Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

một số vấn đề về toàn cầu hóa và quốc tế hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.78 MB, 38 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mở đầu
Thập kỷ cuối của thế kỷ XX đã chứng kiến nhiều thay đổi lớn về mọi mặt
trong đời sống chính trị và kinh tế, đặc biệt là những thành tựu khoa học, công nghệ.
Hoà bình hợp tác vì sự phát triển ngày càng trở thành một đòi hỏi bức xúc của nhiều
quốc gia và các dân tộc trên thế giới nhằm tập trung mọi nỗ lực và u tiên cho phát
triển kinh tế. Những tiến bộ trên lĩnh vực khoa học công nghệ nhất là công nghệ
truyền thông và tin học, càng làm tăng thêm sự gắn kết giữa các quốc gia và giữa các
nền kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quố tế đã và đang trở
thành yêu cầu bức thiết đối với mỗi quốc gia. Xu hớng này đã thể hiện rõ qua sự gia
tăng đáng kể trong những năm gần đay sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn và công
nghệgiữa các nớc trên thế giới.
Là một trong những nớc nghèo trên thế giới, sau mấy chục năm liên tiếp bị
chiến tranh tàn phá, Việt Nam bắt đầu bớc vào thời kỳ thực hiện chuyển đổi nền kinh
tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trờng, do đó nền kinh tế
của chúng ta còn kém phát triển và lạc hậu so với thế giới. Con đờng để Việt Nam
thoát khỏi nghèo nàn đó là công nghiệp hóa theo mô hình phát triển rút ngắn. Mà để
làm đợc nh vậy thì chúng ta phải ứng dụng những thành tựu khoa học- công nghệ của
thế giới bằng cách tham gia vào quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập giúp cho các nớc có thể tiếp cận đợc nguồn vốn,
công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài, tiếp cận với thị trờng thế giới, tham
gia vào phân công và hợp tác quốc tế. Vì vậy nếu có đờng lối đúng đắn, tranh thủ đợc
nguồn lực bên ngoài và hội nhập quốc tế thì các nớc kém phát triển có thể tạo bớc
phát triển nhảy vọt, có thể rút ngắn khoảng cách, đuổi kịp các nớc có nền kinh tế
phát triển.
Toàn cầu hoá góp phần đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế, tạo dựng môi tr-
ờng thuận lợi để phát triển, đạt đợc sự ổn định và phát triển khá cao. Bên cạnh đó
toàn câù hoá và hội nhập kinh tế quốc tế cũng gây ra không ít khó khăn và thách
thức. Đó là khoảng cách giầu nghèo ngày càng lớn, phải đơng đầu với những đối thủ
cạnh tranh rất mạnh trên thị trờng thế giớiVì vậy cần phải có những giải pháp thích
hợp để có thể giải quyết những khó khăn đó và phát triển kinh tế có hiệu quả nhất.


1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NộI DUNG
I-Một số vấn đề khái quát về toàn cầu hoá và quốc tế hoá:
1- Khái niệm toàn cầu hoá và quốc tế hoá:
Nền kinh tế thế giới trong hai thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX đợc khắc hoạ bởi rất
nhiều những đặc điểm phát triển mới : chu kỳ kinh tế ngày càng không rạch ròi với
những chấn động ngắn và thời gian tăng trởng kéo dài ; các nền kinh tế quốc gia, lớn
nhỏ ngày càng tơng thuộc chặt chẽ với nhau và đang kết nối thành một mạng thống
nhất trên quy mô toàn cầu ; các nền kinh tế quốc gia và khu vực đang xúc tiến tích
cực các quá trình liên kết , hội nhập và mở cửa theo hớng tự do hoá và theo đó làm
xuất hiện hàng loạt các thể chế kinh tế khu vực và quốc tế dới nhiều cấp độ; làn sóng
sát nhập của các tập đoàn xuyên quốc gia với quy mô khổng lồ đang diễn ra vô cùng
mạnh mẽ Tất cả là sự hiện thân của những xu hớng phát triển của nền kinh tế thế
giới trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX, trong đó toàn cầu hoá là đặc trng
bao trùm, phổ biến nhất. Theo đó, nền kinh tế thế giới thế kỷ XXI sẽ mở ra nhiều cơ
hội và thách thức cho mọi nền kinh tế , bất kể đó là nền kinh tế phát triển hay nền
kinh tế đang phát triển và chuyển đổi. Việc nhận diện toàn cầu hoá để lựa chọn chiến
lợc phát trển quốc gia mang tính thích ứng cao là một vấn đề cấp thiết của mọi nền
kinh tế và điều này càng trở nên bức thiết hơn đối với một nền kinh tế đi sau , mới
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trờng và hội nhập vào nền kinh tế thế giới nh nền
kinh tế Việt Nam.
