Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Chế tài xử lý vi phạm đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (963.73 KB, 97 trang )

LƢƠNG NGỌC QUANG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

ĐỀ TÀI: CHẾ TÀI XỬ LÝ VI PHẠM ĐỐI VỚI HÀNH
VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ: LƢƠNG NGỌC QUANG
2014 - 2016

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

ĐỀ TÀI: CHẾ TÀI XỬ LÝ VI PHẠM ĐỐI VỚI HÀNH VI
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM

HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ: LƢƠNG NGỌC QUANG


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 14K551010034

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TH.S LÊ ĐÌNH VINH

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của TS. Lê Đình Vinh. Các nội dung nghiên cứu trong đề tài
này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Những số
liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính
tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham
khảo.Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số
liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn
gốc.Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về
nội dung luận văn của mình.
Hà Nội, tháng 12 năm 2016
Người thực hiện
Lương Ngọc Quang

i


LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ
trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong suốt
thời gian từ khi bắt đầu học tập, nâng cao trình độ chuyên ngành Luật Kinh tế tại
Viện Đại học Mở Hà Nội, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý

Thầy Cô, gia đình và bạn bè. Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, tôi xin gửi đến quý
Thầy Cô ở Khoa Luật – Viện Đại học Mở Hà Nội đã cùng với tri thức và tâm huyết
của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho tôi trong suốt thời gian học tập
tại nâng cao trình độ.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn T.S Lê Đình Vinh đã tận tâm hướng dẫn để
tôi có thể hoàn thành được luận văn này. Một lần nữa, tôi xin gửi đến T.S Lê Đình
Vinh lời cảm ơn sâu sắc nhất. Do kiến thức của tôi còn hạn chế do vậy luận văn này
không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
quý báu của quý Thầy Cô để hoàn thiện hơn luận văn này và trong lĩnh vực mà tôi
đang nghiên cứu.
Người thực hiện
Lương Ngọc Quang

ii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: .......................................................................................................................5
KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ CÁC CHẾ TÀI
ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH .............................5
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH .................................................................................................................5
1.1.1. Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh..................................5
1.1.2. Đặc điểm hành vi cạnh tranh không lành mạnh ........................................7
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XỬ LÝ CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH .............................................................................................................. 10
1.3. CÁC CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH............................................................................................................................ 13
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành

mạnh............................................................................................................................ 13
1.3.2. Căn cứ áp dụng các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh............................................................................................................................ 15
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................................. 19
CHƢƠNG 2: .................................................................................................................... 20
NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH ....................... 20
2.1. NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH ..................... 20
2.1.1 Nguồn pháp luật về các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh............................................................................................................................ 20
2.1.2. Các nội dung cơ bản của pháp luật về các chế tài đối với hành vi cạnh
tranh không lành mạnh ........................................................................................... 27
2.1.3. Đánh giá các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh của
pháp luật Việt Nam ................................................................................................... 49

iii


2.2. THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ HÀNH VI CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH ............................................................................ 51
2.2.1. Tình hình và kết quả thi hành pháp luật về xử lý hành vi cạnh tranh
không lành mạnh...................................................................................................... 51
2.2.2. Thực trạng và nguyên nhân về thì hành pháp luật về xử lý các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh ................................................................................. 56
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2: ............................................................................................ 66
CHƢƠNG 3: .................................................................................................................... 67
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ CÁC CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH ............................................................................... 67

3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI
HÀNH PHÁP LUẬT VỀ CÁC CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH ............................................................................................. 67
3.1.1. Tạo lập một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp.......................... 67
3.1.2. Đáp ứng được các yêu cầu về phát triển kinh tế, xã hội ......................... 68
3.1.3. Phù hợp với các cam kết mới mà Việt Nam trong các Hiệp định song
phương và đa phương .............................................................................................. 69
3.2. ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ CÁC CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH ............................................................................................. 70
3.3.CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI
HÀNH PHÁP LUẬT VỀ CÁC CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH ............................................................................................. 71
3.3.1. Thực hiện việc hoàn thiện thể chế pháp lý, xây dựng hệ thống biện
pháp xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh một cách có hệ
thống và đồng bộ ....................................................................................................... 71
3.3.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động các Cơ quan quản lý cạnh tranh ........... 78

iv


3.3.3. Nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật cạnh
tranh và những chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh thông qua
việc tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật................................................... 82
3.3.4. Tăng cường hợp tác quốc tế ......................................................................... 83
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 87

