Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Phát triển hoạt động kinh doanh tại Công ty Chứng khoán An Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.34 KB, 84 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu đưa Việt Nam trở thành
một nước công nghiệp phát triển đòi hỏi trong nước phải có một nguồn vốn
lớn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế. Vì vậy, Việt Nam cần
phải có chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực tài chính trong và ngoài
nước để chuyển các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế thành nguồn vốn
đầu tư và thị trường chứng khoán tất yếu sẽ ra đời vì nó giữ vai trò quan trọng
đối với việc huy động vốn trung và dài hạn cho hoạt động kinh tế.
Nhận thức rõ việc xây dựng thị trường chứng khoán là một nhiệm vụ
chiến lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tiến trình xây dựng và phát
triển đất nước, trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các
điều kiện kinh tế – chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình thị
trường chứng khoán trên thế giới, thị trường chứng khoán Việt Nam đã ra đời.
Công ty chứng khoán được coi là một chủ thể tham gia vào thị trường, có
vai trò quan trọng trong việc tạo lập và ổn định thị trường. Với các hoạt động
kinh doanh chủ yếu của công ty là hoạt động môi giới, hoạt động tự doanh, hoạt
động bảo lãnh phát hành, hoạt động tư vấn tài chính và tư vấn đầu tư chứng
khoán và các hoạt động phụ trợ khác. Với sự bùng nổ của thị trường cuối năm
2006 và đầu năm 2007, TTCK được coi là nơi có nhiều cơ hội kiếm tiền cho các
nhà đầu tư và cho các công ty chứng khoán. Điều này dẫn đến một loạt công ty
chứng khoán được ra đời làm cho sự cạnh tranh giữa các công ty ngày một gay
gắt hơn và dẫn đến một xu thế tất yếu đã xảy ra ở thị trường chứng khoán của
nhiều nước đó là những công ty chứng khoán hoạt động kém hiệu quả sẽ bị loại
bỏ và nhường chỗ cho các công ty có tầm nhìn chiến lược và hoạt động một cách
hiệu quả. Vì vậy, các công ty chứng khoán phải không ngừng nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh mới có thể tồn tại và phát triển được trên thị trường có sự
1
cạnh tranh lớn. Đó cũng chính là lý do tôi chọn đề tài: “Phát triển hoạt động kinh
doanh tại công ty chứng khoán An Bình”.


2. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
- Hệ thống những vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh của công ty
chứng khoán làm cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.
- Đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty chứng khóan An
Bình, chỉ rõ những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất những giải pháp và kiến nghị để phát triển hoạt động kinh
doanh của công ty chứng khoán An Bình
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: là các hoạt động kinh doanh của công ty chứng
khoán An Bình bao gồm: hoạt động môi giới, hoạt động tự doanh, hoạt động
bảo lãnh phát hành, hoạt động tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng các hoạt động kinh doanh của công ty
chứng khoán An Bình. Thông qua những kết quả đạt được và hạn chế để đưa
gia những giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển hoạt động kinh doanh của
công ty chứng khóan An Bình trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp với phương pháp điều tra thống kê,
tổng hợp số liệu và phân tích số liệu để đưa ra được những đánh giá chuẩn xác.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Phát triển hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán
Chương 2: Thực trạng phát triển hoạt động kinh doanh của công ty
chứng khoán An Bình
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh của công ty
chứng khoán An Bình
2
CHƯƠNG 1
PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm
Khi một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng
khoán, không phải tự họ đi bán số chứng khoán mà họ định phát hành. Họ
không thể làm tốt việc đó đó bởi họ không có bộ máy chuyên môn. Cần
những nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán cho họ. Đó là các công ty
chứng khoán, với nghiệp chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, và bộ máy
tổ chức thích hợp, thực hiện được vai trò trung gian môi giới mua – bán, phát
hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả
người đầu tư và người phát hành.
Các công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ có
các công ty chứng khoán mà các cổ phiếu và trái phiếu lưu thông buôn bán
tấp nập trên thị trường chứng khoán, qua đó, một lượng vốn khổng lồ được
đưa vào đầu tư từ việc tập hợp những nguồn vốn lẻ tẻ trong công chúng.
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các
nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán.
1.1.2. Vai trò của công ty chứng khoán
1.1.2.1.Vai trò huy động vốn
Các công ty chứng khoán với vai trò là trung gian tài chính với vai trò
huy động vốn, làm chiếc cầu nối và đồng thời là kênh dẫn cho vốn chảy từ
một hay một số bộ phận nào đó của nền kinh tế có dư thừa vốn (vốn nhàn rỗi)
đến các bộ phận khác của nền kinh tế đang thiếu vốn (cần huy động vốn). Các
công ty chứng khoán thường đảm nhiệm vai trò này qua các hoạt dodọng bảo
lãnh phát hành và môi giới chứng khoán.
3
1.1.2.2 Vai trò cung cấp một cơ chế giá cả
Công ty chứng khoán thông qua các sở giao dịch chứng khoán và thị
trường OTC, có chức năng cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư

có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị khỏan đầu tư của
mình. Công ty chứng khoán còn có một chức năng quan trọng là can thiệp
trên thị trường, góp phần điều tiết giá chứng khoán. Theo quy định của các
nước, công ty chứng khoán bắt buộc phải dành ra một tỷ lệ nhất định giao
dịch của mình để mua chứng khoán và khi giá chứng khoán trên thị trường
đang giảm và bán ra khi giá chứng khoán cao.
1.1.2.3. Vai trò cung cấp một cơ chế chuyển ra tiền mặt
Các công ty chứng khoán đảm nhận chức năng chuyển tiền mặt thành
những chứng khoán có giá và ngược lại, giúp cho nhà đầu tư phải chịu ít thiệt
hại nhất khi tiến hành đầu tư. Chẳng hạn, trong hầu hết các nghiệp vụ đầu tư ở
sở giao dịch chứng khóan và thị trường OTC ngày nay, một nhà đầu tư có thể
hàng ngày chuyển đổi tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại mà không
phải chịu thiệt hại đáng kể đối với giá trị khoản đầu tư của mình (ít nhất thì
cũng không chịu thiệt hại do cơ chế giao dịch chứng khoán gây nên). Nói
cách khác, có thể có một số nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến giá trị đầu tư,
chẳng hạn như tin đồn về một vấn đề nào đó trong nền kinh tế, nhưng giá trị
khỏan đầu tư nói chung không giảm đi do cơ chế mua bán.
1.1.2.4. Thực hiện tư vấn đầu tư
Các công ty chứng khoán với đầy đủ các dịch vụ không chỉ thực hiện
mệnh lệnh của khách hàng, mà còn tham gia vào nhiều thị trường rồi cung
cấp các thông tin đó cho các công ty và các cá nhân đầu tư.
1.1.2.5. Tạo ra các sản phẩm mới
Trong mấy năm gần đây, chủng loại chứng khoán đã phát triển với tốc độ
rất nhanh do một số nguyên nhân, trong đó có yêu tố dung lượng thị trường và
biến động thị trường ngày càng lớn, nhận thức rõ rang hơn của khách hàng đối
với thị trường tài chính và sự nỗ lực trong tiếp thị của các công ty chứng khoán.
4
Ngoài cổ phiếu (thường và ưu đãi) và trái phiếu đã được biết đến, các
công ty chứng khoán hiện nay còn bán trái phiếu chính phủ (trung ương và
địa phương), chứng quyền, trái quyền, các hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa

chọn và các sản phẩm lai tạo đa dạng phù hớp với thay đổi trên thị trường và
môi trường kinh tế.
1.1.3. Mô hình công ty chứng khoán
1.1.3.1. Mô hình đa năng kinh doanh chứng khoán và tiền tệ
Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là
chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tienè tệ. Mô hình
này chia thành hai loại:
- Loại đa năng một phần: Các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán,
kinh doanh bảo hiểm phải lập công ty độc lập hoạt động tách rời.
- Loại đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng được kinh doanh chứng khoán,
kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ.
Ưu điểm của mô hình này là ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực
kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung và có
khả năng chịu đựng các biến động của thị trường chứng khoán. Mặt khác,
ngân hàng sẽ tận dụng được thế mạnh chuyên môn và vốn để kinh doanh
chứng khoán.
Hạn chế của mô hình này là không phát triển được thị trường cổ phiếu vì
các ngân hàng có xu hướng bảo thủ và thích hoạt động cho vay hơn là bảo
lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Đồng thời, các ngân hàng cũng rất dễ gây
lũng loạn thị trường, và các biến động trên thị trường chứng khoán, nếu có, sẽ
ảnh hưởng mạnh tới hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng do không
tách biệt giữa hai loại hình kinh doanh này.
1.1.3.2. Mô hình chuyên doanh chứng khoán
Theo mô hình này, hoạt động chuyên doanh chứng khoán sẽ do các công
ty độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân
hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán.
5
Ưu điểm của mô hình này là hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân hàng
và tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển.
1.1.4. Tổ chức của công ty chứng khoán

1.1.4.1. Công ty hợp danh
Là loại hình kinh doanh từ hai chủ sở hữu trở lên. Thành viên tham gia
vào quá trình ra quyết định quản lý được gọi là thành viên hợp danh. Các
thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn, tức là phải chịu trách
nhiệm với những khoản nợ mà công ty hợp danh bằng toàn bộ tài sản của
mình. Ngược lại, các thành viên không tham gia điều hành công ty được gọi
là thành viên góp vốn, họ chỉ chịu trách nhiệm với những khoản nợ của công
ty giới hạn trong số vốn góp của họ.
Thông thường khả năng huy động vốn của công ty hợp danh bị giới hạn
trong số vốn mà các hội viên có thể đóng góp.
1.1.4.2. Công ty trách nhiệm hữu hạn
Đây là loại công ty đòi hỏi trách nhiệm của những thành viên giới hạn
trong số vốn mà họ đã góp. Vì thế điều này gây tâm lý nhẹ nhàng hơn đối với
người đầu tư.
Mặt khác, về phương diện huy động vốn, cũng đơn giản và linh hoạt hơn
so với công ty hợp danh. Đồng thời, vấn đề tuyển đội ngũ quản lý cũng năng
động hơn, không bị bó hẹp trong một số đối tác như công ty hợp danh.
Vì những lý do đó, rất nhiều công ty chứng khoán hiện nay hoạt động
dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.
1.1.4.3. Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập, với các chủ sở hữu là các cổ
đông. Đại hội cổ đông có quyền bầu hội đồng quản trị. Hội đồng này sẽ định
ra các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vụ quản lý
khác để điều hành công ty theo sách lược kinh doanh đã đề ra. Giấy chứng
nhận cổ phiếu không thể hiện món nợ của công ty, mà thể hiện quyền lợi của
6
người sở hữu nó đối với tài sản của công ty. Công ty vẫn tồn tại khi quyền sở
hữu của công ty bị thay đổi.
Các ưu điểm của công ty cổ phần:
Đây là một loại hình công ty tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc

thay đổi cổ đông hoặc cổ đông nghỉ hưu hay qua đời.
Rủi ro mà chủ sở hữu của công ty phải chịu được hạn chế ở mức nhất
định. Nếu công ty thua lỗ và phá sản, cổ đông chỉ bị thiệt hại ở mức vốn đã
đầu tư vào công ty.
Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng thông qua việc mua bán cổ phiếu.
Ngoài ra, đối với công ty chứng khoán, nếu tổ chức theo loại hình công
ty cổ phần và được niêm yết tại sở giao dịch thì coi như họ đã được quảng cáo
miễn phí.
Hình thức tổ chức quản lý, chế độ báo cáo và công bố thông tin tốt hơn
hai hình thức trên.
Do các ưu điểm trên, ngày nay các công ty chứng khóan chủ yếu tồn tại
dưới hình thức các công ty cổ phần, thậm chí nhiều nước (như Hàn Quốc
chẳng hạn) còn quy định công ty chứng khoán bắt buộc là công ty cổ phần.
1.1.5. Đặc trưng của công ty chứng khoán
1.1.5.1. Chuyên môn hóa và phân cấp quản lý
Các công ty chứng khoán chuyên môn hóa ở mức độ cao trong từng bộ
phận, từng phòng ban, từng đơn vị kinh doanh nhỏ.
Do chuyên môn hóa cao độ dẫn đến phân cấp quản lý và làm nảy sinh
việc có quyền tự quyết.
Một số bộ phận trong tổ chức công ty nhiều khi không phụ thuộc lẫn nhau
(ví dụ bộ phận môi giới và bộ phận tự doanh, hay bộ phận bảo lãnh phát hành…).
1.1.5.2. Nhân tố con người
Nói chung, trong công ty chứng khoán, quan hệ với khách hàng có tầm
quan trọng số một. Sản phẩm càng trừu tường thì nhân tố con người càng
quan trọng.
7
Khác với các công ty sản xuất, trong công ty chứng khóan, việc thăng
tiến cất nhắc lên những địa vị cao hơn là không quan trọng.
Các chức vụ quản lý hay giám đốc trong công ty còn có thể nhận được ít
thù lao hơn so với một số nhân viên cấp dưới.

1.1.5.3. Ảnh hưởng của thị trường tài chính
Thị trường tài chính nói chung, thị trường chứng khoán nói riêng có ảnh
hưởng lớn tới chuyên môn, sản phẩm, dịch vụ và khả năng thu lợi nhuận của
công ty chứng khoán. Thị trường chứng khoán càng phát triển thì càng có khả
năng tạo thêm các công cụ tài chính và đa dạng hóa dịch vụ, qua đó có thêm
các cơ hội thu lợi nhuận. Với những mức độ phát triển khác nhau của thị
trường, cơ cấu tổ chức của các công ty chứng khoán cũng khác nhau để đáp
ứng những nhu cầu riêng. Công ty chứng khoán ở một số nước như Mỹ, Nhật
Bản có cơ cấu tổ chức rất phức tạp, trong khi cơ cấu tổ chức công ty chứng
khoán ở một số nước mới có thị trường chứng khoán như Đông Âu và Trung
Quốc đơn giản hơn nhiều.
1.1.5.4. Cơ cấu tổ chức công ty chứng khoán
Cơ cấu tổ chức công ty chứng khoán phụ thuộc vào loại hình nghiệp vụ
chứng khoán mà công ty thực hiện hiện chũng như quy mô hoạt động kinh
doanh chứng khoán của nó. Tuy nhiên, chúng đều có đặc điểm chung là hệ
thống các phòng ban chức năng được chia ra làm hai khối tương ứng với hai
khối công việc mà công ty chứng khoán được đảm nhận.
Khối I (front office): thực hiện các giao dịch mua bán kinh doanh chứng
khoán, nói chung là có liên hệ với khách hàng. Khối này đem lại thu nhập cho
công ty bằng cách đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tạo ra các sản phẩm
phù hợp với nhu cầu đó. Trong khối này, ứng với một nghiệp vụ chứng khoán
cụ thể, công ty có thể tổ chức một phòng để thực hiện. Vì vậy công ty thực
hiện bao nhiêu nghiệp vụ sẽ có thể có từng ấy phòng và nếu công ty chứng
khoán chỉ thực hiện một nghiệp vụ, có thể sẽ chỉ có một phòng thuộc khối
8
này. Tuy vậy, tùy quy mô từng nghiệp vụ và mức độ chú trọng vào các nghiệp
vụ khác nhau mà công ty có lợi thế, công ty chứng khoán có thể kết hợp một
số nghiệp vụ vào một phòng (ví dụ phòng nghiên cứu phân tích với phòng tư
vấn hay bảo lãnh phát hành); hoặc có thể chia nhỏ các phòng thành nhiều tổ
do khâu đoạn phức tạp (như phòng giao dịch có thể tách thành tổ marketing

và tổ thực hiện lệnh).
Khối II (back office): Thực hiện các công việc yểm trợ cho khối I. Nói
chung, bất kỳ một nghiệp vụ nào ở khối I đều cần sự trợ giúp của các phòng
ban thuộc khối II.
1.2. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.2.1.Khái niệm
Theo luật doanh nghiệp “Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc
tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.”
Vậy hoạt động kinh doanh là hoạt động nhằm thực hiện một số hoặc tất
cả các công đoạn của quá trình đầu tư nhằm mục đích sinh lợi.
1.2.2. Các hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán
1.2.2.1. Hoạt động môi giới chứng khoán
* Khái niệm
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán
chứng khoán cho khách hàng để nhận hoa hồng.
Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong
đó một công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch
thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC
mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc
giao dịch đó.
Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến
khách hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư
9
bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán. Và trong những trường
hợp nhất định, hoạt động môi giới sẽ trở thành người bạn, người chia sẻ
những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời đồng viên kịp thời cho nhà đầu
tư, giúp nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo.
* Chức năng của hoạt động môi giới chứng khoán
- Cung cấp dịch vụ với hai tư cách:

+ Nối liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư: cung cấp cho
khách hang các báo cáo nghiên cứu và các khuyến nghị đầu tư.
+ Nối liền những người bán và những người mua: đem đến cho khách
hàng tất cả các loại sản phẩm và dịch vụ tài chính.
- Đáp ứng những nhu cầu tâm lý của khách hang khi cần thiết: trở thành
người bạn, người chia sẻ những lo âu căng thẳng và đưa ra những lời động
viên kịp thời.
- Khắc phục trạng thái xúc cảm quá mức (điển hình là sợ hãi và tham
lam), để giúp khách hang có những quyết định tỉnh táo.
- Đề xuất thời điểm bán hàng.
* Những nét đặc trưng của nghề môi giới chứng khoán
- Lao động cật lực, thù lao xứng đáng
- Những phẩm chất cần có: kiên nhẫn, giỏi phân tích tâm lý và ứng xử
- Nỗ lực cá nhân là quyết định, đồng thời không thể thiếu sự hỗ trợ của
công ty trong việc cung cấp thông tin và kết quả phân tích cũng như việc thực
hiện các lệnh của khách hàng.
* Quy trình thực hiện
- Mở tài khoản giao dịch cho khách hàng: Khách hàng muốn giao dịch
mua bán các loại chứng khoán trên thị trường chứng khoán niêm yết phải đến
các công ty chứng khoán mở tài khoản. Các công ty chứng khoán làm mọi thủ
tục cần thiết để mở tài khoản cho khách hàng.
10
- Nhận lệnh từ khách hàng: Sau khi tiến hành mở tài khoản thì khách
hàng có thể thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán từ tài khoản của
mình bằng cách đặt lệnh mua bán chứng khoán tại công ty chứng khoán mà
mình mở tài khoản. Để đặt lệnh giao dịch thì khách hàng có thể đến trực tiếp
công ty ghi phiếu lệnh, bằng điện thoại hoặc có thể thông qua bằng internet
tùy theo điều kiện của từng công ty chứng khoán. Khi tiến hành nhận lệnh của
khách hàng thì nhân viên môi giới phải kiểm tra tài khoản của khách hàng
xem có đủ chứng khoán và tiền mặt theo yêu cầu giao dịch.

- Thực hiện lệnh: Sau khi nhận lệnh giao dịch từ khách hàng và kiểm tra
lệnh thì nhân viên môi giới nhập lệnh vào hệ thống để chuyển tới đại diện sàn
giao dịch.
- Xác nhận kết quả: Sau khi lệnh đã được thực hiện thành công thì công
ty chứng khoán tiến hành gửi đến khách hàng giấy xác nhận kết quả giao dịch
về loại chứng khoán, số lượng chứng khoán và giá chứng khoán mà khách
hàng đã thực hiện mua bán theo yêu cầu.
1.2.2.2. Hoạt động tự doanh chứng khoán
* Khái niệm
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tiến hành các giao dịch mua bán
các loại chứng khoán cho chính mình.
Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán có thể được thực hiện trên
các thị trường giao dịch tập trung (trung tâm giao dịch chứng khoán, sở giao
dịch chứng khoán), hoặc trên thị trường OTC,…Trên thị trường giao dịch tập
trung, lệnh giao dịch của các công ty chứng khoán được đưa vào hệ thống và
thực hiên tương tự như lệnh giao dịch của các khách hàng. Trên thị trường
OTC, các hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty với các
đối tác hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin. Tại một số nước, hoạt
động tự doanh của các công ty chứng khoán còn được thực hiện thông qua
hoạt động tạo lập thị trường (ví dụ như ở Mỹ). Trong hoạt động này, công ty
11
chứng khoán đóng vai nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng nhất định
của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán với các khách hàng nhằm
hưởng phí giao dịch và chênh lệch giá.
* Mục đích của hoạt động tự doanh
Mục đích của hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán nhằm thu
lợi cho chính mình. Tuy nhiên, để đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của
thị trường, pháp luật các nước đều yêu cầu các công ty chứng khoán khi thực
hiện nghiệp vụ tự doanh phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định về vốn và con
người. Để thực hiện hoạt động tự doanh, các công ty chứng khoán phải cố đủ

một số vốn nhất định theo quy định của pháp luật. Việc quy định mức vốn
trên nhằm mục đích đảm bảo rằng các công ty chứng khoán thực sự có vốn và
dùng vốn của họ để kinh doanh. Tương tự như vậy, con người cũng là yếu tố
quyết định đến sự thành công của hoạt động tự doanh. Kinh doanh chứng
khoán là một lĩnh vực đặc thù có sự chi phối rất lớn của nhana tố con người
và thông tin. Nhân viên thực hiện nghiệp vụ tự doanh của công ty phải có một
trình độ chuyên môn nhất định, có khả năng tự quyết cao và đặc biệt là tính
nhạy cảm trong công việc.
* Những yêu cầu đối với công ty chứng khoán trong hoạt động tự doanh
- Tách biệt quản lý: Các công ty chứng khoán phải có sự tách biệt giữa
nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ rang
trong hoạt động. Sự tách bạch này bao gồm cả yếu tố con người và các quy
trình nghiệp vụ. Các công ty chứng khoán phải có đôi ngũ nhân viên riêng
biệt để thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Các nhân viên này phải hoàn toàn tách
biệt với bộ phận môi giới. Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán còn phải
đảm bảo sự tách bạch về tài sản của khách hàng với các tài sản của chính
công ty.
- Ưu tiên khách hàng: Pháp luật của hầu hết các nước đều yêu cầu công
ty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng khi thực hiện
12
nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải
được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty. Nguyên tắc này đảm bảo sự công
bằng cho khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Do có tính đặc
thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các công ty
chứng khoán có thể sẽ dự đoán trước được diễn biến của thị trường và sẽ mua
hoặc bán tranh của khách hàng nếu không có nguyên tắc trên.
- Bình ổn thị trường: Do tính đặc thù của thị trường chứng khoán, đặc
biệt là các thị trường chứng khoán mới nổi, bao gồm chủ yếu là các nhà đầu
tư cá nhân, nhỏ lẻ thì tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư không cao.
Điều này dễ dẫn đến những biến động bất thường trên thị trường. Vì vậy, các