Toàn cầu hoá là một danh từ lần đầu tiên đợc Webster đa vào từ điển năm 1961 và
nó đợc sử dụng khá phổ biến trong hai thập kỷ gần đây. Nhng vào năm 1870 nhà triết
học Jợemy Benthamđã sử dụng tính từ quốc tế về khái niệm quan hệ quốc tế đã đ-
ợc sử dụng rộng rãi từ thời đó . Toàn cầu hoá hay quốc tế hoá đều là những khái
niệm diễn tả những mối quan hệ vuợt ra ngoài biên giới quốc gia. Tuy nhiên cấp độ
giữa chúng là khác nhau. Toàn cầu hoá mà cốt lõi là toàn cầu hoá kinh tế là bớc phát
triển mới và cao hơn của quốc tế hoá kinh tế.
2

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hiện nay tồn tại nhiều định nghĩa về toàn cầu hoá . Về mặt kinh tế phải chăng toàn
cầu hoá là quá trình lực lợng sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế vợt ra ngoài biên
giới quốc gia và phạm vi từng khu vực, lan toả ra phạm vi toàn cầu, trong đó hàng
hoá vốn tiền tệ thông tin lao độngvận động thông thoáng , sự phân công lao lao
động mang tính quốc tế , mối quan hệ kinh tế giữa quốc gia các khu vực đan xen
nhau ,hình thành mạng lới quan hệ đa tuyến ,vận hành theo các luật chơi chung đ-
ợc hình thành qua sự hợp tác và đấu tranh giữa các thành viên của cộng đồng quốc
tế . trong xu thế ấy, các nền kinh tế quan hệ ngày càng mật thiết với nhau. Toàn cầu
hoá là bớc phát triển mới cao hơn của của quốc tế hoá kinh tế Quá trình toàn cầu
hoá đang phát triển cùng tồn tại trên thế giới hiện nay thực chất là quá trình quốc tế
hoá đã đạt đến độ nhuần nhuyễn, nó phản ánh một quá trình phát triển đặc trng bản
chất là không có ranh giới quốc gia và khu vực trong mối quan hệ kinh tế xã hội
ngày càng phát triển.
2-Quá trình hình thành toàn cầu hoá:
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng xu thế toàn cầu hoá kinh tế đã hình thành và phát
triển qua một chặng đờng khá dài .Tính đến nay lịch sử nhân loại đã từng chứng kiến
ba lần có hiện tợng toàn cầu hoá trớc khi bớc vào thời đại toàn cầu hoá mới đợc
bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ XX.
Lần thứ nhất diễn ra vào cuối thế kỷ XV sau khi Colombo tìm ra Châu Mỹ. Từ đó
làm cho ngời châu Âu đổ đi các nơi để khai hoá văn minh thế giới. Lần chinh phục
thế giới này làm cho giá trị Châu Âu thay đổi và đợc truyền bá khắp nơi . Kết quả là
tạo ra cơ hội tích luỹ t bản lớn và làm cho nớc Anh trở thành bá chủ thế giới.
Lần thứ hai vào giữa thế kỷ XIX và đợc đánh dấu bằng thời kỳ ngời Châu Âu
chinh phục ngời Châu á và Nhật Bản nắm lấy cơ hội tiến hành cuộc duy tân, hng
thịnh đất nớc.
Lần thứ ba diễn ra vào thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai với sự ra đời
của một trật tự thế giới mới do các nớc thắng trận dẫn dắt , các quốc gia thuộc Châu
á ,Châu phi ,Châu Mỹ la tinh giành đợc độc lập và hoà nhập vào cộng đồng thế giới .
Điểm chung của ba lần toàn cầu hoá này là ở chỗ chúng đều là hệ quả của chiến

tranh và chính sách thực dân, trình độ phát triển của các quốc gia còn thấp , các vấn
đề chung có tính chất toàn cầu cha xuất hiện.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khác với ba lần trớc toàn cầu hoá lần thứ t đợc xuất hiện bởi sự bùng nổ của công
nghệ thông tin, làn sóng dân chủ thứ ba của Bồ Đào Nha vào năm 1974 ,sự sụp đổ
của liên Xô và Đông Âu vào đầu thập kỷ 90. Toàn cầu hoá lần này nặng về phơng
diện kinh tế và chính trị. Về kinh tế, toàn cầu hoá lấy toàn cầu hoá thị trờng làm
mục tiêu, lấy toàn cầu hoá thông tin làm động lực, bởi vậy nó mang ý nghĩa sâu rộng
hơn nhiều so với những lần trớc. Cũng vì cậy nó đụng chạm đến nhiều nớc, lôi cuốn
đông đảo dân số các nớc nhập cuộc.
