Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (942.6 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ ANH ĐỨC





PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN TRONG MỐI QUAN HỆ
VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NHÀ ĐẦU TƯ



LUẬN VĂN THẠC SĨ





Hà Nội - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ



LÊ ANH ĐỨC






PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN TRONG MỐI QUAN HỆ
VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NHÀ ĐẦU TƯ


Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 62.38.50



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ




Hà Nội - 2009

1
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo

vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Lê Anh Đức




















2
MỤC LỤC

Trang
Lời cam đoan 01
Mục lục 02
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt 03
MỞ ĐẦU 04
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ NĐT VÀ
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CTCK TRÊN TTCK
1.1. Những vấn đề lý luận pháp luật về nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán 08
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về hoạt động kinh doanh của Công ty chứng
khoán với việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư 29
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẠT VIỆT NAM VỀ
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VỚI
VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NĐT
2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh môi giới của
Công ty chứng khoán với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư 45
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hoạt động tư vấn đầu tư của Công
ty chứng khoán và vấn đề bảo vệ nhà đầu tư 50
2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hoạt động tự doanh trong mối quan
hệ với việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư 52
2.4. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng
khoán và vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư 55
2.5. Xử lý hành vi phạm của Công ty chứng khoán và vấn đề bảo vệ quyền lợi của
nhà đầu tư 57
2.6. Phá sản Công ty chứng khoán và vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư 70
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH CỦA CTCK ĐỂ BẢO VỆ LỢI ÍCH CỦA NĐT
3.1. Nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về hoạt động kinh doanh của Công ty chứng
khoán để bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư 76
3.2. Giải pháp hoàn thiện cụ thể 79


3
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT


STT
TÊN ĐẦY ĐỦ
KÝ HIỆU, VIẾT TẮT
1
Thị trường chứng khoán
TTCK
2
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
UBCKNN
3
Sở giao dịch chứng khoán
SGDCK
4
Công ty Chứng khoán
CTCK
5
Công ty quản lý quỹ
CTQLQ
6
Chứng khoán
CK
7
Nhà đầu tư
NĐT
8
Trung tâm lưu ký

TTLK



























4
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Mới chỉ ra đời chưa đầy 9 năm, TTCK Việt Nam đã có những bước phát triển
đáng kể, trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn hiệu quả cho doanh nghiệp
nói riêng, cho thị trường vốn nói chung. Nửa cuối năm 2006, đầu năm 2007, TTCK
đã có bước phát triển nhảy vọt, kéo theo sự ra đời của hàng loạt các thiết chế trung
gian trên thị trường, trong đó có các CTCK.
CTCK ra đời đã kịp thời đáp ứng được đòi hỏi cấp bách của thị trường, gia tăng
tính minh bạch, bình đẳng, công bằng giữa các chủ thể tham gia thị trường. Tuy
nhiện, sự ra đời ồ ạt của hàng loạt các CTCK cũng gây ra những hậu quả tiêu cực
cho thị trường, ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân các công ty này và lợi ích của các
NĐT tham gia thị trường. Hệ quả đưa lại sau khoảng thời gian “chạy đua” xin cấp
giấy phép thành lập CTCK là tình trạng các công ty này phải “vật lộn” trước bài
toán duy trì hoạt động trước áp lực cạnh tranh giữa các CTCK với nhau, đặc biệt là
trong giai đoạn thị trường tài chính thế giới và trong nước đang có những biến cố
bất lợi. Mặt khác, do có những lợi thế nhất định nên dễ dẫn đến khả năng CTCK
xâm phạm đến quyền lợi của khách hàng (NĐT).Vì vậy, tác giả chọn đề tài nêu trên
để triển khai nghiên cứu vì những lý do sau:
Một là, mặc dù Luật CK và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy
định khá cụ thể về trách nhiệm của CTCK khi tiến hành thành lập, hoạt động kinh
doanh nhưng sau một khoảng thời gian áp dụng, những quy định này đã bộc lộ
những lỗ hổng lớn có khả năng gây phương hại đến các chủ thể khách cùng tham
gia thị trường trong đó có các NĐT – là chủ thể chính quyết định sự tồn tại, ổn định
và phát triển của thị trường;
Hai là, pháp luật dường như mới chỉ tính đến tình huống CTCK thành lập mà
chưa có những dự liệu cần thiết cho tình huống các công ty này lâm vào tình trạng
giải thể, phá sản. Đặc thù hoạt động của CTCK là có khả năng ảnh hưởng, tác động
đến nhiều chủ thể khác nhau. Hoạt động kinh doanh CK của CTCK là hoạt động
kinhh doanh có điều kiện. Mặt khác, trong nhiều trường hợp, tài sản, quyền lợi,
nghĩa vụ của các chủ thể trong mối quan hệ với CTCK rất khó xác định. Vì vậy, nếu
chỉ đơn thuần dựa vào các quy định của luật phá sản doanh nghiệp sẽ không thể xử


5
lý thấu đáo và đôi khi không tìm ra giải pháp hợp lý, tối ưu các vấn đề pháp lý phát
sinh;
Ba là, trong mối tương quan với khách hàng, CTCK là chủ thể có nhiều ưu thế
hơn trong quá trình đầu tư. CTCK không chỉ có thế mạnh, khả năng về năng lực tài
chính mà còn có lợi thế lớn về nhân lực và kỹ thuật. Trong khi đó, trong những
trường hợp nhất định, CTCK và khách hàng đều là những NĐT có mục tiêu hướng
tới là lợi nhuận. Trên TTCK tập trung, tất cả các lệnh của khách hàng phải thực hiện
thông qua CTCK, do vậy, rất dễ dẫn đến khả năng xung đột lợi ích giữa hai chủ thể
này. Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của
CTCK trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của NĐT sẽ góp phần đóng
góp ý kiến, đề xuất cho các nhà làm luật hoàn thiện các quy phạm pháp luật điều
chỉnh có hiệu quả hoạt động kinh doanh của CTCK nhằm đem lại sự phát triển ổn
định, lành mạnh của thị trường và bảo vệ tối ưu quyền lợi hợp pháp, chính đáng của
NĐT.
2. Tình hình nghiên cứu và ý nghĩa lý luận của đề tài
Qua tra cứu cho thấy, ở nước ta, đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài
báo và tạp chí đề cập đến khía cạnh pháp lý của hai chủ thể: CTCK và NĐT. Có thể
kể đến một số công trình như: Đoàn Quốc Hùng, Pháp luật về hoạt động kinh
doanh CK của CTCK – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Trường Đại học Luật
Hà Nội, năm 2002; Nguyễn Bảo Giang, CTCK theo pháp luật Việt Nam, Trường
Đại học Luật Hà Nội, năm 2005; Hoàng Thị Quỳnh Chi, Pháp luật về bảo vệ quyền
và lợi ích của NĐT trên TTCK tập trung ở Việt Nam, năm 2008; Vũ Nhất Tâm, Bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT cá nhân trên TTCK ở Việt Nam, năm 2008.
Các công trình này đề cập đến các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động kinh
doanh của CTCK và các vấn đề pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của NĐT. Tuy nhiên, một số công trình được nghiên cứu vào thời điểm những
năm trước khi Luật CK được ban hành nên chưa giải quyết được các vấn đề pháp lý
cơ bản đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác, hầu hết các công trình này mới chỉ

nghiên cứu một cách độc lập vấn đề cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động và các vấn
đề khác của CTCK mà chưa đề cập và giải quyết mối tương qua giữa hoạt động
kinh doanh của CTCK với việc đảm bảo quyền lợi của NĐT. Thêm vào đó, trước

