Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Quản lý cạnh tranh trong kinh tế theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 87 trang )


Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật




Nguyễn Thanh Hiếu





Quản lý cạnh tranh trong kinh tế
theo pháp luật việt nam




Luận văn thạc sĩ luật học







Hà nội – 2010








Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật



Nguyễn Thanh Hiếu




Quản lý cạnh tranh trong kinh tế
theo pháp luật việt nam

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


Luận văn thạc sĩ luật học



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Viết Tý





Hà nội - 2010




MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN
LÝ CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT
ĐỘNG QUẢN LÝ CẠNH TRANH
4
1.1.
Khái quát về hoạt động quản lý cạnh tranh
4

1.1.1.
Khái niệm hoạt động quản lý cạnh tranh
4
1.1.2.
Thiết chế quản lý cạnh tranh
7
1.1.3.
Tính tất yếu của hoạt động quản lý cạnh tranh
12
1.2.
Khái quát về pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh
tranh Việt Nam
14
1.2.1.
Khái niệm pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh
14
1.2.2.
Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh
17
1.3.
Những yếu tố chi phối pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý
cạnh tranh
20

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG
QUẢN LÝ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
22
2.1.
Quy định pháp luật điều chỉnh cách thức quản lý cạnh tranh
22

2.1.1.
Chế độ cung cấp thông tin
22
2.1.2.
Chế độ đăng ký
25
2.1.3.
Chế độ báo cáo
27
2.1.4.
Chế độ thông báo
29
2.1.5.
Chế độ giám sát chéo
31
2.2.
Quy định pháp luật về cơ quan quản lý cạnh tranh
32
2.2.1.
Cơ quan quản lý chung
32
2.2.2.
Cơ quan xử lý vi phạm
36
2.2.3.
Nguyên tắc hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh
43
2.3.
Xử lý vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh
46

2.3.1.
Các loại hình phạt và mức độ xử lý vi phạm
46
2.3.2.
Cơ chế thực thi việc xử lý vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh
52

Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG QUẢN
LÝ CẠNH TRANH TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM
HIỆN NAY
55
3.1.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động
quản lý cạnh tranh ở Việt Nam
55
3.1.1.
Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh
trên cơ sở thực trạng quy định pháp luật và thực trạng thực thi
pháp luật quản lý cạnh tranh ở Việt Nam
55
3.1.2.
Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh
trên cơ sở phù hợp điều kiện nền kinh tế thị trường đặc biệt
của Việt Nam
58
3.1.3.
Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh
trên cơ sở thống nhất với các luật khác có liên quan
61

3.2.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý
cạnh tranh ở Việt Nam
66
3.2.1.
Về cách thức quản lý cạnh tranh
66
3.2.2.
Về cơ quản quản lý cạnh tranh
68
3.2.3.
Về xử lý vi phạm
71
3.3.
Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng của pháp luật điều chỉnh
hoạt động quản lý cạnh tranh ở Việt Nam
75
3.3.1.
Xây dựng các tổ chức hỗ trợ quản lý cạnh tranh
75
3.3.2.
Giao lưu cạnh tranh quốc tế
76

KẾT LUẬN
80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
81



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi Luật Cạnh tranh 2004 ra đời, nền kinh tế thị trường của Việt
Nam đã có khung pháp lý để điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh và
cạnh tranh không lành mạnh. Luật Cạnh tranh là một văn bản pháp luật có
tính chất là luật "mẹ" để Nhà nước ta quản lý cạnh tranh. Nói đến Luật Cạnh
tranh là nói đến kinh tế, quản lý cạnh tranh ở đây tất yếu là quản lý cạnh tranh
trong kinh tế. Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh không bao quát hết mọi hoạt động
nhằm quản lý cạnh tranh của Nhà nước. Trong khi đó, nghiên cứu về quản lý
cạnh tranh là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ nhưng vô cùng cần thiết ở Việt
Nam. Nghiên cứu về quản lý cạnh tranh là cách nhìn từ một góc độ khác của
pháp luật cạnh tranh nhằm xây dựng thành những cơ sở lý luận cũng như thực
tiễn để Nhà nước ta thực hiện tốt chức năng quản lý xã hội, điều tiết thị
trường đi theo đúng định hướng. Nghiên cứu về quản lý cạnh tranh trong kinh
tế còn là sự tiếp cận và đánh giá bao quát đối với hệ thống pháp luật về chính
sách cạnh tranh ở nước ta.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn
cho sự hình thành và phương hướng xây dựng pháp luật điều chỉnh hoạt động
quản lý cạnh tranh trong kinh tế ở Việt Nam.
- Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
+ Nghiên cứu, tìm hiểu cơ sở lý luận về hoạt động quản lý cạnh tranh,
pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh;
+ Phân tích làm rõ khái niệm, nội dung chủ yếu của pháp luật điều
chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh ở Việt Nam;
+ Làm sáng tỏ nhu cầu và phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp
luật về quản lý cạnh tranh ở Việt Nam.


2
3. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, pháp luật về cạnh tranh Việt Nam luôn thu hút
được sự quan tâm đông đảo của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy
nhiên chưa có một công trình nghiên cứu tổng thể nào đối với vấn đề lý luận,
khái niệm, chức năng và vai trò của quản lý cạnh tranh trong kinh tế do đây là
một vấn đề mới, phạm vi rộng, khá phức tạp. Bên cạnh đó là phương thức
quản lý, quản lý như thế nào? Giải pháp hiệu quả cho quản lý cạnh vẫn là nội
dung gây tranh cãi.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: các nội dung liên quan đến hoạt động quản lý
cạnh tranh ở Việt Nam bao gồm: cách thức quản lý, cơ quan quản lý, cơ quan
xử lý vi phạm, các loại hình phạt đối với hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu một cách tổng quát các
quá trình của quản lý cạnh tranh từ khâu điều tra đến ra quyết định, xử lý đối
với vụ việc cạnh tranh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp được sử dụng có tính chất bao trùm ở luận văn này là
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác -
Lênin, theo đó vấn đề điều chỉnh pháp luật phải được đặt trong bối cảnh lịch
sử, cụ thể của quá trình hình thành và phát triển cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: giúp cho việc tìm hiểu quan điểm
tiếp cận của pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh ở phương diện
quản lý cạnh tranh để tìm ra những ưu việt và hợp lý của từng chế độ sử dụng.
Hơn nữa, với phương pháp này ta còn có thể so sánh được với pháp luật cạnh
tranh của một số quốc gia để đánh giá những hợp lý, bất cập và đưa ra giải
pháp ở Việt Nam.
- Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, thu thập, tổng

hợp và phân tích số liệu để làm rõ những nội dung liên quan.