Theo quan niệm của C.Mác và Ănghen thì xu hớng toàn cầu hoá kinh tế có từ khi
đại công nghiệp t bản chủ nghĩa hình thành và tuy không dùng khái niệm toàn cầu
hoá nhng những nhận định của các ông thực chất là bàn về toàn cầu hoá .Trong tác
phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản các ông đã viết Vì luôn luôn bị thúc đẩy
bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm ,giai cấp t bản xâm lấn khắp toàn cầu
.Nó xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp
nơi. Do bóp nặn thị trờng thế giới, giai cấp t bản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng
của tất cả các nớc mang tính chất thế giớ . Tuy nhiên theo quan niệm của các nhà
nghiên cứu hiện nay thì toàn cầu hoá kinh tế với đúng nghĩa của nó chỉ hình thành từ
khi chủ nghĩa t bản tự do cạnh tranh đã thành chủ nghĩa t bản độc quyền, nhất là từ
khi các cờng quốc t bản chủ nghĩa đã phân chia xong thế giới về lãnh thổ chính trị
.Về điều này V.I.Lênin khi nghiên cứu chủ nghĩa đế quốc đã nhận định : Mạng lới
dày đặc những mạch máu ngân hàng lan rộng nhanh chóng nh thế nào , nó bao phủ
cả nớc, tập trung hết thảy t bản và các khoản thu nhập bằng tiền biến thành hàng
nghìn hàng vạn doanh nghiệp tản mạn thành một đơn vị kinh tế t bản chủ nghĩa.
Nh vậy dù có sự khác nhau trong việc phân kỳ lịch sử hình thành quá trình toàn
cầu hoá, nhng các nhà nghiên cứu về cơ bản đều có sự tơng đồng nhất định . Họ đều
cho rằng toàn cầu hoá và quốc tế hoá kinh tế là kết qủa của sự phát triển lực lợng sản
xuất, đều là tất yếu lịch sử .Toàn cầu hoá kinh tế xét cho cùng là hệ quả của những

biến đổi trong lĩnh vực công nghệ truyền thông và thông tin, và chính ba nhân tố :
công nghệ kỹ thuật, thông tin và tiền vốn lu chuyển xuyên quốc gia đã trở thành
động lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá .Theo cách hiểu này thì toàn cầu hóa ngày
nay là sản phẩm của văn minh nhân loại và do đó là cơ hội để các quốc gia đón nhận,
tự nguyện hội nhập và góp sức mình thúc đẩy toàn cầu hoá phát triển.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2-Đặc trng toàn cầu hoá :
Toàn cầu hoá kinh tế đợc biểu hiện nổi bật ở sự lu chuyển xuyên quốc gia của các
dòng tiền vốn .Hay nói cách khác toàn cầu hoá về tài chính là đặc trng nổi bật chi
phối các tiến trình tự do hóa về thơng maị dịch vụ và đầu t dã kết nối với nhau ythành
một mạng tren quy mô toàn cầu. Cụ thể là : Quy mô lu chuyển vốn quốc tế sẽ tiếp
tục mở rộng. Ngày nay, 95% nền kinh tế tài chính nằm trong một thế giới ảo vận
động trên các xa lộ thông tin. Tiến trình nhất thể hoá tiền tệ sẽ tăng nhanh. Xu hớng
hình thành các đồng tiền chung kiểu đồng EURO sẽ xuất hiện ở nhiều khu vực.
Nghiệp vụ ngân hàng sẽ hoạt động theo hớng tổng hợp hoá , mạng hoá. Xu hớng sát
nhập trong lĩnh vực ngân hàng sẽ trở nên phổ biến để hình thành các tập đoàn đa
năng, xuyên quốc gia và điều tiết vốn trên phạm vi toàn cầu. Thứ tự các thể chế tài
chính quốc gia, khu vực thờng xuyên bất cậpvới các thể chế tài chính quốc tế. Nền
kinh tế toàn cầu gắn chặt với nhau, chi phối lẫn nhau nhng đồng thời cũng mang đầy
rủi ro, dễ thơng tổn, nhất là những khâu yếu trong hệ thống tài chính của các chính
phủ quốc gia phải hành động theo hớng vừa giảm bớt sự can thiệp vào hoạt động của
các dòng vốn, vừa phải phản ánh kịp thời các sự kiện xuất hiện trên thị trờng tài
chính và vốn xuyên quốc gia, nghĩa là có sự điều chỉnh kịp thời và có đối sách linh
hoạt với mọi biến đổi của nền tài chính quốc tế.