6
bối cảnh TTCK trong nước và thế giới đang có những biến động lớn như hiện nay,
hàng loạt các CTCK lâm vào tình trạng khó khăn, thua lỗ, trên thị trường có những
vụ việc tranh chấp gây tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của NĐT thì việc tác giả lựa
chọn nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ đề tài trên mang ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc. Những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết
thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về CTCK khi tiến hành sửa đổi, bổ
sung trong thời gian tới nhằm vừa tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho các
CTCK hoạt động hiệu quả, vừa đảm bảo tốt nhất lợi ích hợp pháp chính đáng của
các NĐT khi tham gia thị trường. Tác giả hy vọng rằng, với sự đầu tư thích đáng,
kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề pháp lý điều chỉnh các nội dung hoạt
động kinh doanhh của CTCK trong mối tương quan với việc bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của NĐT. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ chỉ ra những vấn đề pháp lý
chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện, đồng thời, đánh giá thực trạng và những vướng mắc
phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ đề xuất các giải
pháp hoàn thiện khung pháp lý về CTCK nói riêng, TTCK nói chung, góp phần
củng cố, cải thiện tính minh bạch, ổn định của thị trường và lợi ích của các bên khi
tham
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trên thực tế, CTCK và NĐT có thể tham gia vào các loại TTCK, kể cả TTCK
chính thức và TTCK phi chính chính thức, TTCK tập trung và TTCK phi tập trung.
Theo đó, mối quan hệ giữa NĐT và CTCK cũng rất đa dạng. Tuy nhiên, trong phạm
vi của luận văn, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu các khía cạnh pháp lý liên quan đến
hoạt động kinh doanh của CTCK trên TTCK tập trung trong mối quan hệ với vấn đề

bảo vệ quyền lợi của NĐT.
gia TTCK.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm tìm hiểu và khái quát
những nội dung pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động của CTCK và những quy định
pháp lý ghi nhận, bảo vệ quyền lợi của NĐT; thống kê, khảo sát thực tiễn hoạt động

7
kinh doanh của một số CTCK và thực tiễn tham gia giao dịch của NĐT trên thị
trường. Luận văn cũng sử dụng phương pháp so sánh quy phạm pháp luật nước
ngoài có cùng đối tượng và lĩnh vực điều chỉnh để vận dụng những điểm tích cực
phù hợp với thực tế của TTCK Việt Nam.
6. Dự kiến kế hoạch thực hiện
Bước 1: Nghiên cứu các vấn đề pháp lý chung về bảo vệ quyền lợi của NĐT và
hoạt động kinh doanh của CTCK;
Bước 2: Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt
động kinh doanh của C TCK trong mối tương quan với vấn đề bảo vệ quyền lợi của
NĐT;
Bước 3: Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định hiện hành của pháp luật
Việt Nam để hài hòa lợi ích của CTCK và NĐT.
7. Kết cấu của đề tài
Chương 1. Những vấn đề lý luận pháp luật về NĐT và hoạt động kinh doanh
của CTCK trên TTCK
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh
của CTCK trong mối quan hệ với việc bảo vệ quyền lợi của NĐT
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động kinh doanh của
CTCK để bảo vệ lợi ích của NĐT














8
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ NHÀ ĐẦU TƢ VÀ HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. Những vấn đề lý luận pháp luật về nhà đầu tƣ trên thị trƣờng chứng
khoán
TTCK là một trong những kênh huy động vốn quan trọng và hiệu của nền kinh
tế. Đây là thị trường tạo ra nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng, góp phần hình
thành nên cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Chính nguồn vốn này đã làm giảm bớt sự
lệ thuộc của các doanh nghiệp vào hệ thống tín dụng ngân hàng, qua đó làm gia
tăng tính chủ động, tích cực của các công cụ, đòn bẩy tài chính của các doanh
nghiệp. Để TTCK vận hành ổn định và hiệu quả cần đến sự tham gia và đóng góp
tích cực của tất cả các chủ thể trên thị trường gồm người mua, người bán, người
trung gian và cơ quan quản lý. Trong đó, người mua và người bán chính là những
NĐT - chủ thể giữ vai trò quyết định đến sự tồn tại, phát triển của thị trường. Họ là
những cá nhân hay tổ chức có tiền nhàn rỗi hoặc có nhu cầu sử dụng hiệu quả đồng
vốn của mình bằng cách mua, bán CK trên thị trường để hưởng lợi nhuận. Mục tiêu
cao nhất mà các NĐT hướng đến là lợi nhuận. Có rất nhiều quan điểm cho rằng đầu
tư CK đơn thuần chỉ là việc sử dụng đồng tiền nhàn rỗi. Tuy nhiên, dưới góc độ
kinh tế học, chúng tôi cho rằng, đầu tư CK không chỉ đơn thuần là việc sử dụng

nguồn tiền nhàn rỗi, sẵn có mà nhiều khi đó còn là nguồn tiền hình thành từ các
nguồn vốn vay. Đó có thể là nguồn vốn ngắn hạn hoặc dài hạn tùy thuộc vào khả
năng, uy tín cũng như chiến lược đầu tư của mỗi NĐT. Bản chất của đầu tư tài
chính theo nghĩa rộng là việc dịch chuyển của các luồng vốn từ nơi không hiệu quả
hoặc hiệu quả thấp đến những nơi có hiệu quả sử dụng cao hơn. Do vậy, nếu có căn
cứ cho rằng việc mua, bán chứng khoán sẽ đem lại lợi nhuận thì NĐT sẽ không loại
trừ giải pháp vay vốn để đầu tư chứng khoán.
Như vậy, giống như hoạt động đầu tư nói chung, đầu tư CK là hoạt động luôn
luôn hướng đến mục tiêu là lợi nhuận và tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, đầu tư CK
có những điểm đặc thù so với các hoạt động đầu tư thông thường và bản thân người
thực hiện hoạt động đầu tư CK cũng có những nét đặc trưng riêng so với các NĐT
nói chung. Đầu tư được hiểu là việc “NĐT bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình

9
hoặc vô hình để thực hiện các hoạt động đầu tư” [27, Đ3]. Nếu xét trên tiêu chí
quản lý hoạt động đầu tư, có thể phân chia hoạt động đầu tư thành hai loại: đầu tư
trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là hoạt động của NĐT đầu tư vốn ban
đầu hình thành nên tài sản, sau đó trực tiếp tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, tức là trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Trong khi đó, đầu tư gián
tiếp là hình thức đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ
và các loại giấy tờ có giá khác và do vậy, NĐT không trực tiếp tham gia quản lý
hoạt động đầu tư. Đầu tư CK khác với các hoạt động đầu tư thông thường ở chỗ, nó
có bản chất là hoạt động đầu tư gián tiếp. NĐT CK là những người thực hiện hoạt
động đầu tư CK, mặc dù không trực tiếp tham gia vào các công đoạn, quá trình sản
xuất, kinh doanh nhưng trên TTCK họ là chủ thể có vai trò vô cùng quan trọng
trong việc duy trì ổn định và thúc đẩy thị trường phát triển. Mặt khác, nhờ có hoạt
động đầu tư CK của các NĐT mà nguồn vốn trung và dài hạn trong xã hội được huy
động, phân phối và sử dụng hiệu quả, qua đó, hoạt động đầu tư của các NĐT CK đã
tác động tích cực trở lại các doanh nghiệp- nơi diễn ra hoạt động đầu tư trực tiếp.
1.1.1. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tƣ trên thị

trƣờng chứng khoán
1.1.1.1. Vai trò của nhà đầu tƣ trên thị trƣờng chứng khoán
Mặc dù có rất nhiều chủ thể tham gia trên TTCK nhưng NĐT CK là lực
lượng giữ vai trò trung tâm, tạo nên và quyết định sự phát triển bền vững của thị
trường. Với lực lượng đông đảo, NĐT là bên tạo nên “cầu” hàng hóa của thị trường
bên cạnh lực lượng “cung” là các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết. Bằng việc
mua, bán các loại CK, NĐT đã tạo ra tính thanh khoản cho thị trường, qua đó, tạo
nên “tính hấp dẫn” cho các loại CK. Đây là yếu tố vô cùng quan trọng, là thông số
phản ánh lòng tin của NĐT đối với thị trường. Thông qua hoạt động đầu tư CK,
Nhà nước có thể điều tiết, định hướng việc sử dụng các nguồn vốn trong xã hội,
giảm bớt lượng tiền dư đọng trong dân, điều hòa quan hệ cung – cầu hàng hóa,
khống chế lạm phát. Cũng qua hoạt động đầu tư của các NĐT CK Nhà nước có điều
kiện để tổ chức triển khai thực hiện triệt để các mục tiêu cải cách kinh tế trong đó
nổi bật là việc phân tách giữa vai trò quản lý của Nhà nước và tính chủ động, hiệu
quả của các doanh nghiệp. Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước sẽ đạt

10
được mục tiêu và kỳ vọng của Nhà nước khi được các NĐT trong và ngoài nước,
các tổ chức và cá nhân quan tâm đầu tư, qua đó, góp phần xây dựng cơ chế quản trị
doanh nghiệp ngày càng hiện đại, hoàn thiện, lành mạnh và hiệu quả cao hơn.
Đối với các tổ chức phát hành, nếu CK của doanh nghiệp được giao dịch
nhiều chứng tỏ CK của họ được công chúng đầu tư quan tâm và đánh giá tốt. Mặt
khác, vì được nhiều NĐT quan tâm tìm hiểu, phân tích, đầu tư nên hình ảnh của tổ
chức phát hành có CK niêm yết được công chúng biết đến nhiều hơn, uy tín, thương
hiệu của doanh nghiệp được nâng lên. Thực tế cho thấy, kết quả của các đợt phát
hành của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào tính thanh khoản của CK, vào niềm
tin của các NĐT đối với tổ chức phát hành. Với việc sử dụng CK làm công cụ để
huy động vốn, đã giúp doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào thị trường vốn, chủ
động trong việc tìm kiếm và huy động vốn cho sản xuất, kinh doanh, giảm bớt sự
phụ thuộc của doanh nghiệp vào hệ thống ngân hàng. Đồng thời, doanh nghiệp cũng

luôn có ý thức hoạt động và quản trị công ty theo hướng minh bạch, khoa học và
hiệu quả hơn, đáp lại sự kỳ vọng của các NĐT.
Đối với các thiết chế trung gian trên thị trường như CTCK, CTQLQ thì vai
trò của các NĐT là không thể phủ nhận. Với quy mô hoạt động như hiện nay, các
CTCK chủ yếu trông chờ vào hai hoạt động chính của mình là hoạt động môi giới
đầu tư CK và hoạt động tự doanh chứng khoán. Hoạt động môi giới đem lại nguồn
thu phí môi giới cho các CTCK, doanh thu phí môi giới phụ thuộc vào số lượng
NĐT mở tài khoản giao dịch, khối lượng và giá trị giao dịch của họ. Trong khi, tự
doanh chứng khoán là hoạt động mà CTCK thực hiện việc mua bán CK với vai trò
như một NĐT thì họ cũng cần phải có những NĐT khác cùng quan tâm mua bán,
duy trì tính thanh khoản cho thị trường. Đối với CTQLQ, họ cần đến vai trò của các
NĐT bởi vì các NĐT là những người góp vốn hình thành nên quỹ hoặc đầu tư tiền
để mua chứng chỉ quỹ.
1.1.1.2. Những rủi ro của nhà đầu tƣ khi tham gia thị trƣờng chứng
khoán
Đầu tư CK là hoạt động tiềm ẩn khả năng rủi ro rất cao. Rủi ro đầu tiên có
nguyên nhân từ đặc tính của hàng hóa là CK. Đối với hàng hóa thông thường, chất
lượng, giá trị của hàng hóa được ước lượng, kiểm tra bằng các giác quan và thông

11
qua việc thẩm định đánh giá giá trị sử dụng của hàng hóa. Tuy nhiên, CK là loại
hàng hóa đặc biệt, giá trị của CK không kết tinh trong bản thân CK với tính cách là
một sản phẩm hữu hình mà được nhìn nhận và đánh giá thông qua giá trị, tiềm năng
của tổ chức đã phát hành ra chúng. Giá trị của một doanh nghiệp được thể hiện trên
nhiều tiêu chí, trong đó, không thể không kể đến các tiêu chí như kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; định hướng, chiến lược hoạt động; tiềm
năng, thế mạnh của doanh nghiệp; đội ngũ quản trị điều hành của doanh nghiệp
đó… Tất cả những yếu tố này sẽ tác động trực tiếp đến quá trình phân tích, cân nhắc
của NĐT trước khi đưa ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên, không phải yếu tố nào cũng
dễ dàng đánh giá, thẩm định và thông tin cung cấp cho các NĐT không phải bao giờ

cũng phản ánh đúng thực tế hoạt động của các doanh nghiệp. Do vậy, rủi ro đối với
các NĐT CK là rất lớn. Rủi ro đó sẽ càng cao hơn đối với các NĐT đầu tư theo
“chiến lược đầu cơ”, thiếu sự cẩn trọng và hiểu biết cần thiết. Các NĐT này thường
nhằm đến những lợi ích trước mắt, họ thường chớp thời cơ để mua, bán CK một
cách nhanh chóng. Hoạt động đầu tư của họ thường có tính chất may rủi vì họ
không chú ý đến việc phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của tổ chức phát
hành mà chỉ chú ý đến tính thanh khoản của CK và tình hình giao dịch trên thị
trường vào một thời điểm hoặc giai đoạn ngắn, từ đó đưa ra những nhận định, dự
đoán về việc tăng, giảm giá CK để rồi đi đến quyết định mua bán CK để hưởng
chênh lệch giá. Thời gian nắm giữ CK của các NĐT áp dụng “chiến lược đầu cơ”
thường ngắn và “chiến lược” này thường được các cá nhân đơn lẻ, thiếu chuyên
nghiệp sử dụng. Ngoài ra, các NĐT CK còn phải đối mặt với hàng loạt rủi ro khác,
trong đó có những rủi ro cơ bản sau:
Rủi ro thị trường: Đây là loại rủi ro phổ biến và có phạm vi tác động lên tất
cả các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư CK. Rủi ro thị trường là rủi ro mà giá cả của
các loại CK trên thị trường biến động theo một chiều trong một khoảng thời gian
nhất định không phản ánh đúng giá trị thực của mỗi CK. Đó có thể là xu hướng CK
tăng giá quá mức, giá CK tăng một cách nhanh chóng và liên tục trong một thời
gian dài, vượt xa giá trị thực của nó đẩy chỉ số P/E (Price per Earning- Chỉ số giá
trên thu nhập) của mỗi chứng khoán và toàn thị trường lên cao. Trong xu hướng
này, thị trường thường có mức thanh khoản rất thấp khi các NĐT đang nắm giữ CK