nhà đầu tư lớn, chuyên nghiệp rất cần thiết để làm tín hiệu hướng dẫ cho toàn
bộ thị trường. Bên cạnh hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán, các công
ty chứng khoán với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn của mình có thể
thông qua hoạt động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung cầu,
bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường.
Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán còn phải tuân thủ một số quy định
khác như các giới hạn về đầu tư, lĩnh vực đầu tư… Mục đích của các quy định
này là nhằm đảm bảo một độ an toàn nhất định cho các công ty chứng khoán
trong quá trình hoạt động, tránh những sự đổ vỡ gây thiệt hại chung cho cả thị
trường.
* Quy trình nghiệp vụ trong hoạt động tự doanh
Giai đoạn 1: Xây dựng chiến lược đầu tư
Trong giai đoạn này, công ty chứng khoán phải xác định được chiến lược
trong hoạt động tự doanh của mình. Đó có thể là chiến lược đầu tư chủ động,
thụ động hoặc đầu tư vào một số ngành nghề, lĩnh vực cụ thể nào đó.
Giai đoạn 2: Khai thác, tìm kiếm các cơ hội đầu tư
Sauk hi xây dựng được chiến lược đầu tư của công ty, bộ phận tự doanh
sẽ triển khai tìm kiếm các nguồn hàng hóa, cơ hội đầu tư trên thị trường theo
13
mục tiêu đã định.
Giai đoạn 3: Phân tích, đánh giá chất lượng cơ hội đầu tư
Trong giai đoạn này, bộ phận tự doanh có thể kết hợp với bộ phận phân
tích trong công ty tiến hành thẩm định, đánh giá chất lượng của các khoản đầu
tư. Kết quả của giai đoạn này sẽ là những kết luận cụ thể về việc công ty có
nên đầu tư hay không đầu tư và với số lượng, giá cả bao nhieue là hợp lý.
Giai đoạn 4: Thực hiện đầu tư
Sau khi đã đánh giá, phân tích các cơ hội đầu tư, bộ phận tự doanh sẽ
triển khai thực hiện các hoạt động giao dịch mua, bán chứng khoán. Cơ chế
giao dịch sẽ tuân theo các quy định của pháp luật và các chuẩn mực chung
trong ngành.

Giai đoạn 5: Quản lý đầu tư và thu hồi vốn
Trong giai đoạn này, bộ phận tự doanh có trách nhiệm theo dõi các
khoản đầu tư, đánh giá tình hình và thực hiện những hoán đổi cần thiết, hợp
lý. Sau khi thu hồi vốn, bộ phận tự doanh sẽ tổng kết, đánh giá lại tình hình
thực hiện và lại tiếp tục chu kỳ mới.
1.2.2.3. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán
* Khái niệm
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực
hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối
chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi
phát hành. Trên thế giới, các ngân hàng đầu tư thường là những tổ chức đứng
ra làm bảo lãnh phát hành.
Tổ chức bảo lãnh là người chịu trách nhiệm mua hoặc chào bán chứng
khoán của một tổ chức phát hành nhằm thực hiện việc phân phối chứng khoán
để hưởng hoa hồng.
Thông thường, để phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát
hành cần phải có được sự bảo lãnh của một công ty nhỏ, và số lượng phát
14
hành không lớn, thì chỉ cần có một tổ chức bảo lãnh phát hành. Nếu đó là
một công ty lớn, và số lượng chứng khoán phát hành vượt quá khả năng của
một tổ chức bảo lãnh thì cần phải có một tổ hợp bảo lãnh phát hành, bao
gồm một hoặc một tổ chức bảo lãnh chính và một số tổ chức bảo lãnh phát
hành thành viên.
Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ
hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Phí bảo lãnh phát
hành là mức chênh lệch giữa giá bán chứng khoán cho người đầu tư và số tiền
tổ chức phát hành nhận được.
Phí bảo lãnh hoặc hoa hồng bảo lãnh cao hay thấp là tuỳ thuộc vào tính
chất của đợt phát hành (lớn hay nhỏ, thuận lợi hay khó khăn). Nói chung, nếu
đợt phát hành đó là đợt phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng thì mức

phí hoặc hoa hồng phải cao hơn lần phân phối sơ cấp. Đối với trái phiếu, phí
bảo lãnh hoặc hoa hồng phụ thuộc vào lãi suất trái phiếu (lãi suất trái phiếu
thấp thì phí bảo lãnh phát hành phải cao và ngược lại)
* Các phương thức bảo lãnh phát hành
Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các
phương thức sau:
- Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ
chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có
phân phối được hết chứng khoán hay không. Trong hình thức bảo lãnh tổ hợp
theo "cam kết chắc chắn", một nhóm các tổ chức bảo lãnh hình thành một tổ
hợp để mua chứng khoán của tổ chức phát hành với giá chiết khấu so với giá
chào bán ra công chúng (POP)[1] và bán lại các chứng khoán đó ra công
chúng theo giá POP. Chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của các tổ chức
bảo lãnh và giá chào bán ra công chúng được gọi là hoa hồng chiết khấu.
- Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: đây là phương thức thường được
áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ phiếu thường ở
15
các nước phát triển. Trong trường hợp đó, công ty cần phải bảo vệ quyền lợi
cho các cổ đông hiện hữu, và như vậy, công ty phải chào bán cổ phiếu bổ
sung cho các cổ đông cũ trước khi chào bán ra công chúng bên ngoài. Dĩ
nhiên, sẽ có một số cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty. Do
vậy, công ty cần có một tổ chức bảo lãnh dự phòng sẵn sàng mua những
quyền mua không được thực hiện và chuyển thành những cổ phiếu để phân
phối ra ngoài công chúng. Có thể nói, bảo lãnh theo phương thức dự phòng là
việc tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua nốt số chứng khoán còn lại chưa được
phân phối hết của tổ chức phát hành và bán lại ra công chúng. Tại các nước
đang phát triển, khi các tổ chức bảo lãnh còn non trẻ và chưa có tiềm lực lớn
thì phương thức bảo lãnh phát hành dự phòng lại là phương thức bảo lãnh
thông dụng nhất.
- Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ

chức bảo lãnh tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành.
Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ
cố gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân
phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành phần còn lại.
- Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: trong phương thức
này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng
khoán nhất định, nếu không phân phối được hết sẽ huỷ toàn bộ đợt phát hành.
- Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức trung gian
giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán
tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức
bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định (mức sàn). Vượt trên
mức ấy, tổ chức bảo lãnh được tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa
quy định (mức trần). Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn
mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ.
* Quy trình của hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán
16
Khi một tổ chức muốn phát hành chứng khoán, tổ chức đó gửi yêu cầu
bảo lãnh phát hành đến công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán có thể sẽ
ký một hợp đồng tư vấn quản lý để tư vấn cho tổ chức phát hành về loại
chứng khoán cần phát hành, định giá chứng khoán và phương thức phân phối
chứng khóan đến các nhà đầu tư thích hợp. Để được phép bảo lãnh phát hành,
công ty chứng khoán phải đệ trình một phương án bán và cam kết bảo lãnh
lên Ủy ban chứng khoán. Khi các nội dung cơ bản của phương án phát hành
được Ủy ban chứng khóan thông qua, công ty chứng khoán có thể trực tiếp ký
hợp đồng bảo lãnh hoặc thành lập nghiệp đoàn bảo lãnh để ký hợp đồng bảo
lãnh giữa nghiệp đoàn và tổ chức phát hành. Khi Ủy ban chứng khoán cho
phép phát hành chứng khóan và đến thời hạn giấy phép phát hành có hiệu lực,
công ty chứng khoán thực hiện phân phối chứng khóan. Các hình thức phân
phối chứng khoán chủ yếu là:
- Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể, các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm,