3
6. Những đóng góp mới của luận văn
Thứ nhất: luận văn đưa ra được những vấn đề lý luận hoàn toàn mới là
khái niệm về hoạt động quản lý cạnh tranh, pháp luật điều chỉnh hoạt động
quản lý cạnh tranh.
Thứ hai: Có phân tích và đánh giá, đề xuất đối với cách thức quản lý
cạnh tranh - nội dung vô cùng quan trọng để nhận biết pháp luật về quản lý
cạnh tranh, góp phần tạo nên hiệu quả cho hoạt động quản lý cạnh tranh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động quản lý cạnh tranh và
pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh;
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh
tranh ở Việt Nam hiện nay;
Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật
điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh trong điều kiện Việt Nam hiện nay.


4
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG
QUẢN LÝ CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ CẠNH TRANH

1.1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ CẠNH TRANH
1.1.1. Khái niệm hoạt động quản lý cạnh tranh
Quản lý cạnh tranh tốt thì lợi ích của người tiêu dùng, của doanh

nghiệp và nhà nước được đảm bảo. Chủ thể của quản lý cạnh tranh không ai
khác là Nhà nước theo phương thức truyền thống sẽ sử dụng pháp luật làm
công cụ để thực hiện.
Cạnh tranh diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống con người
và cạnh tranh trong kinh tế là một loại cạnh tranh. Cạnh tranh trong kinh
doanh được hiểu là hành vi của các doanh nghiệp kinh doanh cùng loại hàng
hóa hoặc những hàng hóa có thể thay thế cho nhau nhằm tiêu thụ hàng hóa
hoặc dịch vụ trên một thị trường [24]. Đối với khái niệm kinh tế, đây là khái
niệm rộng hơn kinh doanh. Lĩnh vực kinh tế của một quốc gia bao gồm các
ngành dịch vụ như đa dạng như: hàng không, ngân hàng, bảo hiểm, phân phối
xăng dầu, viễn thông …; các ngành sản xuất như xi măng, sắt thép, phân bón
hóa học, thức ăn chăn nuôi, sữa… Căn cứ phân chia và cơ cấu các ngành kinh
tế ở Việt Nam theo Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23/01/2007 của Thủ
tướng Chính phủ quy định về 21 nhóm ngành với 642 hoạt động kinh tế cụ
thể. Các ngành kinh tế có vai trò thiết thực đối với cuộc sống của con người
nói riêng và sự phát triển của kinh tế đất nước nói chung. Các ngành kinh tế
của nước ta hiện diện ở trong nhiều thành phần kinh tế: kinh tế tư nhân, kinh
tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Sự đa
dạng của ngành nghề, các thành phần kinh tế và những đặc trưng của kinh tế
thị trường đã tạo ra sự cạnh tranh trong kinh tế.

5
Nền kinh tế thị trường hiện nay tồn tại rất nhiều những mặt trái mà nổi
cộm lên là sự cạnh tranh không lành mạnh, sự độc quyền của một số doanh
nghiệp đối với những ngành nghề khác nhau. Hoạt động cạnh tranh được hiểu
là tất cả các hoạt động nhằm để điều chỉnh cho những nội dung được quy định
trong luật cạnh tranh được thực hiện với mục đích làm cho môi trường cạnh
tranh trở nên lành mạnh, phát huy được các yếu tố tích cực của cạnh tranh.
Sự quản lý đối với hoạt động cạnh tranh góp phần làm nâng cao hiệu
lực thực thi của Luật Cạnh tranh, để luật đi vào cuộc sống thiết thực, phát huy

tính tích cực của cạnh tranh, hướng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh của
nền kinh tế và hơn thế nữa là nhằm tăng hiệu quả của nền kinh tế.
Việt Nam đã có chế định pháp lý riêng để điều chỉnh các quan hệ,
hành vi cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh và kiểm soát độc
quyền trong kinh tế. Luật Cạnh tranh được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03/12/2004; Chủ
tịch nước ký Lệnh công bố Luật vào ngày 14/12/2004 và có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01/7/2005. Luật Cạnh tranh cùng các văn bản hướng dẫn là là
khuôn khổ pháp lý cho hoạt động quản lý cạnh tranh. Luật Cạnh tranh có
phạm vi tác động liên quan đến cả nền kinh tế, điều chỉnh bao trùm lên các
loại hình, các ngành kinh tế. Bên cạnh đó một số lĩnh vực như Điện lực, Viễn
thông cũng đã có Luật riêng trong đó có những nội dung điều chỉnh quản lý
cạnh tranh trong từng hoạt động của ngành. Như vậy, môi trường pháp lý cho
hoạt động quản lý cạnh tranh đã được thể chế hóa bằng những chủ trương,
chính sách quan trọng.
Từ khi Việt Nam chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa thì từ lúc đó lĩnh vực kinh tế mới xuất hiện
thuật ngữ cạnh tranh. Và cũng từ khi xuất hiện cạnh tranh, pháp luật nước ta
mới bắt đầu tiếp cận với mặt trái của kinh tế thị trường nhằm bảo vệ cạnh tranh
lành mạnh. Tuy nhiên, kể từ khi có sự ra đời của pháp luật cạnh tranh tới nay,