12
không muốn bán ra vì chờ đợi giá CK cao hơn, NĐT muốn mua cũng không mua
được hoặc không dám mua vì giá CK quá cao. Hiện tượng này phản ánh không
đúng quan hệ cung cầu gây ra tình trạng “bong bóng” CK. Ngược lại của xu thế này
là xu thế giảm giá CK khi các NĐT ồ ạt bán tháo CK làm cho giá CK sụt giảm
nhanh chóng. Giá cả của các loại CK bất kể CK của công ty có kết quả kinh doanh
tốt hay xấu đồng loạt xuống giá. Nguyên nhân của hai hiện tượng trên thường xuất
phát từ các hành vi đầu cơ, mua bán nội gián hoặc do tác động của yếu tố tâm lý.

TTCK là thị trường của niềm tin, diễn biến trên thị trường phụ thuộc rất nhiều vào
tâm lý của các NĐT. Trạng thái kỳ vọng và hưng phấn quá mức sẽ gây ra tình trạng
giá CK tăng “nóng” trên thị trường Bull Market, ngược lại, trạng thái sợ hãi và bi
quan sẽ dẫn đến tình trạng đóng băng trên thị trường Bear Market. Với TTCK mới
nổi như TTCK Việt Nam, mức độ minh bạch và khả năng kháng cự của toàn thị
trường còn hạn chế thì rủi ro thị trường hiện đang là loại rủi ro thường trực mà mỗi
NĐT khi tham gia thị trường cần phải tính đến.
Rủi ro thông tin: Như đã phân tích ở các phần trên, giá trị của mỗi CK phụ
thuộc vào các thông tin liên quan đến CK được công bố. Giá cả trên thị trường
thường phản ứng tích cực hay tiêu cực phụ thuộc vào các thông tin được công bố là
tốt hay xấu. Thông tin đến với NĐT chính xác bao nhiêu quyết định đầu tư của họ
càng có khả năng thành công và hạn chế được rủi ro bấy nhiêu. Tuy nhiên, không
phải NĐT nào cũng có điều kiện để tiếp cận sớm, đầy đủ và chính xác các thông tin
của tổ chức phát hành. Thông tin được công bố không phải lúc nào cũng chính xác.
Hơn nữa, có thể thông tin được công bố chính xác nhưng đã có “độ trễ” nhất định
về mặt thời gian thì thông tin đó cũng không còn giá trị. Có thực tế không thể phủ
nhận là vẫn đang tồn tại sự không cân xứng về thông tin giữa các chủ thể tham gia
thị trường. Những người có điều kiện tiếp cận được với thông tin nội bộ của tổ chức
phát hành (như thành viên Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, Ban kiểm soát, Bộ
phận kế toán, kiểm toán…) thường có đầy đủ thông tin và thông tin của họ sẽ đáng
tin cậy hơn hẳn những NĐT khác. Thậm chí, những chủ thể này còn “đi trước” một
bước so với các NĐT khác khi họ có được cả những thông tin chưa công bố. Tình
trạng này một mặt tạo ra sự bất bình đẳng cho các NĐT “yếu thế” do không có đầy
đủ thông tin hoặc do “chậm chân” mà có thể đưa ra những quyết định đầu tư chậm

13
hoặc không chính xác. Mặt khác, do sự không cân xứng về thông tin giữa người
mua và người bán CK có thể làm có giá mua, giá bán không phản ánh giá trị thực
của CK. Để hạn chế loại rủi ro này, pháp luật cần có những quy định điều chỉnh mối
quan hệ giữa những người tiếp cận với thông tin nội bộ; người “có quyền lợi liên

quan” với tổ chức phát hành để ngăn ngừa khả năng trục lợi, gây tổn hại đến các
NĐT khác.
Rủi ro về giá: Là loại rủi ro mà tỷ lệ sinh lời từ đầu tư CK thấp hơn tỷ lệ lạm
phát của đồng tiền. Đồng tiền có giá trị theo thời gian. Nghĩa là, lợi nhuận mà các
NĐT thu được phải được chiết khấu cho khoảng thời gian đã đầu tư vào CK đó. CK
có kỳ hạn càng dài thì mức rủi ro sụt giảm giá trị càng lớn. Khi quyết định đầu tư,
NĐT cần phải dự đoán và giả thiết tình hình lạm phát để tìm kiếm mức bù đắp cho
các khoản đầu tư đó.
Rủi ro thanh khoản: Là loại rủi ro xảy ra khi NĐT không thể mua, bán CK
tại một thời điểm nhất định. Tình trạng này diễn ra khi CK bị “làm giá” hoặc bị bán
tháo quá mức. Rủi ro thanh khoản thường đi liền với rủi ro thị trường và rủi ro
thông tin.
Rủi ro mang tính kỹ thuật: Là loại rủi ro xảy ra trong quá trình xử lý của các
CTCK đối với việc tiếp nhận, kiểm tra, nhập lệnh, truyền lệnh (transfer) vào hệ
thống giao dịch và báo cáo kết quả giao dịch của NĐT. Những rủi ro này có nguyên
nhân từ sự thiếu cẩn trọng (nguyên nhân khách quan) của các nhân viên hành nghề
kinh doanh chứng khoán tại các CTCK. Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng
nhân viên của các CTCK hành động thiếu trung thực, trục lợi, gây tổn hại đến
quyền lợi của khách hàng (NĐT).
Rủi ro thanh toán: chu kỳ thanh toán T + n (trong đó, T là ngày thực hiện
giao dịch, n là ngày CK hoặc tiền hạch toán trên tài khoản giao dịch của NĐT). Đối
với những nước có hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ hoạt động đăng ký, lưu
ký, thanh toán, bù trừ còn hạn chế thì số ngày thanh toán n càng kéo dài (chẳng hạn
Việt Nam). Khi đó, rủi ro có thể đến với NĐT khi CK và tiền của NĐT về tài khoản
giao dịch của họ có độ “trễ” nhất định so với biến động của thị trường. NĐT sẽ phải
đối mặt với tình trạng: khi họ muốn bán CK thì giá CK đã xuống quá thấp hoặc
muốn mua CK thì giá CK đã lên quá cao. Rủi ro này cũng có liên hệ chặt chẽ với