Trong nền hinh tế toàn cầu xuyên quốc gia, quản lý vĩ mô, dới sự hỗ trợ của công
nghệ thông tin, trở thành yếu tố có tính chất quyết định tong lai phát triển của nó. Sự
phát triển của kĩ thuật viễn thông và công nghệ thông tin đã cung cấp những phơng
tiện hoàn thiện và đợc áp dụng phổ biến trong mọi lĩnh vực quản lý và do vậy, đã trở
thành phơng tiện lu chuyển vốn toàn cầu . Nh vậy tính chất xã hội sản xuất quy mô

lớn trên phạm vi toàn cầu xác lập vai trò quyết định và năng động của công tác quản
lý.
Từ tính tơng thuộc chặt chẽ giữa các nền kinh tế quốc gia, các hoạt động thơng
mại, đầu t ,tài chính đều đợc gia tăng mạnh mẽ và bắt buộc mọi nền kinh tế phải
tham gia vào một kiểu thị trờng thế giới thống nhất một sân chơi chung bình đẳng
cho mọi nền kinh tế, bất kể đó là nền kinh tế thuộc trình độ và xuất phát điểm phát
triển nh thế nào. Nói cách khác, bớc vào thế kỉ XXI thì toàn cầu hoá trớc hết là toàn
cầu hoá thị trờng, bắt nguồn từ toàn cầu hoá thông tin và cuối cùng là các quá trình
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kinh tế. Thị trờng toàn cầu hoá, do đó, đợc biểu hiện là thị trờng mở và các nền kinh
tế quốc gia tự nguyện mở cửa nền kinh tế nớc mình để trên cơ sở các lợi thế so sánh
vốn có, hội nhập hiệu quả vào thị trờng khu vực và thế giới. Tính bổ sung lẫn nhau
giữa các thị trờng thông qua hội nhập và cạnh tranh đã khiến cho mục tiêu trực tiếp
của các công ty xuyên quốc gia là chạy theo thị trờng mở rộng nhất chứ không phải
là lơị nhuận cao nhất ( mặc dù, bao giờ lợi nhuận tối đa cũng là mục tiêu cuối cùng
của doanh nghiệp). Bởi lẽ, thơng mại trong nền kinh tế toàn cầu đang trở thành điều
kiện của đầu t và đầu t càng mở rộng thì tất nhiên, thơng mại sẽ càng phát triển.
Trong nền kinh tế toàn cầu, quốc gia dân tộc có chủ quyền không còn là chủ thể
duy nhất có vai trò chế định chính sách kinh tế mà là sự tồn tại đồng thời của 5 chủ
thể có thể đảm nhận vai trò này một cách hiệu quả. Đó là: 1) Quốc gia dân tộc có
chủ quyền; 2)các khối kinh tế khu vực ( ví dụ ASEAN, EU);3) các thể chế kinh tế
quốc tế(IMF,WB);4) các công ty xuyên quốc gia(TNCS) và 5)các tổ chức phi chính
phủ. ở đây cần đặc biệt chú trọng đến vai trò của các công ty xuyên quốc gia .Với
cấu trúc hoạt động theo hình mạng lới, cắm nhánh , mở văn phòng đại diện ở tất cả
các quốc gia và khu vực, tự TNCs đã là một tế bào kết nối nền kinh tế thế giới thành
một hệ thống toàn cầu . Mặt khác, tự do hoá mậu dịch, đầu t và toàn cầu hoá thị tr-
ờng, sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế toàn cầu và cạnh tranh gay gắt đã và đang thúc đẩy
nhanh tốc độ sát nhập và tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các TNC. Đầu thế kỷ
XXI sự phát triển của các TNC sẽ xuất hiện thêm trạng thái mới nh : liên minh xuyên

quốc gia ; tập trung đầu t vào những ngành có tiềm năng tăng trởng nhanh nh thông
tin, tài chính ; mở rộng FDI sang các nớc đang phát triển ; tăng cờng các hoạt động
nghiên cứu và triển khai tại các nớc đang phát triển Theo đó, chúng đang trở thành
các đế chế công ty, những đạo diễn và diễn viên chính trên vũ đài kinh tế thế
giới .Do vậy, chúng không chỉ là hiện thân của các quá trình tổ chức sản xuất ,phân
phối ,trao đổi và tiêu dùng xuyên quốc gia không chỉ biểu hiện ở cấp vĩ mô của
những quá trình kinh doanh quốc tế vì mục tiêu lợi nhuận thị phần, doanh số, u thế
và ổn định mà cùng với tác động của các xu thế khác, chúng đang ngày càng hởng
đến các luật chơi cũng nh các chính sách kinh tế của nhiều quốc gia. Điều đó cũng
có nghĩa là năm chủ thể trong nền kinh tế toàn cầu ảnh hởng lẫn nhau ,ràng buộc và
chi phối lẫn nhau.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá ,xu hớng liên kết kinh tế khu vực và quốc tế hoá đ-
ợc đẩy mạnh hơn bao giờ hết . Kể từ đầu thập kỷ 90, hàng loạt các tổ chức kinh tế
khu vực và quốc tế dới nhiều cấp độ và mang tính thể chế ngày càng cao, đã ra đời.
