cần trợ giúp thường xuyên để duy trì cuộc sống trong thời gian
dài…Hay trong cùng một nhóm hưởng cứu trợ nhu cầu cũng khác nhau,
chẳng hạn khi có thiên tai, bão lụt thì người cần tiền để dựng lại nhà ở, người
cần lương thực để chống đói. Trong một số các trường hợp, việc thực hiện
CTXH bằng tiền, hiện vật nhưng cũng có những trường hợp cần cứu trợ về
tinh thần như thành lập các viện dưỡng lão, các trung tâm tư vấn cho mọi lứa
tuổi. Tóm lại, CTXH là hoạt động rất đa dạng và phong phú từ đối tượng,
hình thức cứu trợ đến cách thức thực hiện.
Bên cạnh tính đa dạng của hoạt động cứu trợ thì yếu tố xã hội hóa cũng
rất được quan tâm khi thực hiện hoạt động CTXH trên thực tế. Xã hội hóa
hoạt động cứu trợ được hiểu đó là sự tham gia của toàn xã hội vào công tác
CTXH. Mỗi cá nhân sống trong cộng đồng đều phải có trách nhiệm với các
thành viên khác và với chính mình trên cơ sở sự yêu thương, che chở, đùm
bọc lẫn nhau. Nhà nước giữ vai trò trung tâm, khuyến khích và tạo điều kiện
để bất cứ cá nhân, tổ chức nào có lòng từ thiện đều có thể tham gia vào các
hoạt động CTXH. Thời gian gần đây, việc xã hội hóa hoạt động CTXH đã
được phát huy hiệu quả, hàng loạt các hoạt động được tổ chức như: “ủng hộ
đồng bào lũ lụt”, chương trình “vì người nghèo”, “ủng hộ nạn nhân chất độc
màu da cam”…Có thể nói CTXH thể hiện rõ nét nhất nguyên tắc xã hội hóa
so với các bộ phận khác trong hệ thống an sinh xã hội.
1.4. Ý NGHĨA CỦA CỨU TRỢ XÃ HỘI.
1.4.1. Cứu trợ xã hội là quyền cơ bản của con ngƣời trong xã hội

CTXH thể hiện một cách rõ nét nhất quyền cơ bản của con người trong

×