14
rủi ro thị trường. Tuy nhiên, nguồn gốc của nó có nguyên nhân trực tiếp từ chính

sách của các cơ quan quản lý Nhà nước về CK và TTCK.
Từ tất cả những nguyên nhân trên, đòi hỏi pháp luật phải có những quy định
nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa NĐT với các chủ thể tham gia thị trường để hạn
chế rủi ro, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT khi tham gia TTCK. Một
mặt, pháp luật cần có những quy định ghi nhận, “bảo đảm” và tạo cơ chế để các
quyền và lợi ích chính đáng của NĐT được thực hiện trên thực tế. Mặt khác, pháp
luật cũng cần có những quy định nhằm “bảo vệ” quyền và lợi ích của NĐT, nghĩa
là, pháp luật cần có những quy định phòng ngừa và/hoặc chống lại mọi sự xâm hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT khi họ tham gia trên TTCK. Việc bảo vệ
quyền và lợi ích của NĐT có thể thực hiện thông qua nhiều biện pháp. Đó có thể là
các biện pháp giáo dục nhằm nâng cao sự hiểu biết và kỹ năng của NĐT khi tham
gia thị trường để NĐT tự hạn chế rủi ro cho chính mình; biện pháp giám sát thường
xuyên hoạt động của các chủ thể trong quan hệ với NĐT; biện pháp xử lý đối với
các hành vi xâm hại quyền lợi của NĐT và các biện pháp tài chính nhằm hỗ trợ,
chia sẻ rủi ro đối với hoạt động đầu tư của NĐT. Để “bảo đảm” và “bảo vệ” quyền
và lợi ích của NĐT, biện pháp quan trọng và chủ yếu nhất đó là phải thiết lập được
một khung pháp lý điều chỉnh chặt chẽ hoạt động của tất cả các chủ thể tham gia
quan hệ đầu tư trên TTCK.
1.1.2. Khung pháp lý điều chỉnh vấn đề quyền và lợi ích của nhà đầu tƣ
trên thị trƣờng chứng khoán
“Bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT” là một trong những nguyên tắc cơ bản
của hoạt động CK và TTCK. Đây vừa là nguyên tắc của hoạt động CK và TTCK
vừa là mục đích của pháp luật CK. Mặc dù cách thể hiện nguyên tắc này trong pháp
luật các nước là không giống nhau nhưng nhìn chung pháp luật của hầu hết các
nước đều ghi nhận và bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT.
Có thể nói, nguyên tắc “bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT” là tư
tưởng chỉ đạo cơ bản, xuyên suốt toàn bộ các chế định của pháp luật về CK và
TTCK. Tất cả các quy định của pháp luật về CK và TTCK phải thể chế hóa và
hướng đến mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK. Ở hầu hết các
nước, các quy định về bảo vệ NĐT trên TTCK thường bao gồm: các quy phạm pháp


15
luật chuyên ngành điều chỉnh các vấn đề liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích
của NĐT thông qua các quy định về điều kiện của các chủ thể tham gia thị trường
(tổ chức phát hành, tổ chức trung gian, tổ chức đầu tư kinh doanh CK); về tiêu
chuẩn của các loại CK niêm yết; về tổ chức, quản lý thị trường; về kiểm tra, thanh
tra, xử lý vi phạm pháp luật…và các quy phạm pháp luật chung thuộc các lĩnh vực
pháp luật: pháp luật về doanh nghiệp (gồm các quy định về quản trị doanh nghiệp,
quyền và nghĩa vụ của cổ đông, quy chế đối với các giao dịch mang tính thâu tóm
công ty…), pháp luật về đầu tư (quy định về bảo hộ đầu tư, quyền và nghĩa vụ của
NĐT ); pháp luật về hợp đồng, sở hữu, tài sản (nội dung quyền sở hữu CK, phương
thức chuyển giao quyền sở hữu CK, quyền thừa kế, tặng cho CK…); pháp luật về
giải quyết tranh chấp (giải quyết thông qua cơ chế trọng tài thương mại, tố tụng tư
pháp…). Các quy định pháp lý trên đã tạo thành khuôn khổ pháp lý về bảo vệ quyền
và lợi ích của NĐT trên TTCK. Luật CK Việt Nam mặc dù không có một mục,
chương nào quy định riêng về việc bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK
ngoài điều khoản quy định nguyên tắc hoạt động CK và TTCK trong đó đề cập đến
nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT. Mặc dù vậy, các quy định
của pháp luật đã thể hiện rõ mục tiêu bảo vệ NĐT.
1.1.2.1. Yêu cầu của pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tƣ
Xuất phát từ những rủi ro và xung đột lợi ích mà NĐT có thể phải gánh chịu
trong quá trình đầu tư, pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK
cần phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
Thứ nhất, pháp luật cần xác lập một cơ chế hữu hiệu bảo đảm tính công khai,
minh bạch của TTCK nói chung nhằm hạn chế rủi ro về mặt thông tin cũng như các
rủi ro thị trường có thể xảy ra đối với NĐT CK
Yêu cầu này xuất phát từ tính đặc thù trong hoạt động đầu tư của NĐT. Hoạt
động đầu tư của NĐT trên TTCK chủ yếu dựa vào những nhận định, đánh giá về sự
phát triển, triển vọng của CK trong tương lai. Điều đó có nghĩa hoạt động của NĐT
phải dựa trên nguyên tắc và cơ sở là lòng tin. Thông tin về doanh nghiệp và thị

trường (thông tin kinh tế vi mô và vĩ mô) là cơ sở quan trọng nhất giúp NĐT dựa
vào đó để đánh giá về chất lượng của CK, nó cũng là cơ sở tạo nên tính ổn định và
phát triển của TTCK. Chính vì vậy, nguyên tắc quan trọng của TTCK là công khai

16
thông tin, quyền lợi của NĐT được bảo đảm khi khi họ được cung cấp thông tin. Để
thực hiện yêu cầu này, pháp luật cần có những quy định bắt buộc đối với các tổ
chức tham gia TTCK về nghĩa vụ công bố thông tin trung thực, kịp thời và đầy đủ
để NĐT có cơ sở ra quyết định đầu tư. Cơ chế công khai, minh bạch về thông tin
cũng góp phần ngăn ngừa và hạn chế các hành vi trục lợi, lạm dụng, trái pháp luật
làm phương hại đến lợi ích của NĐT và cả nền kinh tế.
Nội dung của yêu cầu trên được cụ thể hóa trong các nhóm quy định của
pháp luật về quy chế công bố thông tin trên TTCK như:
Quy định pháp luật về chủ thể có nghĩa vụ công bố thông tin. Tất cả các chủ
thể tham gia thị trường, có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với NĐT gồm các
chủ thể cung cấp “hàng hóa” cho thị trường như công ty đại chúng, tổ chức phát
hành, tổ chức niêm yết; các chủ thể trung gian trên thị trường như: SGDCK, CTCK,
CTQLQ, công ty đầu tư CK đều có nghĩa vụ công bố thông tin.
Quy định pháp luật về nội dung, chuẩn mực thông tin công bố. Để đảm bảo
chất lượng của các thông tin công bố trên TTCK, pháp luật yêu cầu các chủ thể
công bố thông tin phải tuân thủ các quy định về nội dung thông tin phải được công
bố đồng thời thông tin đó phải được thiết lập theo đúng các chuẩn mực thông tin
được quy định. Căn cứ vào vị trí, đặc điểm và mức độ ảnh hưởng của các thông tin
được công bố đến TTCK, pháp luật sẽ có những quy định về nội dung thông tin
phải được công bố đối với từng chủ thể. Chẳng hạn, đối với tổ chức phát hành, các
thông tin phải công bố sẽ là các thông tin liên quan đến tình hình, kế hoạch, kết quả
hoạt động sản xuất, kinh doanh; thông tin về đợt phát hành thêm; thông tin về cổ
tức; thông tin về giao dịch của lãnh đạo doanh nghiệp và những người liên quan. Về
chuẩn mực thông tin công bố, các thông tin được công bố như báo cáo tài chính và
bản cáo bạch phải được công bố theo các chuẩn mực kế toán, kiểm toán. Trong đó,