6
khoa học pháp lý Việt Nam chưa có một định nghĩa nào cụ thể về hoạt động
quản lý cạnh tranh mặc dù khi đề cập tới pháp luật cạnh tranh các nhà nghiên
cứu đều xác định được nội dung của hoạt động này. Theo các chuyên viên của
Cục Quản lý Cạnh tranh (trực thuộc Bộ Công thương), hiện tại không có văn
bản nào của các cơ quan nhà nước định nghĩa chính thức về hoạt động quản lý
cạnh tranh. Trong phạm vi của đề tài nghiên cứu, yêu cầu đặt ra là cần xác định
rõ bản chất của hoạt động quản lý cạnh tranh. Khái niệm về hoạt động quản lý
cạnh tranh mà tôi đưa ra sau đây dựa trên nền tảng lý luận về hoạt động quản lý

và các yếu tố đặc thù của cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế thị trường Việt
Nam. Mục đích của việc xác khái niệm này nhằm xây dựng cơ sở lý luận, định
hướng cho nội dung cần nghiên cứu của tổng thể luận văn.
Hoạt động quản lý cạnh tranh là hoạt động của cơ quan được nhà nước
trao thẩm quyền nhằm thực thi pháp luật cạnh tranh, thống nhất từ khâu phát
hiện, điều tra đến xử lý hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh nhằm bảo
đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh.
Hoạt động quản lý cạnh tranh của Việt Nam luôn luôn đặt tiêu chí
phải trên cơ sở tôn trọng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều
kiện để các doanh nghiệp phát triển.
- Tính chất của hoạt động quản lý cạnh tranh: là hoạt động gián tiếp,
trong quá trình thực hiện chức năng này, Nhà nước chỉ xuất hiện với tư cách
đại diện cho quyền lợi chung của xã hội và một người cạnh tranh bình đẳng
như những người cạnh tranh khác trên thị thường.
- Chủ thể của hoạt động quản lý cạnh tranh: là cơ quan quản lý cạnh
tranh, Bộ trưởng Bộ Công thương, Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh,
các điều tra viên, các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương. Điều 7 Luật Cạnh
tranh năm 2004 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định
trách nhiệm quản lý nhà nước về cạnh tranh gồm: Chính phủ thống nhất quản
lý nhà nước về cạnh tranh; Bộ Thương mại chịu trách nhiệm trước Chính phủ

7
thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh; các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thương mại thực hiện
quản lý nhà nước về cạnh tranh [26].
- Khách thể của hoạt động quản lý cạnh tranh: cá nhân, doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh; các hành vi gây thiệt hại tới môi trường cạnh tranh
hoặc gây trở ngại cho cạnh tranh lành mạnh.
1.1.2. Thiết chế quản lý cạnh tranh

Có thể nhận thấy rằng đối với cạnh tranh thì pháp luật đã có những
thiết chế để thực hiện việc quản lý cạnh tranh. Thiết chế quản lý cạnh tranh
đóng một vai trò quan trọng để phát huy hiệu quả của việc quản lý cạnh tranh
là điều tiết cạnh tranh của nền kinh tế. Ở những quốc gia có chính sách cạnh
tranh, pháp luật cạnh tranh phát triển đều cho thấy mô hình các thiết chế được
sử dụng phổ biến bao gồm các cơ quan cạnh tranh, tòa án - những cơ quan
chủ đạo của hoạt động quản lý cạnh tranh [15]. Tùy theo truyền thống lập
hiến, lập pháp và tình hình cụ thể của mỗi quốc gia mà các thiết chế được
thành lập và đặt tên gọi khác nhau, việc phân định thẩm quyền trong quản lý
cạnh tranh của các thiết chế cũng khác nhau. Tuy nhiên, thiết chế vẫn phải
chứa đựng các yếu tố: hoạt động phải đảm bảo tính tin cậy cao; phải đảm bảo
việc hoạt động và ra quyết định một cách độc lập; Phải đảm bảo tính minh
bạch trong thực thi nhiệm vụ [14].
- Cơ quan quản lý cạnh tranh có thẩm quyền cơ bản là phát hiện và
kiến nghị các cơ quan liên quan bãi bỏ các chính sách làm cản trở đến môi
trường cạnh tranh; yêu cầu các tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông
tin, chứng cứ trong quá trình điều tra xử lý vụ việc liên quan.
- Hội đồng cạnh tranh là mô hình cơ quan đặc biệt; quyết định của Hội
đồng có giá trị bắt buộc thi hành, được đảm bảo thực hiện dựa trên quyền lực
nhà nước.

8
- Tòa án: là một cơ quan thực thi pháp luật và ở tất cả các quốc gia,
tòa án có lịch sử lâu đời hơn so với mô hình cơ quan cạnh tranh. Hoạt động
xét xử của tòa án đóng góp một phần quan trọng ở khâu tố tụng để pháp luật
quản lý cạnh tranh hiệu quả.
Đối với Việt Nam hiện nay, các thiết chế quản lý cạnh tranh rất đa
dạng bởi không chỉ có các cơ quan có quyền lực nhà nước và nhân danh nhà
nước mà còn có sự góp mặt của các thiết chế như: các hiệp hội doanh nghiệp
(bao gồm các hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa, hiệp hội ngành nghề); hiệp

hội người tiêu dùng; các cơ quan về lưu trữ, nghiên cứu và phân tích thông tin
thị trường; ngoài ra, còn có sự giám sát, cảnh báo, định hướng của dư luận,
của các cơ quan báo chí, các viện nghiên cứu và các cơ quan đào tạo.
Tuy nhiên, phần khái quát về nội dung thiết chế quản lý cạnh tranh ở
đây chỉ nhấn mạnh về một số thiết chế mà có tầm ảnh hưởng lớn là: tòa án,
các cơ quan cạnh tranh, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội người tiêu dùng. Đặc
biệt với sự ra đời của các cơ quan cạnh tranh, lần đầu tiên theo quy định của
pháp luật cạnh tranh Việt Nam xuất hiện hai thiết chế mới là Cục quản lý
cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh.
- Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương, có tên giao dịch viết bằng
tiếng Anh: Vietnam Competition Administration Department, viết tắt là VCAD
(Điều 1 Nghị định số 06/2006/NĐ-CP) [10]. Cục Quản lý cạnh tranh được
xây dựng theo mô hình của Đức với đặc điểm nổi bật là cách làm việc linh
hoạt, phản ứng nhanh và tức thời, có tính chất là cơ quan "lưỡng tính" [14]
bởi sự kết hợp của hai đặc tính hành chính và tư pháp. Chính tính chất "lưỡng
tính" có vai trò khiến cho hoạt động của cơ quan khá hiệu quả. Cục Quản lý
cạnh tranh là nơi thụ lý hồ sơ và điều tra các vụ việc cạnh tranh; xử lý các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh; đồng thời thực hiện chức năng nhiệm vụ
thụ lý hồ sơ và điều tra giai đoạn đầu các vụ việc hạn chế cạnh tranh, giai
đoạn sau thuộc thẩm quyền xử lý của Hội đồng cạnh tranh.