quỹ hưu trí.
- Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan
hệ với tổ chức phát hành.
- Bán rộng rãi ra công chúng.
Đến đúng ngày theo hợp đồng, công ty bảo lãnh phát hành phải giao tiền
bán chứng khoán cho tổ chức phát hành. Số tiền phải thanh toán là giá trị
chứng khoán phát hành trừ đi phí bảo hành.
1.2.2.4. Hoạt động tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán
* Khái niệm
Tư vấn đầu tư chứng khoán là hoạt động dịch vụ các công ty chứng
khoán cung cấp cho khách hàng các thông tin đã được thu thập và phân tích
về các loại chứng khoán, về tình hình thị trường và xu hướng biến động của
thị trường chứng khoán giúp cho khách hàng quyết định thời điểm mua, bán
17
chứng khoán, loại chứng khoán mua bán và thời gian nắm giữ chứng khoán.
* Phân loại hoạt động tư vấn
- Theo hình thức hoạt động tư vấn
+ Tư vấn trực tiếp: Tức là khách hàng có thể gặp gỡ trực tiếp với nhà tư vấn
hoặc sử dụng các phương tiện truyền thông như điện thoại, fax… để hỏi ý kiến.
+ Tư vấn gián tiếp: Là cách người tư vấn xuất bản các ấn phẩm hay đưa
thông tin lên những phương tiện truyền thông như internet để bất kỳ khách
hàng nào cũng có thể tiếp cận được nếu muốn.
- Theo mức độ ủy quyền của hoạt động tư vấn:
+ Tư vấn gợi ý: Ở mức độ này, người tư vấn chỉ có quyền nêu ý kiến của
mình về những diễn biến trên thị trường, gợi ý cho khách hàng về những
phương pháp, cách thức xử lý những quyền quyết định của khách hàng.
+ Tư vấn ủy quyền: Với nghiệp vụ này, nhà tư vấn và quyết định hộ
khách hàng theo mức độ ủy quyền của khách hàng.
- Theo đối tượng của hoạt động tư vấn
+ Tư vấn cho người phát hành: Hoạt động tư vấn cho người phát hành

tương đối đa dạng, từ việc phân tích tình hình tài chính đến đánh giá giá trị
của doanh nghiệp, tư vấn về laọi chứng khoán phát hành hay giúp công ty
phát hành cơ cấu lại nguồn vốn, thâu tóm hay sáp nhập với công ty khác.
+ Tư vấn đầu tư: Là hoạt động tư vấn cho người đầu tư về thời gian mua
bán, nắm giữ, giá trị của các loại chứng khoán, các diễn biến của thị trường.
* Điều kiện và nguyên tắc hoạt động tư vấn
- Điều kiện về vốn và nhân sự:
+ Điều kiện về vốn: Vì hoạt động tư vấn là hoạt động kinh doanh hiểu
biết nên các yêu cầu về vốn tối thiểu đối với hoạt động này không lớn, lượng
vốn với nghiệp vụ này chỉ cần đủ để duy trì các hoạt động bình thường của
côg ty như là thuê văn phòng, trả lương nhân viên, chi phí hành chính khác…
+ Điều kiện về nhân sự: Yêu cầu về nhân sự đối với hoạt động này tương
18
đối chặt chẽ. Người làm công tác tư vấn phải có kiến thức chuyên môn rất sâu
trong lĩnh vực của mình. Riêng đối với ngành chứng khoán, họ phải có giấy
phép hành nghề tư vấn chứng khoán với các yêu cầu cao hơn những người chỉ
làm môi giới thông thường.
- Các hoạt động tư vấn
+ Tư vấn cho người phát hành: là việc công ty chứng khoán ký kết hợp
đồng tư vấn với các doanh nghiệp để thực hiện cácc hoạt động tư vấn như xác
định giá trị doanh nghiệp, phát hành chứng khoán, niêm yết chứng khoán,
chia tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp.
+ Tư vấn đầu tư: Là hoạt động phổ biến trên thị trường thứ cấp. Đó có
thể là những lời khuyên hay những bản tin, những phân tích hoặc những hợp
đồng dịch vụ.
1.2.2.5. Các hoạt động phụ trợ khác
Các hoạt động phụ trợ khác của các công ty chứng khoán tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc nâng cao hiệu quả đồng vốn đầu tư,
tạo điều kiện thuận lợi trong việc đầu tư chứng khoán. Các hoạt động phụ trợ
khác bao gồm:

- Lưu ký chứng khoán: là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán và các
chứng từ có giá của khách hàng, đồng thời thực hiện các quyền của khách
hàng đối với chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng
khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức
giao dịch ghi sổ, khách hang phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các
công ty chứng khoán (nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ) hoặc
ký gửi các chứng khoán (nếu phát hành dưới hình thức chứng chỉ vật chất).
Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khóan cho khách hang, công ty chứng
khoán sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và
phí chuyển nhượng chứng khoán.
Cung cấp dịch vụ lưu ký cho nhà đầu tư nhằm mục đích:
19
+ Tiết kiệm thời gian và giảm thiểu chi phí của nhà đầu tư;
+ Tránh được các rủi ro, hư hỏng, mất mát, giả mạo... khi nhà đầu tư tự
cất giữ chứng khoán tại nhà;
+ Được đảm bảo các quyền lợi của người sở hữu chứng khoán (quyền bỏ
phiếu, mua cổ phiếu, quyền cổ phiếu thưởng và cổ tức, chuyển đổi trái phiếu,
tách gộp cổ phiếu.... ).
- Hoạt động tín dụng: Là hoạt động mà công ty chứng khoán giúp
khách hàng của mình gia tăng khoản vốn đầu tư thông qua hình
thức cho vay cầm cố chứng khoán, cho vay ứng trước tiền bán
chứng khoán…hay còn gọi là cho vay ký quỹ. Cho vay ký quỹ là
hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán cho khách hàng
của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó
làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ
một phần, số còn lại sẽ do công ty chứng khoán ứng trước tiền
thanh toán. Đến kỳ hạn thỏa thuận, khách hàng phải hoàn trả đủ số
chênh lệch cùng với lãi cho công ty chứng khoán. Trường hợp
khách hàng không trả được nợ, thì công ty có quyền sở hữu số
chứng khoán đã mua để thu hồi nợ.

1.3. PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.3.1. Khái niệm
Phát triển hoạt động kinh doanh là việc làm tăng thêm về doanh thu, lợi
nhuận và cải thiện về chất lượng hoạt động của doanh nghiệp.
Hay nói cách khác phát triển hoạt động của CTCK là sự tăng trưởng một
cách bền vững các hoạt động kinh doanh của công ty là sự biến đổi theo chiều
hướng làm gia tăng về số lượng các hoạt động và chất lượng các hoạt động
được không ngừng nâng cao.
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ảnh phát triển hoạt động kinh doanh của
công ty chứng khoán
20
1.3.2.1. Những chỉ tiêu chung
* Doanh thu
Doanh thu là luồng tiền thu được của hãng sau khi bán các sản phẩm và
dịch vụ của mình. Hay nói cách khách doanh thu của doanh nghiệp là toàn bộ
số tiền thu được từ tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Trong kinh tế học,
doanh thu thường được xác định bằng giá bán nhân với sản lượng.
Nội dung doanh thu của một doanh nghiệp sản xuất bao gồm ba khoản
mục chủ yếu là doanh thu bán hàng, doanh thu từ các hoạt động tài chính và
doanh thu khác. Còn đối với các công ty chứng khoán, thì doanh thu là tổng
doanh thu từ các hoạt động kinh doanh của công ty.
Doanh thu của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ hoạt động
của doanh nghiệp. Doanh thu là nguồn quan trọng để đảm bảo trang trải các
khoản chi phí hoạt động kinh doanh, đảm bảo cho doanh nghiệp tục tục kinh
doanh và còn nguồn để thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Vì vậy thông qua doanh thu phản ánh được về tình hình hoạt động kinh
doanh của công ty tốt hay không tốt. Nếu doanh thu của công ty ngày càng
tăng thì phản ánh tình hình hoạt động kinh doanh của công ty càng phát triển
và ngược lại.
* Lợi nhuận

Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh
doanh. Nó là khoản chênh lệch bằng tiền giữa doanh thu và chi phí mà doanh
nghiệp đã bỏ ra để đạt được khoản thu đó.
Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
một doanh nghiệp vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị
trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không, điều quyết định là
doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Vì thế, lợi nhuận được coi là
đòn bẩy kinh tế quan trọng đồng thời còn là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng
hợp nói lên kết quả của toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
21
Lợi nhuận sau thế là chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế và thuế thu
nhập doanh nghiệp. Lợi nhuận sau thuế là phần mà công ty nhận được sau khi
trừ đi các khoản chi phí và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế - Thuế thu nhập doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được
hay không phụ thuộc rất lớn vào việc doanh nghiệp có tạo được lợi nhuận hay
không. Lợi nhuận sau thuế phản ánh được tình hình hiệu quả hoạt động kinh
doanh của công ty và sự phát triển của hoạt động kinh doanh của công ty.
1.3.2.2. Những chỉ tiêu đánh giá từng hoạt động kinh doanh
* Chỉ tiêu đánh giá hoạt động môi giới
Đánh giá sự phát triển của hoạt động môi giới của công ty chứng khoán
được thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau, tùy thuộc vào từng đối tượng và đóc
độ đánh giá khác nhau mà có những tiêu chí khác nhau. Trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài tác giả xin đề cập đến một số chỉ tiêu đánh giá sự phát
triển của hoạt động môi giới đứn trên góc độ của công ty chứng khoán. Bao
gồm các chỉ tiêu sau đây:
- Số lượng tài khoản được mở và tỷ trọng của nó chiếm trong toàn bộ số
lượng tài khoản được mở của thị trường. Số lượng tài khoản được mở tại các
công ty chứng khoán phản ánh mức độ thành công của nhân viên môi giớ

trong việc thu hút khách hàng, lấy được niềm tin của khách hàng. Vì vậy, nếu
số lượng tài khoản khách hàng mở tại công ty chứng khoán tăng lên trong
điều kiện ổn định của thị trường thì chứng tỏ việ thu hút khách hành của công
ty tốt, uy tín của công ty được tăng lên và dẫn đến tỷ trọng về số tài khoản của
công ty chiếm trong toàn bộ của thị trường sẽ được cải thiện.
- Giá trị chứng khoán giao dịch: Giá trị chứng khoán giao dịch bao gồm
giá trị chứng khoán mua và giá trị chứng khoán bán. Giá trị chứng khoán giao
dịch có sự biến động qua từng phiên và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như biến
động về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý nhà đầu tư, tình hình sản xuất của
công ty… Giá trị giao dịch thể hiện được khối lượng, tần suất giao dịch của
22
khác hàng và đem phí giao dịch mà công ty chứng khoán sẽ thu được tỷ lệ
thuận với giá trị chứng khoán giao dịch. Vì vậy nếu giá trị giao dịch càng lớn
hứa hẹn mang về cho công ty càng nhiều doanh thu.
- Doanh thu môi giới là khoản khoản thu của công ty chứng khoán từ phí
môi giới và phí môi giới được tính trên tỷ lệ giá trị chứng khoán giao dịch của
khách hàng
- Sự phát triển các sản phẩm dịch vụ: Sự phát triển của hoạt động môi
giới chứng khoán không chỉ thể hiện thông qua số lượng tài khoản, giá trị
giao dịch và doanh thu môi giới mà còn thể hiện ở việc phát triển các sản
phẩm dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Việc phát triển các sản phẩm dịch vụ
đa dạng để có thể phục vụ một cách tối đa nhu cầu của khách hàng trong việc
tiếp cận với thị trường trong việc thực hiện giao dịch. Qua đó thu hút được
thêm khách hàng mở tài khoản, thực hiện giao dịch và mang lại doanh thu cho
công ty.
* Chỉ tiêu đánh giá hoạt động tư vấn
Đây là dịch vụ quan trọng của công ty chứng khoán cung cung cấp cho
khách hàng. Các dịch vụ tư vấn gồm: tư vấn cho tổ chức phát hành về tái cơ
cấu tài chính, chia tách, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp và tư vấn cho doanh
nghiệp trong việc phát hành thêm và niêm yết. Để đánh giá sự phát triển của