v



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong một thế giới đang ngày càng hội nhập sâu rộng như hiện nay đòi
hỏipháp luật của các quốc gia phải có những chuẩn mực tương đồng để đảm bảo
quyền tự do kinh doanh và trật tự kinh doanh trong những hoạt động giao lưu kinh
tế quốc tế. Từ thực tế đó, cũng như các quốc gia hội nhập khác, Việt Nam cũng
đang từng bước hoàn thiện thể chế pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường nhằm
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước hợp tác và phát triển.
Có thể khẳng định, một trong những quy luật kinh tế khách quan tác động
mạnh mẽ lên sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp chính là quy luật cạnh
tranh. Cạnh tranh cũng chính là đòn bẩy, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp
khai thác và sử dụng tiềm năng, nội lực của bản thân mình kết hợp với các yếu tố
của thị trường một cách có hiệu quả. Cạnh tranh là quyền cơ bản của các chủ thể
kinh doanh trên thị trường và được pháp luật bảo hộ. Nhưng trong "cuộc chiến"
tranh giành thị trường, bên cạnh những hoạt động cạnh tranh lành mạnh không thể
tránh khỏi tình trạng một số doanh nghiệp sử dụng những "thủ thuật" đối với đối thủ
của mình hay còn được gọi là những hành vi “cạnh tranh không lành mạnh”. Những
hành vi này nếu không được kiểm soát và loại trừ sẽ làm méo mó quan hệ thị
trường, gây ra những hậu quả không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của các chủ
thể kinh doanh, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của người tiêu dùng và
toàn xã hội. Chính vì vậy, nhà nước phải ban hành pháp luật về cạnh tranh, tạo
khung khổ pháp lý để bảo hộ và khuyến khích hoạt động cạnh tranh lành mạnh,
đồng thời kiểm soát và ngăn ngừa các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Luật Cạnh tranh được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2014 và có
hiệu lực từ ngày 01 tháng 6 năm 2005. Qua 10 năm thi hành, Luật cạnh tranh bước
đầu đã phát huy tác dụng thiết thực trong cuộc sống, trở thành công cụ pháp lý hữu
hiệu để nhà nước kiểm soát các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh. Mặc dù
vậy, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh vẫn tiếp tục diễn ra và có chiều hướng
ngày càng phổ biến. Điều đó cho thấy đã đến lúc phải nhìn nhận lại khung pháp luật

1


về xử lý các hình thức cạnh tranh không lành mạnh, đồng thời nâng cao nhận thức
của các thương nhân về hành vi cạnh tranh không lành mạnh để ngăn ngừa. Chính
vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Chế tài xử lý vi phạm đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam” làm Luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu pháp luật về cạnh tranh nói chung và các chế tài xử ký hành
vi cạnh tranh không lành mạnh nói riêng đã nhận được sự quan tâm của rất nhiều
học giả trong thời gian gần đây. Tiêu biểu phải kể đến các công tình nghiên cứu
như: Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam (Sách chuyên khảo) - NXB Tư pháp - TS.
Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, ThS. Nguyễn Ngọc Sơn; Nâng cao năng lực cạnh
tranh và bảo hộ sản xuất trong nước - NXB Lao động - PTS. Lê Đăng Doanh, ThS.
Nguyễn Thị Kim Dung, PTS. Trần Hữu Hân; Pháp luật về chống cạnh tranh không
lành mạnh ở Việt Nam - NXB Chính trị Quốc gia - TS. Lê Anh Tuấn; Bình luận
khoa học Luật Cạnh tranh - NXB Chính trị Quốc gia - TS. Lê Hoàng Oanh; Luận
văn thạc sỹ Luật học "Xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở
Việt Nam hiện nay", năm 2004 của Nguyễn Thị Thu Hiền… Các bài đăng trên tạp
chí như: "Thực thi pháp luật cạnh tranh trong viễn thông: Hiểu thế nào cho đúng?"
của TS. Phan Thảo Nguyên, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12(224)/2006; "Về
thoả thuận hạn chế cạnh tranh" của tác giả Trần Thị Nguyệt, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 1(237)/2008; "Hoàn thiện các quy định pháp luật về cạnh tranh của các
tổ chức có hoạt động ngân hàng trong bối cảnh hội nhập quốc tế nhìn từ góc độ
những bất cập và yêu cầu đặt ra", của tác giả Viên Thế Giang, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 4(240)/2008; "Bàn về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi có
hành vi gây thiệt hại cho môi trường cạnh tranh" của TS. Dương Anh Sơn và ThS.
Nguyễn Ngọc Sơn, Tạp chí Khoa học pháp lý số 1(50)/2009… Tuy nhiên, các công
trình và các bài viết nêu trên chỉ tiếp cận ở góc độ khái quát về khoa học pháp lý đối
với quan hệ cạnh tranh nói chung và chống cạnh tranh không lành mạnh nói riêng,

hoặc nghiên cứu quan hệ cạnh tranh trong từng lĩnh vực, dưới những góc độ khác

2


nhau. Chưa có một công trình nào nghiên cứu tổng thể và chuyên sâu về chế định
pháp luật xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Đề tài " Chế tài xử lý vi phạm đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
theo pháp luật Việt Nam " có thể xem là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách
tổng thể và chuyên sâu về các chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
đánh giá những bất cập của hệ thống các quy định xử phạt và cơ chế đảm bảo thực
hiện để đề xuất các biện pháp hoàn thiện pháp luật nhằm kiểm soát chặt chẽ các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các
chế tài xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Từ những nghiên cứu trên rút ra được những đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật
cạnh tranh và chống cạnh tranh không lành mạnh. Từ đó tác giả đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các chế tài xử lý đối với các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, góp phần đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong
hoạt động kinh doanh - thương mại.
Với mục đích đó, đề tài xác định nhiệm vụ nghiên cứu là:
- Làm rõ lý luận về các chế tài xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh nhằm xây dựng môi trường kinh doanh trong sạch, bình đẳng, bảo vệ quyền
tự do kinh doanh và quyền lợi của người tiêu dùng.
- Phân tích và đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành về các chế
tài xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh; thực trạng cạnh tranh không
lành mạnh ở nước ta và vấn đề xử lý vi phạm.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam
về xử lý đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh phù hợp với điều kiện,

hoàn cảnh thực tế của nước ta và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian sắp
tới
- Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn của
khoa học pháp lý đối với các quan hệ cạnh tranh, đi sâu phân tích các hành vi cạnh