9
- Hội đồng cạnh tranh Việt Nam, có tên giao dịch viết bằng tiếng
Anh: Viet Nam Competition Council, viết tắt là VCC (Điều 1 Nghị định số
05/2006/NĐ-CP) [9]. Cơ quan này lại được thành lập theo mô hình của Pháp,
có nghĩa là hoạt động tập thể, Hội đồng cạnh tranh thực hiện công việc phải lập
hội đồng để lấy ý kiến thống nhất quyết định xử lý. Hội đồng cạnh tranh là thiết
chế khá đặc biệt: là một tài phán có chức năng xét xử độc lập, có thể gọi là cơ
quan "bán" tư pháp do Thủ tướng Chính phủ thành lập (gồm từ 11 đến 15 người).
Các thành viên hoạt động theo nhiệm kỳ năm (05) năm do Thủ tướng Chính

phủ bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công thương, thành phần
gồm có: Bộ Công thương (Chủ tịch), Bộ Tư pháp (Phó Chủ tịch), Bộ Tài chính
(Phó Chủ tịch); các thành viên là Ủy viên thuộc các bộ ngành: Bộ Xây dựng,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư. Giúp việc cho Hội đồng cạnh tranh có Ban thư ký. Hội đồng cạnh
tranh theo nhiệm vụ và thẩm quyền thực hiện xử lý các vụ việc liên quan đến
hạn chế cạnh tranh sau khi Cục Quản lý cạnh tranh phát hiện và điều tra
doanh có hành vi vi phạm; thành lập Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh để
giải quyết một vụ việc cạnh tranh; yêu cầu các tổ chức, cá nhân liên quan
cung cấp thông tin, tài liệu cho việc thực hiện nhiệm vụ; quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn hành chính sau khi tiếp nhận hồ sơ
vụ việc cạnh tranh; giải quyết khiếu nại tố cáo trong phạm vi thẩm quyền …
Với đặc trưng hoạt động quyết định các vấn đề theo đa số thành viên,
trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ (cụ thể là đối với việc giải
quyết các vụ việc liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh thuộc thẩm
quyền), Hội đồng cạnh tranh tiến hành hoạt động thông qua Hội đồng xử lý
vụ việc cạnh tranh. Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh là Hội đồng được thành
lập một lần để giải quyết vụ việc cụ thể và giải tán khi hoàn thành nhiệm vụ
của mình, giống như Hội đồng xét xử trong hệ thống Toà án; thành phần gồm
của thiểu 05 thành viên của Hội đồng cạnh tranh và do Chủ tịch Hội đồng

10
cạnh tranh lựa chọn. Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được xem là cơ quan
có thẩm quyền "xét xử" cấp sơ thẩm vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi
hạn chế cạnh tranh.
Tương tự các quy trình trong pháp luật tố tụng thông thường, khi có
khiếu nại quyết định của cấp sơ thẩm thì sẽ có cấp cao hơn để xem xét. Hội
đồng toàn thể thành viên của Hội đồng cạnh tranh là cơ quan tố tụng cấp trên
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh. Có thể nói rằng đây là cơ quan có thẩm quyền "xét xử phúc thẩm"

vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh.
- Tòa án nhân dân: ở đây Tòa án cũng đóng vai trò là một thiết chế
trong quản lý cạnh tranh. Cụ thể: Tòa hành chính Tòa án nhân dân cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm khiếu kiện
đối với quyết định của Hội đồng cạnh tranh; Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giải
quyết vụ việc cạnh tranh theo thủ tục phúc thẩm/giám đốc thẩm theo quy định
của pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án hành chính.
Điều 115 Luật Cạnh tranh quy định việc xem lại Quyết định của Hội
đồng Cạnh tranh là thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh. Tuy nhiên, vấn đề này
cần Tòa án nhân dân tối cao có hướng dẫn cụ thể để có thể hạn chế phạm vi
các Tòa án cấp tỉnh có thể có thẩm quyền này. Hạn chế cạnh tranh là phạm trù
đỏi hỏi phải có kiến thức chuyên sâu ở các thành viên của Hội đồng Cạnh
tranh. Khi tất cả các tòa cấp tỉnh đều có quyền xem xét lại quyết định của Hội
đồng Cạnh tranh thì dễ xảy ra tình trạng lẩn tránh pháp luật, ảnh hưởng đến
hiệu lực thi hành các quyết định của Hội đồng Cạnh tranh. Nhận định này có
thể đúng trong thực tế và theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia như Nhật là
tòa phúc thẩm Tokyo, Pháp là tòa phúc thẩm Paris mới có quyền này.Vì vậy
cần sự hoạt động có hiệu quả cao của Hội đồng Cạnh tranh ở khía cạnh là một
thiết chế trong quản lý cạnh tranh.

