Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phân tích tác phẩm những đứa con trong gia đình của nguyễn thi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.74 KB, 10 trang )

Đề bài: Phân tích tác phẩm Những đứa con
trong gia đình của Nguyễn Thi
Nguyễn Thi (1928 – 1968) tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, quê ở xã Hải An,
huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, ông vào Nam sinh sống từ năm 1943, tham
gia cách mạng năm 1945. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác tại tòa
soạn tạp chí Văn nghệ Quân đội và sáng tác dưới bút danh Nguyễn Ngọc
Tấn. Năm 1962, ông tình nguyện trở về Nam, công tác tại Cục chính trị
Quân giải phóng miền Nam. Thực tế chiến đấu nóng bỏng của chiến trường
là nguồn cảm hứng vô tận để ông sáng tác bút kí, truyện ngắn và tiểu thuyết
với bút danh Nguyễn Thi.
Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải
phóng miền Nam thời kì đánh Mĩ, xứng đáng với danh hiệu nhà văn của
người nông dân Nam Bộ. Tác phẩm của Nguyễn Thi bắt nguồn từ hiện thực
chiến đấu nóng bỏng, ác liệt của chiến tranh, nhưng vẫn đằm thắm chất trữ
tình.
Nguyễn Thi viết được nhiều thể loại: bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết… Sau
khi hi sinh, các sáng tác của ông được sưu tập và in trong Truyện và kí
Nguyễn Thi, xuất bản năm 1978; Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi toàn tập
(4 quyển) xuất bản năm 1996. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.
Những đứa con trong gia đình là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ
thuật của Nguyễn Thi. Truyện được viết trong những ngày chiến đấu gian
khổ, ác liệt nhất của chiến trường miền Nam. Qua truyện, tác giả thể hiện vẻ
đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ và khẳng định: lòng yêu nước, căm thù
giặc, tình cảm gia đình thiêng liêng là sức mạnh tinh thần to lớn của họ trong
công cuộc chống Mĩ cứu nước.
Truyện kể về hai chị em trong một gia đình có thù sâu với giặc Mĩ và bè lũ
tay sai bán nước. Chiến và Việt đã gửi lại nhà cửa, ruộng vườn cho người
chú để cùng tham gia bộ đội, trực tiếp cầm súng trả thù nhà, đền nợ nước.
Đoạn trích nằm ở phần giữa của truyện, kể về tình huống đặc biệt của nhân
vật Việt. Trong một trận đánh ác liệt, anh bị thương nặng và lạc đơn vị. Việt


ngất đi tỉnh lại nhiều lần, ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh.
Nhưng cũng chính vì thế mà kí ức sống dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Việt
nhớ má, nhớ đồng đội, nhớ những giây phút không thể nào quên trước khi
nhập ngũ của hai chị em. Những hình ảnh về con người và cảnh vật quê
hương hiện lên rõ ràng trong tâm tưởng của Việt.
Đọan trích có thể chia làm hai cảnh, cảnh một: Tác giả kể vể tình huống và
tâm trạng của Việt lúc bị thương. Cảnh hai: Việt nhớ lại chuyện hai chị em
tranh nhau xin nhập ngũ và sau đó cùng thu xếp việc nhà để lên đường đi
chiến đấu.
Ở cảnh một, lần thứ tư tỉnh lại, trong kí ức Việt hiện lên những kỉ niệm vui
buồn về người mẹ thân yêu luôn đùm bọc, che chở cho các con: Má đang
bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong
cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn… Cả chị cả em cùng nhớ
đến má. Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ảnh đom đóm trên
nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt?
Trong những đoạn khác, Nguyễn Thi chọn những chi tiết điển hình hàm
chứa nhiều ý nghĩa để khắc họa hình tượng người phụ nữ một tay bồng con,
một tay cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng, hoặc hiên ngang đối đáp
với kẻ thù mà hai bàn tay to bản vẫn phủ lên đầu đàn con đang nép dưới
chân. Mỗi lần bọn lính bắn dọa, mắt má lại sắc ánh lên nhìn lại bọn lính, đôi
mắt của người đã từng vượt sông, vượt biển… Đó là hình ảnh của người phụ
nữ miền Nam gan góc, kiên cường, yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc
và rất mực thương chồng thương con. Cuộc sống lam lũ vất vả, chồng chất
đau thương nhưng họ vẫn cắn răng chịu đựng, vượt qua để nuôi con, đánh
giặc.
Hình ảnh chú Năm hiện lên với những phẩm chất tiêu biểu của dòng tộc, gia
đình. Giữa lúc anh cán bộ huyện đang phân vân không biết giải quyết thế
nào trước tình cảnh hai chị em Chiến, Việt giành nhau ghi tên nhập ngũ thì
chú Năm đứng ra bảo lãnh cho cả hai: Từ dưới sân, chủ Năm bước lên. Chú
nheo mắt nhìn chị em Việt, rồi nói với anh cán bộ:

– Tôi xin có một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó một lòng
theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai. Việc
lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong.
Chú Năm cẩn thận ghi chép đầy đủ tội ác dã man của giặc đối với dòng họ,
gia đình mình và chiến công của các thành viên vào một cuốn sổ truyền
thống. Khi Chiến và Việt chuẩn bị lên đường, chú Năm bàn giao cuốn sổ
cho hai chị em:
Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia
thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi
trước – Chú cười, đưa mấy ngón tay cứng còng chùi mắt. Đây rồi tao giao
cuốn sổ gia đình cho chị em bây. Gọi là giao vậy chớ đưa cho bây rồi bây lội
đùng đùng qua sông là hư hết. Gọi vậy chớ tao vẫn giữ, tao sẽ ghi cho hai
đứa bây từng ngày.
Cuốn sổ tuy nhỏ nhưng ý nghĩa thì đặc biệt lớn bởi nó vừa biểu dương công
trạng của từng thành viên, vừa là một tấm bia căm thù, vừa thể hiện quyết
tâm đánh giặc của một đại gia đình. Trước kia, cuốn sổ do thế hệ cha chú giữ
gìn và ghi chép, nay con cháu đã trưởng thành, chú Năm bàn giao lại cho thế
hệ trẻ viết tiếp. Vì vậy, cuốn sổ cũng chính là câu chuyện về cha con, chú
cháu cùng đánh giặc để giải phóng quê hương. Điều đó thể hiện một cách
giản dị mà sâu sắc quy luật phổ biến của lịch sử Việt Nam, quy luật của sức
sống Việt Nam: Đánh đuổi giặc ngoại xâm đã trở thành sự nghiệp chung của
nhiều thế hệ.
Là một nông dân chất phác và giàu tình cảm, mỗi khi làm xong một việc,
tâm hồn chú Năm lại lâng lâng bay bổng, dạt dào cảm xúc. Chú gửi gắm tình
cảm tha thiết của mình vào tiếng hò, tiếng hát quen thuộc của quê hương.
Lúc hai chị em Chiến, Việt chuẩn bị ra trận, chú hoàn toàn tin rằng các cháu
đã đủ sức gánh vác việc lớn của xã hội. Trong lòng vui vẻ, chú cất lên tiếng
hò thay cho lời nhắn nhủ, lời thề:
Không phải giọng hò trong trẻo trong đêm bay ra hai bên bờ sông, rồi dội lại
trên cái ghe heo chèo mướn của chú. Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu

cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng
một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội.
Nhân vật Chiến tuy không được tác giả miêu tả nhiều như nhân vật Việt
nhung vẫn hiện lên sinh động trong tâm trí người đọc. Chiến là hình ảnh của
một cô gái Nam Bộ đảm đang, vị tha, nhân hậu. Những gì quen thuộc, tiêu
biểu trong phẩm chất đáng quý của người mẹ hầu như đã để lại ấn tượng sâu
đậm trong cô con gái có cái tên rất con trai là Chiến. Bởi thế nên mỗi khi
nghe chị Chiến nói, Việt lại hình dung ra má và thấy chị sao mà qiống má
đến thế! Điều đó làm cho Việt bùi ngùi nhớ má và càng thương chị hơn. Hai
chị em tuy có hai tính cách khác nhau nhưng giống nhau ở chỗ đều ngoan
ngoãn, hiếu thảo, biết gìn giữ và phát huy truyền thống cách mạng của gia
đình, dòng họ, láng xóm, quê hương.
Trong tác phẩm, Việt là nhân vật được nói đến nhiều nhất. Việt vừa có
những nét riêng dễ mến của một cậu con trai mới lớn như hồn nhiên, hiếu
động; vừa có tính cách của một chiến sĩ dũng cảm, kiên cường.
Ở cảnh một, nhà văn đã để cho nhân vật Việt xuất hiện trong tình huống
hoàn toàn đơn độc giữa trận địa vắng lặng đến ghê người sau cuộc giao tranh
và giữa sự rình rập của hiểm nguy, của cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào.
Nguyễn Thi đã viết thật hay, thật cảm động về cái cảm giác một mình bật lên
một cách rõ ràng nhất, mênh mông nhất của chàng tân binh trơ trọi một
mình, lại bị thương nặng, hai mắt không còn nhìn thấy gì, sức đã cạn vì đói
khát. Ngón tay Việt đau không còn kéo nổi cò bấm súng. Việt lết đi được
một đoạn cũng là cả một kì công. Anh ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Ở trạng thái
như thế, người ta có thể nghĩ gì? Chắc chắn là sẽ nhở lại những kỉ niệm vui
buồn thân thiết nhất đã thực sự làm nên đời sống tinh thần của mình. Vì thế,
với việc để nhân vật Việt nhớ đến những đồng đội (anh Tảnh, anh Việt),
người thân (chị Chiến, má, chủ Năm…), tác giả đã khẳng định rằng gia đình
là cội nguồn sức mạnh của con người và truyền thống gia đình là thực sự
thiêng liêng :
…Khi Việt cảm thấy không còn bò đi được nữa, khi những hình ảnh thân

yêu thường kéo đến rất nhanh rồi cũng vụt tan biến đi rất nhanh chỉ vì một
cành cây gãy, một giọt mưa rơi trên mặt, hoặc một tiếng động nhỏ của ban
đêm. Việt muốn chạy thật nhanh, thoát khỏi sự vắng lặng này, về với ánh
sáng ban ngày, gặp lại anh Tánh, níu chặt lấy các anh mà khóc như thằng út
em vẫn níu chân chị Chiến, nhưng chân tay không nhấc lên được. Bóng đêm
vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn
ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong
những đêm mưa ngoài vàm sông, cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở
nhà, Việt nằm thở dốc…
Có một chi tiết khá thú vị là đánh giặc Việt không sợ nhưng vẫn rất sợ ma.
Tuy mới nhập ngũ nhưng Việt tỏ ra là một chiến sĩ thông minh, phân biệt rõ
tiếng súng của ta, tiếng súng của giặc; phán đoán được tình huống của trận
đánh : Một loạt đạn súng lớn văng vẳng dội đến ầm ĩ trên ngọn cây. Rồi loạt
thứ hai… Việt ngóc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc.
Đó là những tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều,
chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ
quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời dậy đất hồi
Đồng khởi. Đúng súng của ta rồi! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó,
đơn vị mình ở đó. Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung phong thôi! Đó,
lại tiếng hụp hùm… chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy. Tiếng súng
nghe thân thiết và vui lạ.
Tuy đang lâm vào tình huống hiểm nghèo nhưng Việt vẫn hướng về đồng
đội, tin tưởng vào chiến thắng: Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra…
Cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công
mỗi lần anh động viên Việt tiến lên… Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí
này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ
Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác
chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổi lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ…
Đối mặt với cái chết, Việt cố gắng tìm về với cuộc sống: Việt đã bò đi được
một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không

biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là
sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó có các anh
đang chờ Việt, đạn ta đang đổ lên đầu giặc Mĩ những đám lửa dữ dội, và
những mũi lỗ nhọn hoắt trong đêm đang bắt đầu xung phong…
Đời người lính chiến, giữa hi sinh tính mạng và chịu đựng khó khăn gian
khổ hoặc đau đớn về thể xác thì hi sinh tính mạng dễ chấp nhận hơn nhiều.
Đoạn văn kể về nghị lực phi thường của Việt là khúc ca ca ngợi tinh thần
dũng cảm của người chiến sĩ giải phóng quân trẻ tuổi.
So sánh nhân vật Chiến và Việt, ta thấy điểm giống nhau của hai chị em là
đều có một tình yêu quê hương, đất nước và thái độ căm thù giặc sâu sắc.
Tuy là những đứa trẻ mới lớn nhưng Chiến và Việt đã khắc sâu trong tâm
khảm mối thù không đội trời chung với những kẻ đã giết hại ba má và đồng
bào mình. Từ đó, hai chị em xác định mục đích của cuộc đời mình là phải trả
thù bằng được cho ba má, cho quê hương. Chính vì mối thù này mà cả hai
chị em đều nung nấu quyết tâm đánh giặc. Mối thù ấy dường như thôi thúc
họ lớn nhanh hơn. Khi nghe Chiến kể rằng chú Năm nói lần này hai chị em
ra đi chiến đấu, thù ba má chưa trả được mà trở về thì chú chặt đầu, Việt nói
tỉnh queo: Chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị. Còn Chiến
thì cũng khẳng khái nói: Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái
ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!
Tuy nhiên, sự độc đáo và hấp dẫn của ngòi bút Nguyễn Thi chính là ở chỗ
ông đã có cách miêu tả khác nhau nên Chiến và Việt hiện ra với cá tính riêng
không thể lẫn.
Hơn em một tuổi nhưng Chiến luôn tỏ ra là một người chị khôn lớn, đảm
đang, việc gì cũng nhận lãnh về mình. Ba má đã khuất, Chiến sớm ý thức
được vai trò của người chủ gia đình. Chiến đã phải lớn vượt lên so với lửa
tuổi để thay ba má lo liệu việc nhà, bảo ban các em.
Việt là em nên ỷ lại mọi việc cho chị, thường bắt chị phải chiều theo ý mình.
Chiến nhường nhịn em trong mọi việc nhưng có một việc Chiến kiên quyết
không nhường, ấy là ghi tên tòng quân. Nhưng tính cách của người chị

thương em hết lòng cũng thể hiện ở chính điều đó. Thực ra, đây là một đức
hi sinh lớn, một sự nhường nhịn lớn. Chiến muốn giành về mình phần nguy
hiểm để em được bình yên. Đoạn văn thuật lại cảnh hai chị em Chiến và
Việt chuyện trò với nhau mộc mạc mà vô cùng cảm động:
– Tao lớn tao mới đi, mầy còn nhỏ, ở nhà phụ làm với chú Năm, qua năm
hãy đi.
Việt đá trái dừa rụng dưới chân xuống mương cái đùng:
– Bộ mình chị biết đi trả thù à?
– Hồi đó má nói cho tao đi, mầy ở nhà làm ruộng với má, trọng trọng rồi
đi sau.
– Má nói hồi nào?
 Má chết rồi, không biết ai mà phân chứng. Nhưng chị Chiến vẫn không
chịu, việc này đâu có nhường được, chị sang vận động chú Năm.
Là chị cho nên Chiến thường tỏ ra có sự tính toán chu đáo, còn Việt thì nông
nổi, vô tư. Một trong những tình tiết cảm động nhất của câu chuyện này là
cuộc bàn bạc của hai chị em vào cái đêm cuối cùng trước khỉ ra trận. Họ
phải làm những phần việc quá sức so với độ tuổi của mình. Đó là việc nhà
cửa, làm ăn, việc nuôi dạy thằng út em, việc hương khói cho ba má…
– Bây giờ chị Hai ở xa. Chị em mình đi thì thằng út sang ở với chú Năm,
chú nuôi. Còn cái nhà này ba má làm ra đó thì cho các anh ở xã mượn mở
trường học. Chú Năm nói có con nít học ê a có gì nó quét dọn cho. Thằng út
cũng học ở đây. Mầy chịu không?
Việt chụp một con đom đóm úp trong lòng tay:
– Sao không chịu?
– Giường ván cũng cho xả mượn làm ghế học, nghen?
– Hồi đó má dặn chị làm sao, giờ chị cứ làm y vậy, tội chịu hết.
– Má dặn tao hồi nào? Giờ còn có tao với mầy thôi. Nếu đồng ý thì nồi, lu,
chén, đĩa, cuốc, vả, đèn soi với nơm để gởi chú Năm. Chừng nào chị Hai ở
dưới biển về làm giỗ má, chị có muốn lấy gì thì chị chở về dưới, nghen?
– Tôi nói chị tính sao cứ tính mà…