chuẩn mực kế toán, kiểm toán thường do các hiệp hội, tổ chức hành nghề kế toán,
kiểm toán quy định. Các tổ chức kế toán, kiểm toán của các quốc gia trên thế giới
thường căn cứ vào hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế do Liên đoàn kế
toán quốc tế (IFAC) công bố để ban hành chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc gia.
Chuẩn mực kế toán, kiểm toán tại Việt Nam hiện nay do Bộ tài chính ban hành và
cũng dựa trên những chuẩn mực quốc tế này.

17
Quy định pháp luật về phương tiện và hình thức công bố thông tin. Để đảm
bảo NĐT kịp thời cập nhật được thông tin và đảm bảo chất lượng của thông tin
công bố, pháp luật quy định việc công bố thông tin của các chủ thể có liên quan
phải thực hiện qua nhiều phương thức khác nhau gồm phương thức báo cáo định kỳ
và báo cáo bất thường, đồng thời, hình thức công bố thông tin phải được thực hiện
thông qua hình thức văn bản và dữ liệu điện tử. Các chủ thể có nghĩa vụ công bố
thông tin phải lập trang thông tin điện tử của mình và phải thường xuyên cập nhật
việc công bố thông tin trên trang điện tử đó.
Quy định pháp luật về xử lý hành vi vi phạm chế độ công bố thông tin. Pháp
luật của các nước đều có những quy định xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi
vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin. Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi vi
phạm mà chủ thể vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin có thể bị xử phạt vi phạm
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bồi thường thiệt hại nếu hành
vi vi phạm gây ra thiệt hại cho NĐT. Các hành vi vi phạm công bố thông tin phổ
biến trên TTCK gồm: công bố thông tin nhưng không thực hiện báo cáo cơ quan
quản lý về thông tin đã công bố; người công bố thông tin không có thẩm quyền
công bố; công bố thông tin không đúng phương tiện do pháp luật quy định; công bố
thông tin không đầy đủ, kịp thời; công bố thông tin sai sự thật.
Thứ hai, pháp luật cần quy định những tiêu chuẩn, điều kiện chặt chẽ đối với
các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết nhằm đảm bảo chất lượng của hàng hóa
trên TTCK, hạn chế rủi ro cho các NĐT khi tham gia thị trường
Tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết là những chủ thể cung cấp “hàng hóa”

cho TTCK. Chất lượng của hàng hóa trên TTCK phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng
và tình hình hoạt động cũng như triển vọng phát triển của các tổ chức này. Để NĐT
có cơ hội tiếp cận được với những CK có chất lượng, pháp luật phải có những quy
định chặt chẽ để thẩm định năng lực hoạt động của doanh nghiệp. Mặc dù NĐT là
người có quyền lựa chọn CK trong “rổ hàng hóa” để đầu tư nhưng khâu kiểm soát
hàng hóa trước khi đưa vào giao dịch vẫn hết sức quan trọng. Việc quy định các tiêu
chuẩn, điều kiện chặt chẽ đối với các doanh nghiệp khi phát hành, niêm yết CK trên
TTCK sẽ góp phần thanh lọc, chọn lựa những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và
có triển vọng qua đó giúp NĐT hạn chế rủi ro trong quá trình đầu tư. Đây chính là

18
yêu cầu có ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với tất cả các NĐT khi tham gia thị
trường đặc biệt là các NĐT cá nhân thiếu khả năng và kinh nghiệm phân tích, nhận
định về CK và TTCK.
Để thực hiện điều này, pháp luật các nước trên thế giới thường đưa ra các
điều kiện về năng lực tài chính (vốn điều lệ), về tình hình hoạt động (thời gian hoạt
động kinh doanh có lãi), về phương án kinh doanh và phương án sử dụng số vốn
huy động từ đợt phát hành, về tính đại chúng của CK (số lượng, cơ cấu cổ đông của
tổ chức phát hành), về tính minh bạch trong hoạt động tài chính (báo cáo tài chính
phải được kiểm toán độc lập).
Thứ ba, pháp luật cần có những quy định điều chỉnh chặt chẽ hoạt động của
các tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ trên TTCK như các CTCK, CTQLQ, công ty
kiểm toán và những người hành nghề kinh doanh CK
Mặc dù không phải là chủ thể trực tiếp trong mối quan hệ mua bán với NĐT
nhưng với vai trò là bên cấp dịch vụ cho NĐT, hoạt động của CTCK, CTQLQ, công
ty kiểm toán và người hành nghề kinh doanh CK cũng cần phải được pháp luật quy
định, điều chỉnh chặt chẽ vì chất lượng hoạt động của những chủ thể này ảnh hưởng
trực tiếp đến tính hiệu quả và an toàn trong quá trình đầu tư của NĐT. CTCK,
CTQLQ, người hành nghề kinh doanh CK là những nhà trung gian giúp NĐT thực
hiện hoạt động đầu tư, hoạt động của họ phải đảm bảo cho các quyết định đầu tư

của NĐT được thực hiện nhanh chóng, chính xác, an toàn và hiệu quả. Các công ty
kiểm toán là những người trực tiếp thẩm định, đánh giá thực trạng, khả năng tài
chính của các tổ chức cung ứng hàng hóa cho thị trường. Do vậy, hoạt động của tổ
chức kiểm toán giúp NĐT đánh giá chính xác năng lực của các tổ chức phát hành,
tổ chức niêm yết trước khi ra quyết định đầu tư. Vì vậy, pháp luật cần có những quy
định chặt chẽ về tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục cấp và thu hồi giấy phép hoạt động
đối với các chủ thể trung gian này đồng thời quy định nguyên tắc, chuẩn mực để
đánh giá chất lượng dịch vụ mà các tổ chức chủ thể này cung cấp trên TTCK. Trong
đó có các điều kiện về năng lực tài chính (vốn pháp định); các điều kiện về cơ sở
vật chất, kỹ thuật để được phép triển khai, cung cấp dịch vụ; điều kiện về nhận lực,
người hành nghề…Có như vậy, pháp luật mới hạn chế được các rủi ro kỹ thuật và
những giao dịch bất lợi cho NĐT do CTCK và người hành nghề kinh doanh CK gây