11
Tuy nhiên, thiết chế tòa án xuất hiện mờ nhạt hơn nhiều so với hai
thiết chế đặc biệt là Cục Quản lý Cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh. Vì thế,
pháp luật cần trao cho cơ quan Tòa án nhân dân tối cao quyền lực cao nhất, từ
đó để nắm bắt tất cả những vướng mắc, khó khăn, ý kiến khiếu nại từ phía
người dân và doanh nghiệp để xét xử công bằng, đảm bảo cho pháp luật quản
lý cạnh tranh được thực thi hiệu quả.
- Các hiệp hội: Việt Nam có nhiều hiệp hội như Hiệp hội doanh nghiệp
vừa và nhỏ, các hiệp hội ngành hàng, Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng. Tuy số

lượng các loại hình hiệp hội nhiều nhưng trên thực tế tất cả hầu như hoạt động
kém hiệu quả, chưa phát huy được vai trò dẫn dắt các doanh nghiệp kinh
doanh lành mạnh, đúng pháp luật, chưa thực hiện tốt chức năng giám sát cạnh
tranh. Khi gia nhập WTO, vai trò của các hiệp hội cần được chú trọng để phát
huy vai trò theo dõi giám sát cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi cho các doanh
nghiệp thành viên, góp phần tạo nên môi trường cạnh tranh lành mạnh. Hơn
thế nữa, để tăng cường vị thế của mình, các hiệp hội cần hợp tác chặt chẽ với
cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc nâng cao nhận thức cho cộng đồng
doanh nghiệp và các hiệp hội ngành hàng về pháp luật cạnh tranh, chống bán
phá giá, chống trợ cấp và tự vệ; tích cực phòng chống các vi phạm pháp luật
nhằm xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh và cơ chế kinh tế thị trường
phát triển bền vững.
Như vậy, để quản lý cạnh tranh có hiệu quả cao cần có sự phối hợp hoạt
động không chỉ của các thiết chế có tổ chức mà còn của cả bản thân những
người tiêu dùng cũng như các doanh nghiệp khi tham gia thị trường. Tuy
nhiên, chỉ có những thiết chế quyền lực như cơ quan quản lý cạnh tranh, Hội
đồng cạnh tranh và tòa án mới thực sự có khả năng can thiệp mạnh mẽ đối với
hoạt động quản lý cạnh tranh. Do pháp luật quy định có sự liên hệ và phối kết
hợp trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ nhưng phân chia thẩm
quyền rất rõ rệt nên yêu cầu đặt ra cho các thiết chế là cần sự bảo đảm bổ trợ

12
lẫn nhau về chức năng được pháp luật trao cho, tránh những xung đột về
thẩm quyền.
1.1.3. Tính tất yếu của hoạt động quản lý cạnh tranh
Cạnh tranh là là hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường mà nhiều
nước có nền kinh tế phát triển đã sử dụng một câu thành ngữ về chính sách
cạnh tranh là: "THERE IS NO GROWTH WITHOUT COMPETITION" [34] -
được dịch là: "Không có sự cạnh tranh không tăng trưởng". Chính sách cạnh
tranh của một quốc gia nhằm đảm bảo tối đa hóa phúc lợi xã hội và thúc đẩy

tăng trưởng xã hội. Trong bất cứ nền kinh tế nào nếu không có sự quản lý
điều tiết hiệu quả sẽ dễ dàng phát sinh ra độc quyền. Thực tiễn ở nhiều nước
đã chứng minh nếu được kiểm soát tốt, cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích cho
kinh tế, cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp. Như vậy đối với cạnh
tranh, cần có chính sách để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và có khung pháp
lý để quản lý cạnh tranh đem lại lợi ích lâu dài.
Là một hiện tượng tự nhiên gắn liền nền kinh tế thị trường nên cạnh
tranh luôn tồn tại cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Tác động tích cực của cạnh
tranh là: đáp ứng thị hiếu và nhu cầu người tiêu dùng ở mức cao nhất; đảm
bảo cho người tiêu dùng được thỏa mãn yêu cầu cao hơn với giá rẻ nhất;
khuyến khích nhà kinh doanh tích cực áp dụng công nghệ mới nhằm giảm chi
phí, hạ giá thành sản phẩm; đảm bảo cho các doanh nghiệp có cơ hội phát
triển như nhau. Từ đó dẫn đến sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế. Bên
cạnh những tác động tích cực này thì cạnh tranh cũng kéo theo cả những tiêu
cực, bao gồm:
- Vì mục tiêu lợi nhuận nên nhà kinh doanh bằng mọi cách thu hút
khách hàng nên có thể sử dụng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh
như: đầu cơ, phá giá, làm hàng giả, hàng kém chất lượng;
- Cạnh tranh dẫn đến sự phá sản của các doanh nghiệp yếu tạo nên
những gánh nặng cho nhà nước như thất nghiệp và các tệ nạn khác;

13
- Cạnh tranh làm cho một số doanh nghiệp ngày càng mạnh lên nhờ các
yếu tố khách quan và chủ quan, độc chiếm thị trường và trở thành độc quyền.
Từ những mặt tiêu cực, hạn chế của cạnh tranh cho nên pháp luật về
cạnh tranh phải tiếp cận từ khía cạnh mặt trái đó. "Nếu bàn tay hữu hình của
Nhà nước là một bàn tay nhẹ nhàng và kín đáo, trừ một số trường hợp phải
cứng rắn, thì chỉ giúp cho thị trường vận hành hiệu quả mà thôi" [15].
Đối với Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp thừa
nhận và đặt mục tiêu là kinh tế thị trường phải đảm bảo sự quản lý của Nhà

nước. "Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh
nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển" [18]. Trong lĩnh vực kinh tế, các
ngành kinh tế có tầm quan trọng bao nhiêu thì sự cạnh tranh diễn ra mạnh mẽ
bấy nhiêu, đặc biệt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày tăng lên về
số lượng. Sự xuất hiện của pháp luật cạnh tranh để quản lý và duy trì cho xã
hội, cho nền kinh tế môi trường lành mạnh để cạnh tranh phát huy được các
mặt tích cực. Pháp luật có vai trò quan trọng để nhà nước quản lý kinh tế, tạo
ra hành lang pháp lý để các doanh nghiệp, cá nhân hoạt động kinh doanh. Đối
với những mặt trái của sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường, nhà nước can
thiệp bằng pháp luật với những quy định cụ thể để hạn chế sự độc quyền hay
những hoạt động cạnh tranh không lành mạnh [31]. Từ đó, thúc đẩy môi
trường cạnh tranh công bằng hơn, phát huy cạnh tranh, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Kinh tế nước ta có nhiều thành phần và được pháp luật quy định là
bình đẳng (trong đó có vấn đề cạnh tranh bình đẳng) nhưng trong quá trình
thực hiện, nhiều cơ quan nhà nước đã không thực sự tuân thủ quy định này.
Từ trước đến nay, trong môi trường kinh doanh của chúng ta đã diễn ra tình
trạng phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa các doanh
nghiệp thuộc nhà nước với khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, do quyền lợi của
địa phương, do tính chất cục bộ nên một số cơ quan nhà nước đã có những