3


tranh không lành mạnh và các chế tài xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
theo pháp luật hiện hành, cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễncùng các giải
pháp để hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử. Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và đánh
giá, kết hợp so sánh, đối chiếu với pháp luật cạnh tranh của một số nước trên thế
giới để đưa ra kiến nghị và giải pháp mang tính thực tiễn và khả thi để áp dụng tại
Việt Nam
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn khi
thi hành pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở nước ta, đánh giá về hiệu
quả của các chế tài xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh trong quá trình áp dụng, so
sánh với pháp luật một số nước trên thế giới, từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật về
chế tài xử lý vi phạm, các giải pháp hạn chế, tiến tới kiểm soát hoàn toàn các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng,
công bằng giữa các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn gồm 3 chương:
Chương I. Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh và các chế tài xử lý

hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Chương II. Nội dung pháp luật về các chế tài xử lý cạnh tranh không lành
mạnh và thực tiễn thi hành.
Chương III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về các chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

4


Chƣơng 1:
KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH VÀ CÁC CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH
1.1.1. Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh là một hiện tượng xã hội tất yêu diễn ra giữa các chủ thể trên thị
trường. Cạnh tranh là biểu hiện của sự ganh đua, kình địch giữa các doanh nghiệp
nhằm mục đích tranh giành thị trường mua hoặc bán sản phẩm nhằm chiếm lĩnh thị
phần và thu về lợi ích cao nhất cho doanh nghiệp. Như vậy, cạnh tranh là yếu tố
luôn gắn liền với nền kinh tế thị trường, tuỳ từng cách hiểu và cách tiếp cận mà có
nhiều quan điểm về cạnh tranh.
- Cạnh tranh là sự nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp mình sao cho tốt hơn doanh nghiệp khác.
- Cạnh tranh là sự thôn tính lẫn nhau giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm giành
giật thị phần và khách hàng trên thị trường liên quan về doanh nghiệp của mình.
- Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm
giành được những ưu thế hơn cùng một loại sản phẩm dịch vụ hoặc cùng một loại
khách hàng trên thị trường liên quan về phía mình so với các đối thủ cạnh tranh.
Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về hành vi cạnh tranh không lành

mạnh. Trước hết, một loại quan điểm cho rằng hành vi cạnh tranh không lành mạnh
bao gồm tất cả hành vi xâm hại tới hoạt động cạnh tranh trên thị trường, xâm hại tới
quyền tự do cạnh tranh công bằng của các doanh nghiệp. Theo quan điểm này, các
hành vi hạn chế cạnh tranh (nhất là các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường) cũng thuộc vào phạm trù “hành vi cạnh tranh
không lành mạnh”.

5


Một loại quan điểm về “cạnh tranh không lành mạnh” được thể hiện trong
Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 10bis – được bổ sung
vào Công ước từ năm 1900) thì bất cứ hành vi nào không trung thực trong hoạt
động thương mại và công nghiệp đều bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Luật Cạnh tranh của Việt Nam hiện hành định nghĩa hành vi cạnh tranh
không lành mạnh là “hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh
doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại
hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng” (Điều 3 Khoản 4). Điều 39 Luật Cạnh
tranh quy định cụ thể một số loại hành vi được coi là hành vi cạnh tranh không lành
mạnh như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, ép buộc trong kinh
doanh, gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt động của doanh nghiệp khác,
quảng cáo và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, phân biệt đối xử của
hiệp hội, bán hàng đa cấp bất chính và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
khác do Chính phủ quy định thỏa mãn các tiêu chí quy định tại Khoản 4 Điều 3
Luật Cạnh tranh.
Có thể thấy, trong 3 cách tiếp cận về khái niệm “cạnh tranh không lành
mạnh” kể trên, theo cách tiếp cận thứ nhất, số lượng những hành vi bị coi là hành vi
cạnh tranh không lành mạnh sẽ rất lớn. Tuy nhiên, cách tiếp cận này có thể sẽ đưa
đến sự lẫn lộn trong cơ chế xử lý giữa hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh

tranh không lành mạnh. Hai loại hành vi này có những đặc điểm khác biệt về bản
chất, không thể đồng nhất. Hành vi hạn chế cạnh tranh thường đòi hỏi doanh nghiệp
hoặc nhóm doanh nghiệp vi phạm phải có vị thế nhất định trên thị trường – hay theo
ngôn ngữ kinh tế học, doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp phải có “quyền lực
thị trường” – khả năng chi phối, lũng đoạn thị trường nhất định và dựa trên năng lực
này, doanh nghiệp thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh. Đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường không phải là vấn đề
quan trọng hàng đầu. Thậm chí, chính các doanh nghiệp nhỏ lại có xu hướng thực