Chính tính đa dạng về cấp độ phát triển, sự khác biệt về các đặc điểm địa-chính trị và
địa-kinh tế cùng những đặc tính văn hoá đang làm cho các hình thức kinh tế trở nên
nhiều vẻ và rất phong phú về nội dung. Tuy vậy về bản chất chúng, là hiện thân của
xu hớng tự do hoá về thơng mại và đầu t quốc tế và những trình độ khác nhau của
tiến trình nhất thể hoá nền kinh tế thế giới. Đó là sự liên kết kinh tế mang tính thể
chế cao với phạm vi hoạt động rộng lớn trê quy mô toàn cầu nh WTO. Đó là khuynh
hớng hình thành một liên minh kinh tế thống nhất cho toàn khu vực nh EU hoặc đó
chỉ là một thoả thuận khu vực xuyên qua nhiều lục địa không mang tính pháp lý
nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá nh APEC. Đó là dàn xếp khu vực ở quy mô nhỏ
hơn với nhiều yếu tố đồng nhất nhằm xây dựng khu vực mậu dịch tự do nh NAFTA,
AFTA MERCOSURCó thể nói, liên kết kinh tế xét trên mọi góc độ, đang hớng tới
hình thành một nền kinh tế toàn cầu tự do hoá và nhất thể hoá, giúp cho các nền kinh
tế quốc gia phát huy tối đa các lợi thế so sánh của mình trong một nền kinh tế thế
giới đã toàn cầu hoá.Rõ ràng nói chính xác ra, đặc trng này quy định sự tham gia tất

yếu của mọi nền kinh tế quốc gia vào các thể chế kinh tế khu vực và quốc tế ở nhiều
cấp độ.
-Bản chất của toàn cầu hoá :
Cũng nh bất kỳ hiện tợng chính trị kinh tế xã hội nào khác, toàn cầu hoá phản ánh
tơng quan lực lợng giữa các nớc các lực lợng tham gia quá trình đó.Trong thời kỳ chủ
nghĩa t bản còn thống trị toàn thế giới thì điều đơng nhiên là quá trình quốc tế hoá
chịu sự chi phối hoàn toàn của các tập đoàn t bản. Trong thời kỳ hệ thống XHCN thế
giới tồn tại quan hệ kinh tế quốc tế bị chi phối bởi sự hợp tác và đấu tranh giữa hai
nền kinh tế: t bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Từ sau khi Liên Xô tan rã ,chủ
nghĩa xã hội bị xoá bỏ ở các nớc Đông Âu tơng quan lực lợng trên thế giới thay đổi
không có lợi cho các lực lợng cách mạng. Về kinh tế, các nớc công nghiệp phát triển
nhất là Mỹ chi phối nền kinh tế thế giới , từ sản xuất tới vốn , công nghệ, xuất khẩu,
dịch vụ, thông tin, giữ vai trò chủ chốt trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế, từ đó tìm
mọi cách áp đặt quyền thống trị các luật chơi có lợi cho họ. Không phải ngẫu nhiên
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mà nhiều ngời nói tới tính chát đế quốc của quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra hiện
nay. Heinz Dietẻich chuyên gia nghiên cứu chiến lợc thuộc trung tâm nghiên cứu
quốc tế Hoa Kỳ, khi phân tích về toàn cầu hoá cho rằng, nhu cầu bành trớng của xã
hội t sản ở thế kỷ XVIII và XIX đợc thể hiện thông qua chủ nghĩa thực dân, ở thế kỷ
XX thông qua chủ nghĩa đế quốc và hiện nay nó núp bóng dới cái gọi là toàn cầu
hoá.