14
can thiệp gián tiếp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tạo ra lợi thế
cho một hay một số doanh nghiệp chiếm ưu thế. Tình trạng này vẫn ngày một
tiếp diễn, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của kinh tế và đi ngược lại với
quy luật khách quan. Từ đó xuất hiện những rào cản thương mại, rào cản quy
chế hoặc chiến lược do các tập đoàn kinh tế quốc doanh dựng lên ngay trên thị
trường nội địa làm giảm tính cạnh tranh bình đẳng trong các doanh nghiệp [29].
Như vậy, quản lý cạnh tranh là yêu cầu cần thiết, tất yếu đặc biệt khi
Việt Nam đã chính thức gia nhập trở thành thành viên của Tổ chức Thương

mại Thế giới (WTO) vào ngày 7/11/2007, sự cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt và
quyết liệt hơn bởi vì WTO là sân chơi bình đẳng, nhiều thời cơ nhưng cũng
nhiều thách thức.

1.2. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ
CẠNH TRANH VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh
Pháp luật cạnh tranh là công cụ để tạo lập, duy trì và bảo vệ môi
trường cạnh tranh lành mạnh. Pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh
tranh là tổng thể các quy định, công cụ pháp luật cần thiết nhằm đảm bảo hoạt
động cạnh tranh diễn ra đúng quy luật, văn minh và công bằng … Khuyến
khích và bảo vệ cạnh tranh lành mạnh vừa là mục đích vừa là cách thức để
thực hiện sự điều tiết của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế. Và muốn
khuyến khích cạnh tranh thì Nhà nước phải tạo ra khuôn khổ pháp lý [20]. Tất
cả các trường hợp tập trung kinh tế, lạm dụng vị trí độc quyền, thống lĩnh thị
trường, các hành vi hạn chế cạnh tranh, các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh đều được kiểm soát bởi pháp luật. Nhà nước tiến hành quản lý cạnh
tranh trên thị trường thông qua Luật Cạnh tranh trong đó các quy định của
luật là cách can thiệp trực tiếp của chủ thể quản lý (thông qua cơ quan quản lý
cạnh tranh) tới đối tượng bị quản lý (các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh

15
trên thị trường). Sự kết hợp của nhà nước có hiệu quả cao khi kết hợp với
pháp luật cạnh tranh, quản lý gián tiếp bằng pháp luật mà không phải sự can
thiệp trực tiếp bằng các công cụ khác.
Pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh được hình thành từ
những khung pháp lý cơ bản điều chỉnh vấn đề cạnh tranh. Trong những năm
qua, Việt Nam đã nỗ lực để xây dựng nên hệ thống văn bản pháp luật liên
quan đến vấn đề quản lý cạnh tranh.
- Luật Cạnh tranh 2004 được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam thông qua ngày 06/1/2004 - Là đạo luật điều chỉnh hành vi
quản lý nhà nước đối với kinh doanh, Luật Cạnh tranh quy định về hành vi
hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trình tự, thủ tục giải
quyết vụ việc cạnh tranh, biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh.
- Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Luật Cạnh tranh;
- Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy
định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh;
- Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về
quản lý hoạt động bán hàng đa cấp;
- Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ về
việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Hội
đồng cạnh tranh;
- Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/20006 của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh;
- Thông tư số 19/2005/TT-BTM ngày 08/11/2005 của Bộ Thương mại
hướng dẫn một số quy định tại Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày
24/8/2005 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.
Pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh cũng ghi nhận sự
đóng góp của một số văn bản luật có sự điều chỉnh đối với hoạt động quản lý

16
cạnh tranh theo ngành nghề, trong đó hoạt động quản lý cạnh tranh được xác
định thuộc về cơ quan chuyên ngành: Luật Viễn thông, Luật Điện lực, Luật
Chứng khoán, Luật Ngân hàng … Xu hướng đưa các vấn đề cạnh tranh vào
luật chuyên ngành như vậy đã và đang được thể hiện rõ nét bằng sự ra đời của
nhiều luật điều tiết ngành trong đó có đề cập đến phạm vi quản lý cạnh tranh
thuộc về cơ quan quản lý ngành. Ví dụ, qua Luật Viễn thông, Nhà nước khẳng
định quan điểm thắt chặt quản lý cạnh tranh trong viễn thông. Chính sách
quản lý cạnh tranh thể hiện ở ba mặt chính: mở cửa cạnh tranh, cho phép các

doanh nghiệp được tham gia thị trường; tạo dựng hành lang pháp lý để bảo
đảm cho các doanh nghiệp đã tham gia thị trường có thể thâm nhập thị trường
và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Rõ ràng sự giao thoa và có
những chồng chéo đó của các quy định pháp luật đã gây ra những khó khăn
nhất định cho cơ quan quản lý đồng thời lãng phí nguồn nhân lực. Đây là một
khía cạnh cần được quan tâm nghiên cứu trong pháp luật quản lý cạnh tranh
với phương hướng hoàn thiện sẽ được đề cập đến trong nội dung tại Chương 3
của đề tài luận văn này.
Với những phân tích trên đây, tác giả luận văn đưa ra một số đặc điểm
của pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh Việt Nam như sau:
- Tính mềm dẻo: pháp luật quản lý hoạt động cạnh tranh nhằm điều
tiết và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh nên phải thích ứng với sự
vận động biến đổi của thị trường. Tính chất này còn đòi hỏi ở người vận dụng,
cơ quan quản lý phải hết sức linh hoạt, tránh những dập khuôn cứng nhắc.
- Có sự vận dụng các án lệ (án lệ của tòa án, quyết định của cơ quan
cạnh tranh) bổ sung cho luật thành văn bởi các quy định trong các văn bản
luật cạnh tranh thường rất chung chung.
- Tính xuyên suốt: pháp luật quản lý cạnh tranh xâu chuỗi nhiều nội
dung của các ngành luật như dân sự, thương mại, hình sự, hành chính … Từ
đó hình thành nên đặc trưng riêng của của mình đó là sử dụng các chế tài