6


hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh bằng cách nhái nhãn mác, “ăn theo” vị thế
của các doanh nghiệp lớn trên thị trường.
Các tiếp cận thứ hai như trong Công ước Paris thì khái niệm “cạnh tranh
không lành mạnh” có nội hàm hẹp hơn, chủ yếu nhằm đến các hành vi có tính chất
gian dối trong hoạt động thương mại, không bao hàm một số hành vi vốn cũng được
coi là các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật của nhiều quốc gia
như hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, xâm phạm bí mật
kinh doanh (bí mật thương mại) v.v… Với mỗi nước, tùy theo điều kiện kinh tế xã
hội cụ thể của mình đều có cách tiếp cận riêng về khái niệm “cạnh tranh không lành
mạnh”, nhưng nhìn chung đều bị chi phối bởi quy định của Công ước Paris.
Cách tiếp cận khái niệm “cạnh tranh không lành mạnh” theo

Luật Cạnh

tranh Việt Nam có nội hàm hẹp hơn cách tiếp cận thứ nhất nhưng lại rộng hơn cách
tiếp cận của Công ước Paris. Tác giả cho rằng, trong điều kiện thực tế của Việt Nam
hiện nay, việc xác định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh như quy định tại
Điều 39 Luật Cạnh tranh là tương đối phù hợp, mặc dù có một số hành vi như “phân

biệt đối xử của hiệp hội” và “bán hàng đa cấp bất chính” khi xếp vào nhóm các
hành vi “cạnh tranh không lành mạnh” vẫn còn gây ra những tranh cãi.
1.1.2. Đặc điểm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm “hành vi cạnh tranh
không lành mạnh”, nhưng về tổng thể hành vi cạnh tranh không lành mạnh có một
số đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các chủ
thể kinh doanh trên thương trường.
Điều 2 Luật Cạnh tranh 2004 quy định về đối tượng áp dụng của Luật này là
các tổ chức, cá nhân kinh doanh (gọi chung là doanh nghiệp) thuộc mọi thành phần
kinh tế khác nhau, bao gồm doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ
công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà
nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam cũng như các hiệp hội
ngành nghề hoạt động ở Việt Nam.

7


Căn cứ quy định trên thì đối tượng thực hiện các hành vi cạnh tranh và cạnh
tranh không lành mạnh có thể thuộc mọi lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. Xét trên góc
độ thị trường, hành vi kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là hành vi cạnh
tranh trong mối tương quan với doanh nghiệp khác. Mặt khác, hoạt động kinh
doanh là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi và được thực hiện trên thị trường. Như
vậy, hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải là những hành vi được các doanh
nghiệp thực hiện trên thị trường, trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức
kinh doanh và được thực hiện nhằm mục đích sinh lợi.
Tuy nhiên, quy định về chủ thể của hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo
Luật Cạnh tranh chưa có sự thống nhất. Như đã trích dẫn ở trên, quy định về đối
tượng áp dụng của Luật cạnh tranh bao gồm các doanh nghiệp và các hiệp hội
ngành nghề hoạt động ở Việt Nam. Nhưng khi định nghĩa về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh Luật Cạnh tranh lại nêu: "Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là
hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp". Như vậy, quy định về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh đã loại trừ một đối tượng chủ thể của hành vi cạnh tranh không
lành mạnh là các hiệp hội ngành nghề. Trong khi đó, hành vi cạnh tranh không lành
mạnh được liệt kê bao gồm cả hành vi phân biệt đối xử của hiệp hội.
Thứ hai, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi trái với các
chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh.
Đặc điểm này phản ánh bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh và
là căn cứ pháp lý để xác định hành vi cạnh tranh nào là lành mạnh, hành vi nào là
không lành mạnh. Có thể thấy hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra trong
mọi lĩnh vực của nền kinh tế với các hình thức biểu hiện tinh vi, gây khó khăn cho
các doanh nghiệp làm ăn chân chính và cho toàn bộ nền kinh tế. Do đó việc xác
định một hành vi cạnh tranh là không lành mạnh tương đối phức tạp và cần phải dựa
trên hai căn cứ chính. Một là, căn cứ vào luật thực định, cụ thể là những tiêu chuẩn
đã được lượng hóa bằng pháp luật, khi hành vi cạnh tranh trái với quy định của
pháp luật sẽ bị coi là không lành mạnh. Hai là, căn cứ vào tập quán kinh doanh

8


thông thường, tập quán này đã được thừa nhận rộng rãi trong đời sống của thị
trường.
Đối với nền kinh tế thị trường chưa phát triển như ở Việt Nam thì các thông
lệ, tập quán thương mại chưa đủ chín muồi để tạo thành các chuẩn mực đạo đức
kinh doanh, được chấp nhận và thực hiện thống nhất như những quy tắc có tính bắt
buộc. Chính vì vậy việc xác định một hành vi có bị coi là cạnh tranh không lành
mạnh hay không chủ yếu căn cứ vào các quy định của pháp luật.
Thứ ba, hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại hoặc có thể gây
thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp
khác hoặc của người tiêu dùng.

Đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt giữa hành vi cạnh tranh không lành
mạnh với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Thoả thuận hạn chế cạnh tranh là sự
thống nhất hành động của nhóm doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ đối thủ
cạnh tranh, hạn chế khả năng hành động độc lập của đối thủ cạnh tranh, làm thay
đổi tình trạng và quy luật cạnh tranh trên thị trường. Theo pháp luật cạnh tranh của
Cộng hoà Pháp, "các dạng thoả thuận minh bạch hoặc thoả thuận ngầm có nội dung
gây hậu quả ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường
đều bị nghiêm cấm" [2]. Luật Cạnh tranh của Liên minh Châu Âu cũng có quy định:
“Mọi thoả thuận giữa các doanh nghiệp, mọi quyết định liên kết giữa các doanh
nghiệp và mọi loại thoả thuận khác có khả năng điều chỉnh quan hệ thương mại
giữa các quốc gia thành viên và có đối tượng hoặc hệ quả ngăn cản, hạn chế hoặc
làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường chung của liên minh, thì đều bị
nghiêm cấm [1].”
Pháp luật cạnh tranh của CHLB Đức cấm "các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh có thể gây ảnh hưởng đáng kể về cạnh tranh làm tổn hại đến đối thủ cạnh
tranh, người tiêu dùng và các chủ thể tham gia thị trường khác" [8]. Pháp luật cạnh
tranh của Thái Lan cũng có quy định tương tự: "thương nhân không được tiến hành
các hoạt động cạnh tranh không tự do và không bình đẳng, không được tiến hành

9


các hoạt động gây thiệt hại, cản trở hoặc hạn chế đối với những hoạt động của
những thương nhân khác…" [7].
Như vậy, khi một hành vi cạnh tranh được thực hiện nhưng không theo
nguyên tắc nói trên, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp khác hoặc
của người tiêu dùng, thì hành vi cạnh tranh đó được coi là không lành mạnh. Thiệt
hại mà hành vi gây ra có thể là đã có thực và xác định được nhưng cũng có thể là
thiệt hại có nguy cơ xảy ra (tiềm năng) nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XỬ LÝ CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG

LÀNH MẠNH
Mục đích cơ bản của pháp luật cạnh tranh là nhằm tạo ra môi trường pháp lý
bình đẳng, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, công bằng. Song pháp luật cạnh tranh
không tự thân đi vào cuộc sống nếu không có sự hỗ trợ của các biện pháp và cơ chế
đảm bảo thực hiện. Trong hệ thống các cơ chế đảm bảo thực hiện đó, các chế tài xử
lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh đóng vai trò rất quan trọng. Sự cần thiết của
việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh biểu hiện ở những khía cạnh cơ
bản sau đây:
- Xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh giúp bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các doanh nghiệp, chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh
của các doanh nghiệp đối thủ.
Pháp luật cạnh tranh ra đời với mục đích là bảo vệ quyền tự do kinh doanh
lành mạnh của các doanh nghiệp trên thương trường. Những hình thức cạnh tranh
phi pháp, biến tướng đều làm méo mó bản chất vốn có của quan hệ thị trường, xâm
hại quyền và lợi ích hợp pháp của các đối thủ kinh doanh khác. Thực tế này đặt ra
yêu cầu phải có các chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh để lập lại trật
tự thị trường, giải phóng các doanh nghiệp ra khỏi sự kiềm toả và tác động của
những hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Các chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh được xây dựng đã tạo
điều kiện và cơ chế đảm bảo cho các chủ thể kinh doanh tự bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình, trừng phạt các hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh, đảm

10


bảo quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp và trật tự thị trường. Ngoài ra,
vai trò ngăn chặn các doanh nghiệp thu lợi bất chính bằng việc thực hiện hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, kiềm chế các chủ thể kinh doanh thực hiện hành vi trái
pháp luật, nâng cao nhận thức của họ về "đạo đức trong kinh doanh", đảm bảo chữ
"tín", khích lệ sự năng động, tự chủ và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các doanh

nghiệp cũng là một nội dung quan trọng của quy phạm pháp luật cạnh tranh.
- Xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhằm bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng (khách hàng).
Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp luôn gắn liền với nhu cầu của
khách hàng. Chính nhu cầu của khách hàng buộc các doanh nghiệp phải luôn xác
định: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào nhằm đáp ứng lại
những yêu cầu đó. Khách hàng thường có xu hướng lựa chọn các sản phẩm hàng
hoá và dịch vụ phù hợp với nhu cầu, sở thích và túi tiền của mình. Điều này chính là
định hướng cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh và cung ứng
dịch vụ của mình. Nói cách khác, khách hàng là đối tượng được các doanh nghiệp
hướng tới để phục vụ và khai thác.
Chính vì lẽ đó để tồn tại bền vững và phát triển, doanh nghiệp luôn tìm mọi
cách lôi kéo khách hàng về phía mình, tranh giành thị trường với các đối thủ khác
chính là hoạt động thu hút khách hàng về với mình. Tuy nhiên khả năng đáp ứng
nhu cầu của khách hàng lại bị khống chế bởi khả năng đáp ứng và kiểm soát từ phía
doanh nghiệp. Trong một số trường hợp, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người tiêu
dùng, các doanh nghiệp đã cung cấp hàng hoá và dịch vụ kém chất lượng; gian dối,
che lấp những khiếm khuyết của sản phẩm và dịch vụ hoặc cố tình đưa ra những chỉ
dẫn gây nhầm lẫn… Người tiêu dùng lúc này thường lại không có đủ cơ sở để khiếu
kiện vì giao dịch hoàn toàn thiết lập một cách tự nguyện. Vì thế, nguyên tắc "trung
thực", "thiện chí" trong giao kết hợp đồng dường như rất khó kiểm soát. Lúc đó,
đạo đức trong cạnh tranh cùng với những quy phạm mang tính cấm đoán của nó sẽ
đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sự trung thực của thị trường và lợi ích của
người tiêu dùng.