4- T duy tiếp cận mới về toàn cầu hóa kinh tế:
Trong toàn cầu hoá kinh tế, các nớc phát triển ,các nớc đang phát triển và chuyển
đổi đều là những chủ thể tích cực của quá trình này. cơ hội và thách thức của các quá
trình toàn cầu hoá đã mở r a nh nhau cho mọi nớc và chính mức độ hội nhập vào nền
kinh tế toàn cầu là nền tảng của để kiểm chứng một cách sâu sắc nội lực và lợi thế so
sánh của từng quốc gia dân tộc. Các tiến trình toàn cầu hoá tạo ra kinh tế thị trờng
mở và việ hội nhập vào các thể chế khu vực và toàn cầu là phơng thức để kết hợp một
cách hữu hiệu nhất nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài cho sự phát triển của

các quốc gia dân tộc. Những thách thức rủi ro của mỗi nớc không còn là vấn đề riêng
của các nớc đó; trái lại trong thế giới toàn cầu hoá, sự tuỳ thuộc lẫn nhau và xoắn bện
chặt chẽ giữa các nớc đã đặt ra những khả năng cảnh báo sớm cho nhau để tránh các
rủi ro, thiệt hại cho từng nớc và cả cộng đồng quốc tế.
Toàn cầu hoá kinh tế đã thúc đẩy sự biến đổi cao và nhanh chóng của nền kinh tế
toàn cầu. Công nghệ kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin thay đổi chóng mặt.
Tài chính quốc tế vận hành phức tạp với yêu cầu phải thiết lập một cấu trúc mới. Các
phơng thức tiếp cận thị trờng đã đan xen chặt chẽ giữa những kiểu tiếp cận thống
nhất, phân biệt và tập trung, giữa trực tiếp và gián tiếp mà trong đó máy tính và
internet đã làm thay đổi hoàn toàn các thuật ngữ và t duy kinh tế truyền thống. Điều
này đặt ra thách thức cho ngay các nền kinh tế phát triển khi mà để áp dụng các công
nghệ và kỹ thuật kinh doanh mơi, họ phải thay đổi cơ cấu kinh tế, phải có chính sách
mới về ván đề thất nghiệp và việc làm, phải tạo dựng đợc nguồn tài chính cho các
quá trình cải cáchDo đó, sự biến đổi nhanh của các quá trình toàn cầu luôn là thách
thức to lớn cho các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi vốn còn yếu kém về
nhiều phơng diện, cả về nguồn lực và thể chế điều tiết nền kinh tế.Tuy nhiên, trong
trờng hợp này, thách thức cũng đồng thời là cơ hội. Bởi lẽ, các nền kinh tế đang phát
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
triển và chuyển đổi sẽ có điều kiện để cải cách toàn diện nền kinh tế của mình, tranh
thu tối đa các nguồn lực và kinh nghiệm nớc ngoài để điều chỉnh chiến lợc phát triển
kinh tế.Đặc biệt, để thích ứng với các tốc độ biến đổi nhanh của nền kinh tế toàn cầu,
sự năng động của giới lãnh đạo chính phủ các quốc gia giữ vai trò quyết định. Họ cần
đoạn tuyệt dứt khoát với lối t duy kinh tế cũ, bảo thủ và còn mang nặng dấu ấn tập
trung quan liêu bao câp để thúc đẩy nền kinh tế nớc mình chuyển đổi tích cực sang
nền kinh tế thị trờng mở cửa.