17
của ngành luật khác để áp dụng: chế tài dân sự, chế tài hành chính, chế tài
hình sự.
- Tính toàn cầu: Các quy phạm được sử dụng trong hệ thống pháp luật
quản lý cạnh tranh (thể hiện cụ thể qua Luật Cạnh tranh) đã đạt đến trình độ
toàn cầu hóa cao bởi chúng ta đã biết vận dụng những chế định khung của luật
mẫu cạnh tranh do Ủy ban của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển -
UNCTAD ban hành.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh

Pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh được thể hiện trước
hết và quan trọng ở việc nhà nước can thiệp bằng cách thức nào và thẩm
quyền của cơ quan được trao nhiệm vụ thực thi pháp luật cạnh tranh. Vì vậy,
nội dung của pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh mà tác giả
luận văn sẽ nghiên cứu ở đây bao gồm cách thức để nhà nước quản lý cạnh
tranh và cơ quan quản lý cạnh tranh.
- Cách thức quản lý cạnh tranh
Cách thức (hay còn gọi là phương thức) quản lý cạnh tranh được đánh
giá có mức độ quan trọng hơn rất nhiều so với mức độ quản lý cạnh tranh. Sự
can thiệp theo những cách thức có chọn lọc thì sẽ có hiệu quả. Cách thức quản
lý là một vấn đề đặc biệt có ý nghĩa bên cạnh những vấn đề cần nghiên cứu
như cơ quan quản lý cạnh tranh, xử lý vi phạm về cạnh tranh. Không có một
biện pháp nào có thể thay thế cho phương thức mà pháp luật can thiệp vào
hoạt động quản lý cạnh tranh thông qua các điều luật, các văn bản mặc trên
thực tế có nhiều biện pháp sử dụng được trong các lĩnh vực khác như: sự giám
sát của xã hội, người tiêu dùng, công luận… Cách thức quản lý cạnh tranh tập
trung vào việc quy định cách kiểm soát và xử lý đối với các nhóm hành vi:
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh; những hành vi bị coi là hạn chế
cạnh tranh; các hành vi lạm dụng vị thế độc quyền; quy định về hợp nhất, sáp
nhập doanh nghiệp nhằm chống độc quyền.

18
Pháp luật về cạnh tranh là lĩnh vực mới và có nhiều nội dung rất phức
tạp. Hơn thế nữa, ở góc độ pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh
ở Việt Nam thực tế lại chưa được một nhà nghiên cứu nào phân tích, đánh giá
một cách tổng thể mà mới chỉ được đề cập đến ở những nội dung nhất định
trong hoạt động quản lý cạnh tranh. Khó khăn ở đây là cách tiếp cận như thế
nào đối với vấn đề này bởi vì trong pháp luật cạnh tranh, các quy định không
nêu ra cụ thể các chế độ thực hiện để quản lý như thế nào. Các cách thức quản
lý cạnh tranh có hiệu quả hay không phụ thuộc vào tính hợp lý của biện pháp,

chế độ sử dụng và năng lực của cơ quan quản lý. Nếu chúng ta sử dụng cách
thức quản lý cạnh tranh hiệu quả sẽ tạo ra thành công từ đó hạn chế việc phải
áp dụng các chế tài xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Đối với quản lý cạnh tranh, các cách thức quản lý được nghiên cứu và
đưa ra để áp dụng thực chất là còn thiếu về số lượng (cụ thể về các cách thức
quản lý sẽ trình bày ở Chương 2 của của luận văn), chưa đảm bảo về chất
lượng, chưa được các chủ thể trong quan hệ pháp luật cạnh tranh chấp hành
thực hiện nghiêm túc, dẫn tới hiệu quả quản lý cạnh tranh chưa cao để đáp
ứng yêu cầu của thời cuộc.
- Cơ quan quản lý cạnh tranh
Về cơ quan cạnh tranh, ở Việt Nam hiện nay pháp luật quy định có hai
cơ quan là Cục quản lý cạnh tranh (trực thuộc Bộ Công thương) và Hội đồng
cạnh tranh. Tuy nhiên, chỉ có Cục Quản lý cạnh tranh mới là cơ quan quản lý
cạnh tranh quốc gia - cơ quan quản lý chung. Khẳng định này được quy định
trong Luật Cạnh tranh: Cục Quản lý cạnh tranh - cơ quan quản lý nhà nước về
cạnh tranh, tạo lập môi trường cạnh tranh đồng bộ và thống nhất trên phạm vi
toàn quốc [26]. Tại các Điều 49, Điều 50 Luật Cạnh tranh quy định cơ quan
quản lý cạnh tranh do Chính phủ quyết định về thành lập và quy định tổ chức,
bộ máy của Cục Quản lý cạnh tranh. Trong các lĩnh vực chuyên ngành, quản
lý cạnh tranh do các cơ quan chuyên ngành thực hiện và có sự phối hợp hoạt
động với cơ quan quản lý cạnh tranh chung [12].

19
Đối với Hội đồng cạnh tranh, theo quy định tại các Điều 51 và 52 của
Luật Cạnh tranh, cũng là cơ quan do Chính phủ thành lập, được cụ thể về cơ
cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ tại Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày
09/01/2006 nhưng Hội đồng cạnh tranh thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi tổ
chức, xử lý, giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến
hành vi hạn chế cạnh tranh [9]. Việc điều tra đối với các hành vi hạn chế cạnh
tranh lại thẩm quyền của Cục Quản lý cạnh tranh. Các thành viên của Hội