11


Như vậy, các chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh góp phần can
thiệp để bảo vệ người tiêu dùng trước những hành vi không trung thực và không

công bằng của các doanh nghiệp; đặt ra những yêu cầu về việc đảm bảo những
thông tin chính xác về sản phẩm và dịch vụ, kiểm soát hoạt động quảng cáo, khuyến
mại và trừng phạt các biểu hiện không lành mạnh trong lĩnh vực này; nâng cao trách
nhiệm của các nhà sản xuất và cung ứng dịch vụ trên thị trường, đáp ứng được nhu
cầu và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng.
- Xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh góp phần tạo lập môi
trường kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, công bằng.
Như đã nói ở trên, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, công bằng là nội hàm
của quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp. Pháp luật cạnh tranh nói chung
và những chế tài xử lý vi phạm của nó đã bảo vệ thị trường và quan hệ cạnh tranh
bằng cách chống lại và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Trong thị trường tự do, các doanh nghiệp không chịu sự chi phối nào từ phía
Nhà nước và các doanh nghiệp khác. Các quy luật kinh tế khách quan, trong đó có
quy luật cạnh tranh, sẽ tự thân tác động và quyết định các quan hệ kinh tế, quyết
định đến hoạt động của các doanh nghiệp. Vì thế, trên thị trường thực tế đã nảy sinh
rất nhiều tiêu cực phát sinh từ cạnh tranh. Bằng các thủ đoạn bất chính, những toan
tính không phù hợp với truyền thống kinh doanh lành mạnh, nhiều doanh nghiệp đã
thực hiện các hành vi xâm hại đến trật tự kinh doanh, gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt
hại cho đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng.
Thông qua việc loại trừ các hành vi phản đạo đức kinh doanh, giành giật
khách hàng nhằm tăng lợi nhuận một cách bất hợp pháp của các doanh nghiệp, việc
xử lý đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã góp phần vào việc bảo vệ
quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh trên thị trường, bảo vệ môi
trường cạnh tranh và các quan hệ thị trường và đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế trong thời kỳ mới.

12


1.3. CÁC CHẾ TÀI ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH

MẠNH
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh
Như đã phân tích ở trên, cạnh tranh chính là là một trong những quy luật
kinh tế cơ bản, khách quan của nền kinh tế thị trường. Nhưng trong thực tế kinh
doanh, không ít doanh nghiệp lựa chọn việc sử dụng các thủ đoạn cạnh tranh bị coi
là "chơi xấu", gây phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp
khác và tác động xấu đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Với những trường
hợp đó, nếu các doanh nghiệp bị thiệt hại chứng minh được tổn thất của mình là do
hành vi cạnh tranh không lành mạnh của đối thủ gây ra thì có thể yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền áp dụng các chế tài xử lý đối với bên vi phạm. Khi đó cho dù là áp
dụng chế tài xử lý nào để phản ứng trước các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
thì các hình thức xử lý đó cũng đều thể hiện sự đánh giá tiêu cực của Nhà nước và
xã hội về hành vi và chủ thể thực hiện hành vi đó, buộc chủ thể vi phạm phải gánh
chịu những hậu quả bất lợi do đã thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Từ
đó có thể rút ra khái niệm cơ bản nhất về các chế tài xử lý vi phạm đối với hành vi
cạnh tranh không lành mạnh như sau: “Chế tài xử lý vi phạm đối với với hành vi
cạnh tranh không lành mạnh là những hình thức trách nhiệm pháp lý được Nhà
nước áp dụng đối với các chủ thể kinh doanh, buộc các chủ thể đó phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi do đã có hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại
cho các chủ thể kinh doanh và các chủ thể khác.”
Dựa vào tính chất của các nhóm quan hệ xã hội được pháp luật cạnh tranh
điều chỉnh, chế tài xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh được chia
thành nhiều loại bao gồm: xử lý hành chính, xử lý dân sự và xử lý hình sự. Việc áp
dụng chế tài xử lý nào phụ thuộc vào những đặc điểm của lợi ích mà pháp luật cần
bảo vệ, tính chất của hành vi phạm pháp, thiệt hại do các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh gây ra. Ngoài đặc điểm chung giống chế tài xử lý các hành vi vi phạm
khác, như: chỉ áp dụng khi có vi phạm pháp luật xảy ra; là hình thức cưỡng chế của