Dới sự tác động của toàn cầu hoá kinh tế, lợi thế so sánh của các quốc gia trong
nền kinh tế toàn cầu có sự thay đổi căn bản. Trên phạm vi toàn cầu, lợi thế phát triển
chủ yếu của thế giới ngày nay là trí tuệ và hàm lợng công nghệ cao chứ không còn là
lao động rẻ, tài nguyên rẻ và nguồn vốn.Điều này đặt ra sự phân chia giữa các nhóm

nớcvà khẳng định vai trò của từng nhóm nớc với những lợi thế so sánh khác nhau để
bổ sung cho nhau trong sự hợp tác và phát triển. Các lợi thế này cũng luôn biến đổi
tuỳ theo trình độ phát triển của mỗi nớc và đơmg nhiên nền kinh tế nào càng kém
phát triển, càng chịu nhiều thua thiệt và rủi ro do sự suy giảm về lợi thế so sánh gây
ra. Đó là thách thức cho các nớc đi sau. Tuy vậy, những cơ hội do toàn cầu hoá đem
lại cho các nớc đi sau cũng rất lớn . Các nớc này nếu tận dụng đợc những cơ hội đó
chắc chắn sẽ có những cuộc rợt đuổi và bứt phá ngoạn mục theo mô thức phát triển
rút ngắn. Chẳng hạn, bằng các lợi thế bên trong của mình về thị trờng, lao động và
tài nguyên các nớc này có thể tham gia vào các tầng nấc thấp hơn của sự dịch chuyển
cơ cấu kinh tế toàn cầu. Trong khi các nớc phát triển tập trung vốn và các nguồn lực
của họ vào các ngành kỹ thuật-công nghệ cao, có sức cạnh tranh lớn thì các đang
phát triển sẽ có cơ hội phát triển mạnh, các ngành công nghệ chế tạo truyền thống,
sử dụng nhiều vốn và lao động đồng thời, tận dụng kỹ thuật cao do bớc chuyển sang
nền kinh tế tri thức đem lại, các nớc này có thể hiện đại hoá các ngành sản xuất
truyền thống. Về đại thể họ có thể hớng tới một cơ cấu kinh tế với trình độ công nghệ
không cao nhng tiên tiến, những ngành sử dụng nhiều lao động và là thành phần
không thể thiếu trong thị trờng hoá- dịch vụ thế giới. Trong không gian phát triển
đó,các nớc này sẽ có khả năng tiếp cận dễ dàng hơn với các dòng vốn quốc tế, các
dòng công nghệ kỹ thuật mới và kỹ năng quản lý hiện đại. Vấn đề là các nớc đi sau
cần có mô thức thích ứng và tận dụng đợc các cơ hội này.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Để đạt đợc mô hình công nghiệp hoá theo kiểu rút ngắn thì cần phải có t duy mới
về công nghiệp hoá cho các nớc đi sau trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế. Một là,
sự phân công lao động mới trên phạm vi toàn cầu đã dành cơ hội cho các nớc này
phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh về mặt lao động tài nguyên.
Hailà, kinh nghiệm thế giới đã chỉ cho thấy để đạt đợc tỷ trọng công nghiệp chế biến
từ 85-90%trong tổng kim ngạch xuất khẩu, các nớc mới công nghiệp hoá đã mất
khoảng 20-25 năm và khoảng thời gian này đang có xu hớng ngày càng ngắn lại. Ba
la, chu kỳ sống của sản phẩm chế tạo ngày càng rút ngắn rút ngắn còn khoảng 1-3

năm thay vì trên 10 năm, nh nhiều dự báo đã khẳng định. Theo đó, quá trình đổi mới
công nghệ, nâng cao chất lợng mẫu mã , kiểu dáng và năng lực cạnh tranh của sản
phẩm hàng hoá sẽ diễn ra với tốc độ nhanh. Bốn là, điều kiện để đợc thụ hởng các u
đãi về thuế quan và phi thuế quan trong các hiệp định thơng mại đa phơng mang tính
khu vực và quốc tế chủ yếu đều dành cho các sản phẩm công nghiệp chế biến, chế
tạo. Do đó bắt buộc tiến trình công nghiệp hoá của các nớc phải đẩy nhanh để ngay
lập tức đợc hởng lợi từ các Hiệp định mà mình là thành viên. Năm là, sự bành trớng
hoạt động của các TNC sang các nớc đang phát triển cũng nh việc đẩy mạnh khuynh
hớng sát nhập đang trở thành một nhân tố tích cực trong việc tăng tổng đầu t xã hội
cho các nớc tiếp nhận, trong việc bổ sung công nghệ kỹ thuật, kỹ năng quản lý và
văn minh kinh doanh mới cho các nớc đối tác. Mă3tj khác, sự hiện diện của các TNC
về đầu t thơng mại đã bắt buộc các nhà sản xuất trong nớc, kể cả việc sản xuất phục
vụ nhu cầu bên trong theo hớng nhập khẩu đã đến lúc cũng phải coi thị trờng nội địa
nh là một bộ phận của chỉnh thể thị trờng thế giới, Họ phải nâng cao năng lực cạnh
tranh trên thị trờng khu vực và quốc tế để phát triển. Theo đó tiến trình công nghiệp
hoá sẽ có điều kiện phát triển hiệu quả với tốc độ nhanh hơn .Liên kết và hợp tác với
các quốc gia, các khu vực, giữa các tập đoàn kinh doanh lớn nhỏ là xu hớng chủ đạo
song sự cạnh tranh giữa chúng vẫn tồn tại và càng quyết liệt. Lợi thế cạnh tranh trong
nền kinh tế mới nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá- tuỳ thuộc vào sức mạnh công
nghệ, sức mạnh về quy mô tài chính và năng lực kiểm soát nền kinh tế của các quốc
gia. Sức cạnh tranh của các quốc gia, ngoài việc dựa vào sức cạnh tranh của các tập
đoàn kinh tế, còn tuỳ thuộc vào vị thế, lợi thế so sánh và mức độ tham gia của các
quốc gia đó vào thể chế khu vực và quốc tế. Thực tế đã chứng minh rất sinh động là
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những nớc nào thích ứng nhanh với xu hớng tự do hoá và có năng lực cạnh tranh
ngày càng cao, sẽ luôn là những quốc gia chịu sự tác động ít nhất của những chấn
động kinh tế khu vực và quốc tế. Hơn nữa, thế thơng lợng cạnh tranh của các quốc
gia thành viên đợc nâng cao trong quan hệ hợp tác kinh tế song phơng. Rõ ràng, cạnh
tranh và hợp tác lạ hai động lực của sự phát, trong đó theo yêu cầu của các tiến trình

toàn cầu hoá, hợp tác sẽ là nhân tố chủ đạo của nền kinh tế toàn cầu hoá đã xoắn bện
chặt chẽ các nền kinh tế quốc gia và khu vực.