19
ra; gắn kết trách nhiệm của các tổ chức kiểm toán đối chất lượng của các báo cáo
thẩm định Báo cáo tài chính nhằm đảm bảo báo cáo tài chính là tài liệu phản ánh
chính xác, trung thực tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh của tổ chức phát
hành, tổ chức niêm yết. Qua đó, làm tăng tính chính xác trong các quyết định đầu tư
của NĐT;
Thứ tư, pháp luật cần có quy định về tổ chức, quản lý giao dịch trên TTCK
đảm bảo các giao dịch được diễn ra có tổ chức, chặt chẽ, an toàn, hiệu quả, bảo đảm
tính thanh khoản cho các loại CK
Một trong những nguyên tắc cơ bản trên TTCK tập trung là nguyên tắc trung
gian. Theo đó, tất cả các giao dịch CK niêm yết phải được thực hiện thông qua
SGDCK. SGDCK có chức năng tổ chức và giám sát hoạt động giao dịch CK niêm
yết tại SGDCK. Hiện nay, hệ thống giao dịch tại các SGDCK là hệ thống giao dịch
tự động, kết nối mạng cục bộ trong phạm vi sàn giao dịch và các phòng ban chức
năng của SGDCK. Bên cạnh hệ thống giao dịch còn có hệ thống chuyển lệnh của
các CTCK thành viên. Mọi giao dịch diễn ra tại SGDCK được hệ thống máy tính xử
lý tự động dưới sự quản lý, giám sát của Phòng giao dịch và Phòng giám sát.

SGDCK quản lý giám sát toàn bộ hệ thống giao dịch nhằm đảm bảo cho thị trường
hoạt động ổn định, trật tự, công bằng, bảo vệ quyền lợi của NĐT.
Để đảm bảo yêu cầu trên, pháp luật quy định SGDCK phải ban hành các quy
chế về niêm yết CK, giao dịch CK, công bố thông tin và thành viên giao dịch; tổ
chức và điều hành hoạt động giao dịch CK tại Sở giao dịch; tạm ngừng, đình chỉ
hoặc huỷ bỏ giao dịch CK theo Quy chế giao dịch CK của SGDCK trong trường
hợp cần thiết để bảo vệ NĐT; chấp thuận, huỷ bỏ niêm yết CK và giám sát việc duy
trì điều kiện niêm yết CK của các tổ chức niêm yết tại Sở giao dịch; chấp thuận, huỷ
bỏ tư cách thành viên giao dịch; giám sát hoạt động giao dịch CK của các thành
viên giao dịch tại Sở giao dịch; Giám sát hoạt động công bố thông tin của các tổ
chức niêm yết, thành viên giao dịch tại SGDCK; Cung cấp thông tin thị trường và
các thông tin liên quan đến CK niêm yết; Làm trung gian hoà giải theo yêu cầu của
thành viên giao dịch khi phát sinh tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch. Tất
cả những quy định trên nhằm đảm bảo hoạt động giao dịch CK trên thị trường được

20
tiến hành công khai, công bằng, trật tự và hiệu quả đảm bảo tính thanh khoản của
CK qua đó đảm bảo lợi ích của NĐT.
Thứ năm, pháp luật cần có những quy định đảm bảo cơ chế giải quyết các
tranh chấp phát sinh trên TTCK liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của NĐT một cách hữu hiệu.
Các tranh chấp phát sinh trên TTCK thường là các tranh chấp gắn liền với
các lợi ích kinh tế, mặt khác, lỗi của các bên tranh chấp thường khó xác định và
thường liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau nên pháp luật cũng cần tạo lập các cơ
chế giải quyết tranh chấp phù hợp để xử lý kịp thời, triệt để và phù hợp nhằm đảm
bảo tối ưu lợi ích cho các chủ thể tham gia thị trường, trong đó có lợi ích của các
NĐT. Tùy thuộc vào tính chất vụ việc mà các bên có thể lựa chọn các phương thức
giải quyết tranh chấp phù hợp. Chẳng hạn, tranh chấp giữa CTCK và NĐT trong
quá trình CTCK thực hiện lệnh cho khách hàng trước hết cần được giải quyết thông
qua phương thức thương lượng giữa hai bên, SGDCK có thể đứng ra làm trung gian

hòa giải. Trường hợp các bên không thể thương lượng, hòa giải, tranh chấp có thể
được đưa ra giải quyết tại trọng tài kinh tế hoặc tòa án. Tranh chấp giữa CTCK
thành viên với các SGDCK trong quá trình xử lý lệnh của các CTCK nếu có, chủ
yếu tồn tại dưới các hình thức khiếu nại hành chính của CTCK đối với SGDCK, khả
năng tranh chấp được đưa ra giải quyết bằng các phương thức tranh tụng hay trọng
tài thường rất hạn chế vì hai chủ thể này có mối quan hệ mật thiệt, lâu dài và tùy
thuộc lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động.
Thứ sáu, pháp luật cần quy định cơ chế bảo đảm ngăn chặn và xử lý kịp thời,
nghiêm minh đối với những hành vi vi phạm pháp luật, làm phương hại đến quyền
và lợi ích của các NĐT khi tham gia thị trường.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT vừa là nguyên tắc cơ bản vừa là
mục tiêu hoạt động của TTCK. Vai trò của NĐT là không thể phủ nhận đối với
TTCK, do vậy, pháp luật cần có những quy định để vừa ghi nhận, đảm bảo quyền
lợi của NĐT như quyền được tham gia thị trường, quyền được cung cấp thông tin
và các quyền khác liên quan đến quyền sở hữu CK vừa tạo ra cơ chế để ngăn chặn,
xử lý, răn đe đối với những hành vi làm phương hại đến quyền lợi hợp pháp, chính
đáng của NĐT. Các cơ quan quản lý Nhà nước về CK và TTCK cần vận dụng tất cả

21
các biện pháp pháp lý để bảo vệ NĐT, đó có thể là biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính, thậm chí là biện pháp xử lý hình sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội gây
thiệt hại nghiêm trọng, có phạm vi tác động lớn đến NĐT và thị trường.
Trên cơ sở các yêu cầu trên, pháp luật cần quy định rõ nội dung pháp luật cụ
thể để bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK.
1.1.2.2. Nội dung pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tƣ
Thứ nhất, pháp luật ghi nhận các quyền và lợi ích của NĐT
Khi tham gia đầu tư trên TTCK, với vai trò, tư cách là một chủ thể chính
tham gia thị trường, đồng thời, với tư cách là người sở hữu CK, NĐT có các quyền
cơ bản sau đây được pháp luật ghi nhận và bảo vệ:
Quyền tham gia thị trường: Đây là quyền cơ bản của NĐT khi tham gia