13



Nhà nước đối với chủ thể vi phạm; chủ thể vi phạm phải gánh chịu một hậu quả bất
lợi nhất định, chế tài xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp
luật Việt Nam còn có những đặc điểm riêng:
- Chủ thể bị áp dụng các chế tài xử lý vi phạm là các doanh nghiệp, hiệp hội
ngành nghề hoạt động ở Việt Nam.
Như đã phần thích ở trên, chủ thể của quan hệ cạnh tranh được quy định tại
Điều 2 Luật Cạnh tranh 2004 bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế và các hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam, trong tất cả các ngành nghề
kinh tế, các khâu, các công đoạn của quá trình đầu tư. Trong quá trình thực hiện
hoạt động kinh doanh, nếu các chủ thể đó vi phạm các quy định về cạnh tranh lành
mạnh thì sẽ bị áp dụng các chế tài xử lý.
- Bên bị áp dụng chế tài xử lý phải gây ra thiệt hại cho bên kia khi thực hiện
hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Một trong những đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là luôn
gây ra một thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại (thiệt hại ở dạng tiềm năng) cho chủ
thể kinh doanh khác, tác động xấu đến môi trường kinh doanh và trật tự quản lý
kinh tế của Nhà nước. Như vậy, yếu tố thiệt hại là một dấu hiệu để nhận diện hành
vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, thiệt hại đó phải do hành vi cạnh tranh
không lành mạnh được quy định tại Điều 39 Luật Cạnh tranh 2004 gây ra, khi đó
chủ thể thực hiện hành vi mới phải chịu một chế tài xử lý trách nhiệm pháp lý
trương ứng.
- Các chế tài xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy
định trong các văn bản pháp luật khác nhau, thuộc các ngành luật khác nhau.
Pháp luật cạnh tranh của các nước có nền kinh tế phát triển được quy định
thành một đạo luật riêng, có những chế tài xử lý riêng đối với mỗi hành vi vi phạm
và được pháp điển hoá trong một văn bản pháp luật. Đối với pháp luật cạnh tranh
Việt Nam, để hỗ trợ cho các quy định về cạnh tranh là hệ thống các biện pháp xử lý
hành chính, hình sự và dân sự nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau như:


14


Luật Cạnh tranh, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự,
Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thương mại…
1.3.2. Căn cứ áp dụng các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Cũng như các vi phạm pháp luật khác, để áp dụng các chế tài xử lý đối với
hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì các căn cứ để xác định bao gồm: hành vi vi
phạm (hành vi cạnh tranh không lành mạnh), thiệt hại do hành vi gây ra, mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại, lỗi thực hiện hành vi.
- Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là sự chiếm đoạt ưu thế
cạnh tranh, huỷ hoại ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác một cách bất hợp
pháp hoặc là hành vi tạo ra ưu thế cạnh tranh giả tạo.
Biểu hiện của các hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp
khác một cách bất hợp pháp bao gồm: Chiếm đoạt các bí mật thương mại mà doanh
nghiệp khác đã phải đầu tư nhiều công sức mới có được và nó đã trở thành tài sản
của doanh nghiệp đó; hành vi nhái lại nhãn mác, bao bì, kiểu dáng, khẩu hiệu kinh
doanh, thương hiệu, tạo sự nhầm lẫn trong khách hàng và gây thiệt hại trực tiếp cho
đối thủ cạnh tranh…
Việc huỷ hoại ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác được biểu hiện thành
các hành vi như: Gièm pha đối thủ cạnh tranh, gây rối hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp khác,… khiến đối thủ kinh doanh bị mất uy tín, mất thời gian và tiền
của để phục hồi danh tính, khắc phục hậu quả.
Hành vi tạo ưu thế cạnh tranh giả tạo thông qua việc quảng cáo gian dối, nhái
thương hiệu, kiểu dáng sản phẩm của doanh nghiệp khác,… gây thiệt hại trực tiếp
cho đối thủ cạnh tranh và cho cả người tiêu dùng.
Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh đó được các doanh nghiệp thực
hiện với mục đích để tiếp cận với thị trường khách hàng và thu lợi nhuận một cách

nhanh nhất. Những hành vi này không có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp
chân chính nỗ lực phát triển, mà ngược lại sẽ triệt tiêu mất động lực cạnh tranh lành
mạnh và một sân chơi công bằng giữa các nhà kinh doanh.