hoạt động tư vấn được thông qua các chỉ tiêu:
- Số lượng các doanh nghiệp mà công ty tư vấn tài chính để đánh giá
được tình hình hoạt động tư vấn của doanh nghiệp.
- Doanh thu và lợi nhuận của hoạt động tư vấn để đánh giá được mức độ
hiệu quả cũng như kết quả từ hoạt động tư vấn của công ty đem lại.
* Chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của hoạt động tự doanh
Để đánh giá sự phát triển hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán
thì chỉ tiêu quan trọng nhất là doanh thu cũng như lợi nhuận từ hoạt động tự
doanh mang lại cho công ty. Bên cạnh đó thì công ty chứng khoán cũng cần
23
quan tâm đến việc góp phần điều tiết và ổn định thị trường.
* Chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của hoạt động bảo lãnh phát hành
- Số lượng các doanh nghiệp công ty thực hiện bảo lãnh phát hành: số
lượng doanh nghiệp hay số lượng khách hàng đánh giá được sự phát triển của
của hoạt động bảo lãnh của công ty về quy mô và giúp công ty chiếm được thị
phần trong hoạt động bảo lãnh phát hành.
- Giá trị bảo lãnh là giá trị của các hợp đồng bảo lãnh là số tiền mà các tổ
chức phát hành dự kiến sẽ huy động thông qua hình thức phát hành.
- Doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động bảo lãnh: Việc bảo lãnh sẽ đem lại
cho công ty một khoản tiền phí dịch vụ và tạo nên nguồn thu, lợi nhuận cho
công ty.
1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.4.1. Nhân tố khách quan
1.4.1.1. Ảnh hưởng của sự ổn định và phát triển của nền kinh tế
Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân tạo điều kiện thuận lợi
cho thị trường chứng khoán phát triển và tạo môi trường tốt cho các công ty
chứng khoán hoạt động. Khi nền kinh tế phát triển không ổn định, tốc độ lạm
phát cao sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường chứng khoán nói
chung và ảnh hưởng đến sự phát triển của các công ty chứng khoán nói riêng.

Nền kinh tế Việt Nam phát triển sẽ là động lực khuyến khích các Doanh
nghiệp trong nước mở rộng sản xuất, tìm kiếm cơ hội làm ăn đồng thời thu
hút nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Điều này sẽ mang lại phản ứng tích
cực đối với sự phát triển của TTCKVN. Ngược lại, khi nền kinh tế chậm phát
triển sẽ có ảnh hưởng tiêu cực với tốc độ phát triển của các doanh nghiệp và
gián tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK.
Quan hệ giữa chỉ số giá (CPI) và thị trường chứng khoán là mối quan hệ
24
phức tạp, hai chiều, vừa có tính trực tiếp, vừa có tính gián tiếp.
Thông thường, giả định các nhân tố khác liên quan đến thị trường chứng
khoán không đổi, nếu CPI ổn định ở mức 5% là điều kiện lý tưởng để thị
trường chứng khoán hoạt động bình thường, còn khi CPI tăng cao hơn sẽ ảnh
hưởng đến thị trường chứng khoán qua bốn cơ chế:
CPI tăng sẽ trực tiếp làm tăng khó khăn cho các doanh nghiệp gắn với
việc phải tăng lãi vay tín dụng, tăng lương và các chi phí đầu vào khác. Điều
này làm giảm lợi nhuận kinh doanh và lợi tức cổ phiếu, các báo cáo tài chính
kém sáng sủa và chứng khoán của các doanh nghiệp cũng trở nên kém hấp
dẫn hơn...
CPI tăng sẽ làm tăng áp lực buộc Nhà nước phải thực hiện chính sách tín
dụng thắt chặt, như giảm hạn mức tín dụng, tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất
cơ bản và lãi chiết khấu ngân hàng, các điều kiện tín dụng khác cũng ngặt
nghèo hơn, khiến các nhà đầu tư chứng khoán tiếp cận nguồn tín dụng khó
khăn và đắt đỏ hơn, vì vậy làm giảm đầu tư vào thị trường chứng khoán...
CPI tăng sẽ kéo theo việc các ngân hàng tăng lãi suất huy động vốn,
thúc đẩy việc tăng tiền gửi tiết kiệm hoặc mua vàng để bảo toàn tiền vốn
của nhà đầu tư, điều này cũng làm thu hẹp dòng vốn đầu tư trên thị trường
chứng khoán...
CPI tăng có thể còn gây hai tác dụng trái chiều khác là: tăng bán ra các
chứng khoán “xấu” để rút vốn khỏi thị trường chứng khoán và tăng mua vào
những chứng khoán “tốt” để tránh lạm phát.

1.4.1.2. Sự phát triển của thị trường chứng khoán
Các hoạt động của công ty chứng khoán phát triển luôn gắn liền với sự
phát triển của thị trường chứng khoán. Với một thị trường chứng khoán chưa
phát triển, số lượng hàng hóa ít, tính thanh khoản của hàng hóa không cao thì
chưa thể hiện được vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán là tích tụ,
25

×