…" Còn năm công ruộng hồi trước mấy chú cấp cho ba má, giờ mình đi
mình trao lại chi bộ đảng chia cho cô bác khác mần, nghen? Hai công mía
thì chừng nào tới mùa, nhờ chú Năm đốn, để dành đó làm đám giỗ ba má.
Em cũng ừ nghen?
-Ừ !
– Còn bàn thờ má em tính gởi đâu? Gởi sang chủ Năm cho thằng út nó coi
chừng hay là để chị Hai về đem đi?

Việt ngóc đầu lên dòm bàn thờ. Từ nãy giờ đang mải với ý nghĩ má đã về,
nghe chị hỏi, Việt lại tin má đã về ngồi đâu đó thật. Việt nói:
– Mình đi đâu thì má đi theo đó chớ lo gì mà lo?
– Vậy chở ba má không theo con thì theo ai, nhưng mà cũng phải tính cho
đâu ra đó chớ. Đem bàn thờ sang gởi chú Năm, em có ừ không?
– Ừ!… Mà hồi đó má dặn chị vậy hả?
– Má cỏ biết má chết đâu mà dặn.
Việt sải chân ra giường:
– Vậy mà nói nghe in như má vậy.
Chị Chiến hử một cái “cóc” rồi trở mình. May mà chị không bẻ tay rồi đập
vào bắp vế than mỏi.
Chị nói :
– Tao cũng lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính
vậy.
Đúng rồi, hèn chi chị nói nghe thiệt gọn. Vậy mà hồi nắy còn giành đi với
mình. Việt nghĩ vậy, rồi ngủ quên lúc nào không biết.
Chiến biết là Việt chưa lo toan nổi việc nhà, nhưng nhà chỉ có hai chị em
nên Chiến vẫn đem việc nhà ra bàn với em một cách dân chủ. Tuy vậy,
Chiến đã dự định từ trước, mọi việc đã được sắp xếp đâu ra đấy, khiến cho
Việt cảm thấy chị mình chín chắn, già dặn giống in như má. Còn Việt, trong
khi nghe chị nói thì lại để mắt đến mấy con đom đóm và trong lúc chị Chiến
vẫn nói thì Việt đã lăn ra ngủ từ lúc nào.

Câu chuyện trao đổi giữa hai chị em cũng bộc lộ phẩm chất đáng quý của
tuổi trẻ miền Nam thời đánh Mĩ: đã ra đi là quyết tâm chiến đấu và chiến
thắng. Điều đáng quý của hai chị em là rất thương yêu, lo lắng cho nhau và
cả hai đều nhớ đến má: Hình như má cũng về đâu đây. Má biến theo ánh
đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón
quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt, má cũng phải về dòm ngó coi chị em
Việt tính toán việc nhà ra làm sao chớ? Chị em Việt sinh ra trong gia đình có
truyền thống cách mạng, cho nên dù cha mẹ đã khuất nhưng lời dạy của cha
mẹ vẫn thấm sâu vào tâm trí, nhắc nhở các con trong từng suy nghĩ, từng lời
nói và hành động.
Trước lúc lên đường Việt đi câu ít con cá về làm bữa cơm cúng má trước khi
dời bàn thờ sang nhà chú… Cúng mẹ và cơm nước xong, mấy chị em, chú
cháu thu xếp đồ đạc dời nhà. Người đọc không thể quên đoạn văn rất cảm
động tả cảnh hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú
Năm: Chị Chiến ra đứng giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay
áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người
to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào
một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả
thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập chúng con lại đưa má về.
Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân
chị, Việt thấy thương chị lạ. Lân đầu tiên Việt thấy lòng mình rõ như thế.
Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai.
Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân
vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng
này sang bưng khác.
Chỗ hay nhất của đoạn văn trên có lẽ là cái không khí thiêng liêng làm thay
đổi cả cảnh vật lẫn con người. Con đường quen thuộc bỗng có thêm mùi hoa
cam thoảng lại từ chân vườn. Còn đối với Việt, cái không khí thiêng liêng ấy
khiến anh trở thành người lớn. Lần đầu tiên, Việt hiểu rõ lòng mình, bỗng
thương chị lạ và cảm thấy rất rõ mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì

nó đang đè nặng ở trên vai. Đây là một chi tiết nghệ thuật cô đọng, dồn nén,
chất chứa rất nhiều ý nghĩa, vừa là hành động cụ thể, vừa có yếu tố tâm linh,
vừa nặng trĩu căm thù, vừa chan chứa yêu thương… Nếu để ý, người đọc sẽ
thấy tác giả còn tô đậm sức vóc của hai chị em. Chiến thì hai bắp tay tròn vo
sạm đỏ màu cháy nắng… dang cả thân người to và chắc nịch của mình…
nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt cũng ghé vào để khiêng. Nghĩa là
thế hệ sau đã cứng cáp, trưởng thành. Những đứa con trong gia đình đã đủ
sức cầm súng đánh giặc như thế hệ của cha mẹ mình.
Câu chuyện trong đoạn trích được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của nhân
vật chính, dựa theo dòng hồi tưởng đan xen với thực tại, vì thế mà đậm đà
chất trữ tình và vô cùng sống động. Phẩm chất, tính cách nhân vật được khắc
họa rõ nét. Trong kí ức nhân vật hiện lên rõ ràng từng kỉ niệm của quá khứ
chưa xa. Đó là những ngày Việt được sống trong tình yêu thương của đồng
đội, của những người thân yêu trong gia đình. Quá khứ này tạo điều kiện cho
nhà văn có thể đi sâu vào thế giới nội tâm phong phú của nhân vật. Kết cấu
của truyện không phụ thuộc vào trật tự thời gian. Từ những chi tiết ngẫu
nhiên của hiện thực chiến trường, tác giả đã gợi ra những dòng hồi tưởng về
quá khứ từ chuyện này sang chuyện khác hết sức tự nhiên. Dưới ngòi bút
của nhà văn Nguyễn Thi, nhân vật nào cũng sống động và có cá tính rõ nét.
Nhờ ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ mà tác phẩm chân thực và sinh động.
Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình vừa giàu tính hiện thực vừa giàu
tính trữ tình. Những suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật Việt được tác già thể
hiện bằng giọng kể tự nhiên, mộc mạc rất đúng với tầm trạng của một chàng
trai mới lớn, xa gia đình đi chiến đấu chưa được bao lâu. Điều đó phần nào
phản ánh phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ Giải phóng quân trong cảnh
ngộ nguy hiểm và chết chóc của chiến trường. Sự đau đớn do các vết thương
trên thân thể gây ra không làm cho Việt khủng hoảng tinh thần mà ngược lại,
anh vẫn bình tĩnh sống với kí ức tuổi thơ gắn liền bao kỉ niệm vui buồn và
tìm thấy ở đó nguồn sức mạnh lạ thường. Nhà văn Nguyễn Thi miêu tả
phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ không phải qua chiến công mà là qua

nghị lực phi thường và đời sống tình cảm phong phú của họ.
Chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng thời đánh Mĩ còn được tác giả
khai thác ở đời sống tinh thần giản dị mà cao đẹp của thế hệ trẻ miền Nam.
Hai chị em Chiến, Việt là những đứa con ngoan ngoãn, hiếu thảo và trong
chiến đấu họ lại là những chiến sĩ vô cùng kiên cường, dũng cảm.
Thông qua truyện, Nguyễn Thi cũng kín đáo đề cập tới một vấn để có tính
chất xã hội: Gia đình là yếu tố quan trọng ảnh hưởng rất lớn tới quá trình
hình thành nhân cách. Những người con được giáo dục tốt trong giá đình sẽ
trở thành những thành viên tích cực và hữu ích cho xã hội. Ở từng nhân vật
đều có sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình và tình cảm yêu nước, yêu
cách mạng, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc, thà hi sinh
tất cả quyết giành độc lập tự do. Điều đó đã tạo nên sức mạnh to lớn của con
dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp chống Mĩ xâm lược, giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc.

×