TTCK bởi nó có bản chất là quyền tự do kinh doanh đã được Hiến pháp ghi nhận.
NĐT có toàn quyền quyết định có tham gia đầu tư trên TTCK hay không, tham gia
vào thời điểm nào, họ có quyền tự do lựa chọn loại CK sẽ đầu tư, tổng giá trị đầu tư
và CTCK nơi mở tài khoản giao dịch. Khi tham gia thị trường, tất cả các NĐT, bất
kể các NĐT lớn hay NĐT nhỏ, NĐT tổ chức hay NĐT cá nhận, đều có quyền bình
đẳng và được đối xử công bằng. Tuy nhiên, khi tham gia đầu tư trên TTCK, NĐT
phải tuân thủ các quy định của pháp luật liên quan đến tổ chức giao dịch như: làm
thủ tục khi lần đầu tiên gia nhập thị trường (thủ tục mở tài khoản giao dịch, nộp
tiền, lưu ký CK vào tài khoản…); các quy định liên quan đến việc hạn chế tỷ lệ nắm
giữ của NĐT đối với cổ phần của một số ngành nghề kinh doanh (như khi đầu tư
vào CK của các ngân hàng thương mại cổ phần, pháp luật Việt Nam quy định tỷ lệ
nắm giữ cổ phần của một NĐT cá nhân không quá 10% vốn điều lệ của một ngân
hàng; đối với một NĐT là tổ chức chỉ được sở hữu tối đa 20% vốn điều lệ của một
ngân hàng; đối với NĐT nước ngoài, pháp luật quy định tổng số vốn cổ phần mà
NĐT nước ngoài và những người có liên quan của các NĐT nước ngoài đó không
được vượt quá 30% vốn điều lệ của một ngân hàng)… Như vậy, NĐT có quyền tự
do tham gia thị trường và có quyền được đối xử bình đẳng, công bằng với nhau
nhưng quyền của họ chỉ được ghi nhận và bảo vệ trong khuôn khổ các nguyên tắc,
quy định của pháp luật.

22
Quyền được cung cấp thông tin: Quyền được cung cấp thông tin là quyền
chính đáng, gắn liền với quyết định đầu tư của mỗi NĐT. Để đưa ra một quyết định
đầu tư, NĐT thường phải dựa trên tất cả các thông tin, tài liệu thu thập được liên
quan đến loại CK mà họ định đầu tư, gồm các thông tin về kết quả hoạt động kinh
doanh (các khoản lãi, lỗ) của tổ chức niêm yết; so sánh lợi thế ngành giữa công ty
đó với các công ty khác trong cùng nhóm ngành nghề kinh doanh; thông tin về
chiến lược, kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai; thông tin về khối
lượng, giá trị chứng khoán phát phát hành; thông tin về tỷ lệ sở hữu mà các NĐT
nước ngoài đang nắm giữ CK đó. Các thông tin trên thông thường được công bố bởi

các tổ chức, cá nhân như tổ chức phát hành, các CTCK, các tổ chức tài chính và các
cơ quan quản lý thị trường. NĐT căn cứ vào thông tin có được để phân tích, xử lý
và đưa ra quyết định đầu tư theo hướng có lợi nhất cho mình và giảm thiểu rủi ro.
Vì vậy, NĐT có quyền được biết tất cả các thông tin liên quan đến CK mà họ đã,
đang và sẽ đầu tư. Để đảm bảo quyền được cung cấp thông tin của NĐT, đòi hỏi các
chủ thể có nghĩa vụ công bố thông tin khi thực hiện công bố thông tin phải đảm bảo
tính chính xác, nhanh chóng, kịp thời và thuận tiện cho NĐT có thể dễ dàng tiếp
cận. Việc ghi nhận quyền mà các NĐT được cung cấp thông tin cũng góp phần đảm
bảo thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch, công bằng trong hoạt động CK và
TTCK, bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT.
Các quyền lợi phát sinh trực tiếp từ quyền sở hữu CK: giá trị của CK không
nằm trong bản thân CK với tính cách là một thực thể có giá trị mà giá trị của nó
được nhìn nhận ở “giá trị công ty” mà nó ghi nhận (đối với trường hợp CK là cổ
phiếu) hoặc giá trị khoản vay (đối với trường hợp CK là trái phiếu). Tuy nhiên,
NĐT vẫn có đầy đủ các quyền và lợi ích của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt đối với tài sản là CK. Các nội dung này sẽ được thực hiện theo
quy định của Bộ luật dân sự và Luật CK. Ngoài ra, họ còn có các quyền của cổ
đông (nếu họ sở hữu cổ phần), quyền của trái chủ (nếu họ sở hữu trái phiếu) đối với
tổ chức phát hành ra CK đó. Quyền và nghĩa vụ của NĐT với tư cách là cổ đông và
trái chủ sẽ được điều chỉnh bởi các quy định của Luật doanh nghiệp. Một đặc điểm
đặc trưng trong nội dung quyền sở hữu của NĐT đối với CK là quyền định đoạt. Về
nguyên tắc, NĐT là người sở hữu CK nên họ có toàn quyền định đoạt (quyết định

23
việc mua bán CK). Tuy nhiên, khi mua bán các loại CK niêm yết, NĐT cần phải
tuân thủ các quy trình, phương thức giao dịch do pháp luật quy định. Ngoài ra,
quyền tự do định đoạt của họ còn bị hạn chế bởi các quy định liên quan đến giới hạn
tỷ lệ sở hữu CK của NĐT tại một tổ chức niêm yết. Các hạn chế này áp dụng cho
CK của các tổ chức kinh doanh thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện đặc thù
như ngân hàng, bảo hiểm…

Quyền được bảo vệ thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh trong
hoạt động đầu tư CK: Tranh chấp trong hoạt động đầu tư CK là tranh chấp giữa
NĐT với các chủ thể có liên quan khi NĐT tham gia đầu tư trên TTCK, bao gồm:
tranh chấp giữa NĐT với các CTCK về việc mở tài khoản, về việc thực hiện Hợp
đồng giữa hai bên; tranh chấp liên quan đến việc mua, bán CK; tranh chấp giữa
NĐT (với tư cách là các cổ đông) với tổ chức niêm yết, tổ chức phát hành. Khi xảy
ra tranh chấp, pháp luật cần có cơ chế, phương thức giải quyết nhanh chóng, triệt để
và hiệu quả nhằm đảm bảo nguyên tắc pháp chế, tạo ra môi trường đầu tư lành
mạnh. Tùy từng trường hợp mà NĐT có thể lựa chọn các phương thức giải quyết
phù hợp như phương thức giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải;
phương thức giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài thương mại; phương thức giải
quyết tranh chấp thông qua tòa án.
Bên cạnh việc ghi nhận các quyền và lợi ích của NĐT, pháp luật có những
quy định nhằm bảo đảm và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp đó. Đó có thể là
các biện pháp phòng ngừa áp dụng trong trường hợp các quyền của NĐT có nguy
cơ bị xâm hại hoặc có biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những hành vi phương
hại quyền và lợi ích của NĐT.
Thứ hai, pháp luật quy định các biện pháp pháp lý bảo vệ quyền và lợi
ích của nhà đầu tƣ
Khi NĐT tham gia vào hoạt động đầu tư trên TTCK, quyền và lợi ích hợp
pháp của họ có nguy cơ bị xâm hại từ nhiều phía như tổ chức phát hành, tổ chức
kinh doanh CK… Vì vậy, việc bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT là nội dung quan
trọng của pháp luật về CK và TTCK. Khái niệm “bảo vệ quyền và lợi ích của
NĐTCK” có thể hiểu là việc phòng ngừa, chống lại mọi sự xâm hại đến quyền và
lợi ích hợp pháp của NĐT khi họ tham gia đầu tư trên TTCK. Mục tiêu của việc bảo

×