đồng cạnh tranh có một số người hoạt động kiêm nhiệm bên cạnh Ban thư ký
hoạt động chuyên trách. Như vậy Hội đồng cạnh tranh có vị trí của một cơ
quan xét xử chứ không phải là cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh. Vì
thế, trong nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh chỉ xem
xét và nghiên cứu tổng thể về Cục Quản lý cạnh tranh - cơ quan quản lý
chung về cạnh tranh.
Cục Quản lý cạnh tranh thực hiện nhiệm vụ hoạt động trên tất cả các
giai đoạn đối với một vụ việc cạnh tranh không lành mạnh bao gồm: điều tra,
thu thập, tìm kiếm các chứng cứ có liên quan; xét xử, xử lý, đưa ra các quyết
định, giải quyết khiếu nại. Pháp luật cạnh tranh của quốc gia có được thực thi
và hiệu quả phụ thuộc vào hoạt động của chính cơ quan này.
Theo các điều 49, 50, Chính phủ quyết định thành lập và quy định tổ
chức, bộ máy của cơ quan quản lý cạnh tranh và Thủ trưởng cơ quan quản lý
cạnh tranh do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của
Bộ trưởng Bộ Thương mại.
Cụ thể hóa Luật Cạnh tranh, tại Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày
09/01/2006 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Cục quản lý cạnh tranh gồm 7 điều luật.
Căn cứ những quy định trên, năm 2006, Bộ Thương mại (nay là Bộ
Công thương) đã có Tờ trình Chính phủ thành lập cơ quan tương ứng, cụ thể:
Thành lập Cục Quản lý cạnh tranh trên cơ sở gộp 03 cơ quan bao gồm: cơ

20
quan quản lý cạnh tranh, cơ quan điều tra để áp dụng các biện pháp chống bán
phá giá, cơ quan điều tra để áp dụng các biện pháp chống trợ cấp và tự vệ.

1.3. NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT
ĐỘNG QUẢN LÝ CẠNH TRANH
Cũng như bất kỳ hệ thống pháp luật nào, pháp luật điều chỉnh hoạt
động quản lý cạnh tranh đều chịu sự ảnh hưởng, tác động đến từ những yếu tố

khách quan và chủ quan.
- Nhóm các yếu tố nội tại:
+ Những yếu tố tiền đề: trước khi Luật Cạnh tranh - khuôn khổ pháp
lý chính thức của quản lý cạnh tranh ra đời, pháp luật nước ta đã có những ghi
nhận đối với vấn đề cạnh tranh ở Luật Thương mại 1997, Pháp lệnh về giá,
Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Điện lực… Tuy chưa có một khung pháp lý
hoàn chỉnh và thống nhất, chưa có một cơ quan quản lý nhà nước về cạnh
tranh và kiểm soát độc quyền, thiếu chế tài xử phạt nhưng những sự hiện diện
ấy cũng chi phối đến việc xây dựng và thực hiện hoạt động quản lý cạnh tranh
sau này. Những yếu tố tiền đề có ý nghĩa quan trọng để xác định rõ chủ thể
của thị trường, vạch rõ ranh giới giữa nhà nước và thị trường, hình thành được
hệ thống thị trường và đồng bộ. Từ đó xác định được phạm vi điều chỉnh và
các nội dung của pháp luật quản lý cạnh tranh.
+ Bối cảnh đặc thù: chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước bằng
pháp luật cùng với các công cụ quan trọng khác nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh
tế, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của kinh tế
thị trường. Bên cạnh đó, tồn tại nền kinh tế thị trường là tồn tại sự cạnh tranh và
yêu cầu điều tiết cạnh tranh. Tuy nhiên, bối cảnh đặc thù của kinh tế nước ta là
rất khác biệt mà không tương đồng với một quốc gia nào. Pháp luật quản lý cạnh
tranh trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế giữ vị trí và vai trò đặc biệt nhằm
bảo vệ trật tự cho môi trường cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế.

21
- Nhóm các yếu tố bên ngoài:
+ Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế có ảnh hưởng lớn
đến pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý cạnh tranh: khi đó thị trường là
chung của các nước và các nước đều bị ảnh hưởng từ thị trường trên cả mặt tích
cực và tác động tiêu cực. Toàn cầu hóa diễn ra thì kéo theo sự tập trung kinh tế
dẫn tới hạn chế cạnh tranh (đặc biệt là các hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua

lại). Bên cạnh đó, với việc trở thành thành viên của WTO, nền kinh tế chúng ta
phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Việt Nam đã cam kết mở cửa thị
trường dịch vụ với nội dung mở cửa tất cả 11 ngành dịch vụ và khoảng 110
phân ngành [1]. Vì vậy, Việt Nam phải thực thi tốt pháp luật quản lý cạnh
tranh của mình để thiết lập nên môi trường cạnh tranh công bằng, phù hợp với
quy định pháp lý của WTO. Hơn nữa, pháp luật quản lý cạnh tranh cũng đặt
ra yêu cầu không được xa rời với tình hình thực tiễn của nền kinh tế đất nước.
+ Kinh nghiệm về xây dựng và thực thi pháp luật quản lý cạnh tranh
của các nước có nền kinh tế thị trường từ rất sớm và hệ thống chính sách pháp
luật về cạnh tranh phát triển: Pháp, Nhật Bản, Canađa, Hoa Kỳ, Anh…Chúng
ta đã có những học hỏi và tiếp thu kỹ thuật xây dựng luật cùng với mô hình cơ
quan cạnh tranh từ những nước đó và chọn lọc cho phù hợp với điều kiện tình
hình thực tế của Việt Nam. Trên thực tế, Việt Nam đã có những học tập từ
pháp luật cạnh tranh của Đức (quốc gia ở Châu Âu có lịch sử pháp luật cạnh
tranh lâu đời nhất) về xây dựng mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh. Đối với Hội
đồng cạnh tranh, Việt Nam thành lập cơ quan đặc biệt này theo kinh nghiệm mô
hình của Cộng hòa Pháp. Quy định về tính tỷ lệ tiền phạt cho hành vi vi phạm
pháp luật cạnh tranh cũng được chúng ta xây dựng trên cơ sở Pháp luật cạnh
tranh của EU [14]. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý cạnh tranh, cơ
quan cạnh tranh của chúng ta cũng đã có sự phối hợp học hỏi kinh nghiệm của
Nhật Bản - quốc gia có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động quản lý cạnh tranh
(đặc biệt là kiểm soát đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh).

×