15


- Thiệt hại trong cạnh tranh không lành mạnh
Thiệt hại là một đặc điểm cơ bản của hành vi cạnh tranh không lành mạnh và
là điểm phân biệt giữa cạnh tranh không lành mạnh với thoả thuận hạn chế cạnh
tranh. Tuy nhiên hầu hết trong mọi trường hợp, việc xác định thiệt hại để phân biệt
thiệt hại do hành vi cạnh tranh hợp pháp gây ra và thiệt hại do hành vi cạnh tranh
không lành mạnh gây ra không phải là đơn giản. Vì các doanh nghiệp có quyền thực
hiện tất cả các biện pháp mà pháp luật không cấm để cạnh tranh, lôi cuốn khách
hàng về phía mình, khi đó đối thủ bị mất đi một lượng khách hàng nhất định (tức là
có thiệt hại) không thể có căn cứ để khởi kiện. Nhưng nếu thiệt hại đó là do hành vi
cạnh tranh không lành mạnh gây ra, ảnh hưởng trực tiếp đến đối thủ cạnh tranh thì
bên bị thiệt hại có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
Việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh không nhắm đến mục
đích trừng phạt người có hành vi vi phạm, mà chủ yếu là bồi thường cho bên bị thiệt
hại những tổn thất do hành vi vi phạm gây ra. Vì vậy, việc xác định thiệt hại là một
yêu cầu bắt buộc và cần thiết để bên bị hại có căn cứ đòi bồi thường và cơ quan có
thẩm quyền áp dụng hình thức xử lý bồi thường thiệt hại. Thiệt hại trong cạnh tranh
không lành mạnh cũng giống thiệt hại trong dân sự, có thể là thiệt hại vật chất (cụ
thể và có thể xác định bằng tài sản), cũng có thể là thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại
đó phải được chứng minh là có thật, đã xảy ra trên thực tế. Nếu là thiệt hại về vật
chất, chứng cứ sẽ được thể hiện qua việc doanh thu bị giảm sút do mất đi một lượng
khách hàng thường xuyên; các chi phí để khắc phục và hạn chế thiệt hại trực tiếp
hoặc thiệt hại thương mại (như mất đi thương hiệu). Thiệt hại về tinh thần biểu hiện
thông qua việc uy tín của doanh nghiệp bị giảm sút, doanh nghiệp bị ức chế trong sự

kiềm toả của các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của bên vi phạm. Mức bồi
thường trong trường hợp đó sẽ do cơ quan có thẩm quyền xem xét và quyết định.
Tất nhiện việc đánh giá được thiệt hại là vấn đề rất phức tạp. Bên bị thiệt hại
phải đưa ra đầy đủ chứng cứ để chứng minh về những tác động tiêu cực của hành vi
cạnh tranh không lành mạnh mà đối thủ đã thực hiện và gây ra bất lợi cho mình
trong việc thu lợi nhuận, giảm sút năng lực cạnh tranh, thu hút khách hàng…Chứng

16


cứ được quy định trong Luật Cạnh tranh Việt Nam phải là "những gì có thật". Điều
đó đòi hỏi chứng cứ phải có tính khách quan, không giả mạo; phải có tính hợp pháp,
được thu thập theo trình tự mà pháp luật quy định; phải có liên quan đến hành vi
cạnh tranh không lành mạnh của đối thủ cạnh tranh.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các
thiệt hại mà nó gây ra
Trong các ngành khoa học nói chung và khoa học pháp lý nói riêng, quan hệ
nhân quả là mối quan hệ tất yếu, tự nhiên của một số sự vật, hiện tượng, trong đó
những sự vật, hiện tượng này là nguyên nhân và những sự vật, hiện tượng kia là kết
quả.
Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại là mối quan hệ trực tiếp,
nội tại, không phải là sự suy diễn chủ quan.Trong mối quan hệ đó hành vi cạnh
tranh không lành mạnh là hành vi diễn ra trước, thiệt hại trực tiếp do hành vi đó gây
ra xảy ra sau. Bên thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ phải thực hiện
trách nhiệm pháp lý và các hình thức xử lý tương ứng khi gây ra thiệt hại nhất định
cho đối thủ cạnh tranh, mà nguyên nhân trực tiếp là hành vi cạnh tranh không lành
mạnh của mình.
Không phải tất cả mọi hành vi cạnh tranh gây ra thiệt hại cho đối thủ đều
phải chịu các biện pháp xử phạt. Mặt khác, cũng có những thiệt hại xảy ra lại xuất
phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Do đó, khi xác định thiệt hại do hành vi cạnh

tranh không lành mạnh gây ra, phải đặt nó trong mối quan hệ nhân quả với hành vi
cạnh tranh không lành mạnh đó.
- Lỗi trong cạnh tranh không lành mạnh
Mục đích của Luật Cạnh tranh là bảo vệ các tác nhân tham gia thị trường
kinh tế, bảo vệ người tiêu dùng nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của thị
trường và lợi ích xã hội.
Lỗi được xác định là trạng thái tâm lý của người có hành vi vi phạm, phản
ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực
hiện. Việc xác định lỗi trong cạnh tranh thường phải dựa vào các tập quán nghề

17


nghiệp. Hành vi cạnh tranh bị coi là có lỗi và không lành mạnh là hành vi vi phạm
các tập quán nghề nghiệp, phá vỡ quan hệ bình đẳng, công bằng trong quan hệ cạnh
tranh trên thị trường.
Theo pháp luật Việt Nam thì: "Người không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc vô ý, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Cố ý gây thiệt hại
là trường hợp nhận thức rõ hành vi của mình gây thiệt hại cho người khác mà vẫn
thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại
xảy ra. Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ
xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng cho rằng
thiệt hại ở đây là không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được" [42. Điều 309]. Thông
thường, hành vi cạnh tranh không lành mạnh được thực hiện do lỗi cố ý.

18



×