Những phân tích trên cho thấy là toàn cầu hoá kinh tế rõ ràng là đợc khởi nguồn
và thúc đẩy bởi các nớc t bản phát triển do chỗ các nớc có nền tảng khoa học công
nghệ cao , có tiềm lực và trình độ phát triển và trình độ phát triển cao, có phạm vi
ảnh hởng rộng lớn trong nền kinh tế thế giới. Tuy vậy cùng với tiến trình phát triển,
những mục tiêu chủ quan ban đầu của họ đã dần dần trở thành những động lực khách
quan và đằng sau những quá trình trên quy mô toàn cầu, các nớc t bản phát triển
cũng không hoàn toàn kiểm soát những lợi ích, những chơng trình kinh tế của họ đã
ngày càng bị phụ thuộc rất lớn vào nhiều tập đoàn khác, vào nhiều nớc và nhiều khu
vực khác, thậm chí họ không thể vợt qua đợc những định chế quốc tế, trái lại họ chỉ
đóng vai trò là một trong nhiều thành viên tham gia soạn thảo các chơng trình phát
triển toàn cầu. Do vậy, toàn cầu hoá đã không còn là của riêng các nớc công nghiệp
phát triển và tự do trong nội hàm cuả nó, toàn cầu hoá đã thể hiện là đặc tính chung,
văn minh chung của sự phát triển toàn cầu. Để có đựơc nền kinh tế thực sự phát triển
và bền vững thì các quốc gia nên đi theo cách tiếp cận này để tham gia vào các tiến
trình hội nhập quốc tế tích cực, tự tin và có trách nhiệm cao hơn.
II- Nớc ta cần phải chủ động tham gia vào toàn cầu hoá và quốc
tế hoá kinh tế:
1-Bối cảnh quốc tế và khu vực:
Trong tác phẩmnhững giới hạn của sự tăng trởng. Câu lạc bộ Ronma xuất bản
1972, cho rằng sự sụp đổ kinh tế toàn cầu sẽ xảy ra sau một thập kỷ nữa. Đó là một
dự báo bi quan về kinh tế thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế, kinh tế thế giới chẳng
những không sụp đổ mà còn phát triển mạnh mẽ hơn, mặc dù không phải không có
trục trặc. Sự bùng nổ kinh tế thế giới trong những năm 90 bắt nguồn từ sự gia tăng
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
buôn bán giữa hơn 160 nớc. Sự buôn bán này đang biến kinh tế thế giới từ những
mảng thị trờng riêng lẻ thành một thị trờng, một nền kinh tế duy nhất. Một xu hớng
mới đã hình thành, xu hớng toàn cầu hoá kinh tế.

Năm 1998 Mỹ và Canada đã ký hiệp ớc tháo dỡ mọi rào cản trong việc buôn bán
giữa hai nớc. Sau đó Mexico tham gia vào đã biến Bắc Mỹ thành một thị trờng rộng
lớn. Năm 1992, 12 nớc cộng đồng Châu Âu cũng bãi bỏ mọi chớng ngại trong việc
buôn bán giữa các nớc trong khối cộng đồng, làm cho Tây Âu trở thành một khu vực
kinh tế thống nhất rộng lớn. Vòng đàm phán U-ru-goay kết thúc, hiệp định Ma-ra-ket
đợc ký kết. Tổ chức thơng mại thế giới (WTO) ra đời từ 01-01-1995 thu hút tới 136
và ngày nay là 144 quốc gia và lãnh thổ, chiếm gần 100% kim ngạch buôn bán quốc
tế, theo hớng giảm mạnh hàng rào quan thuế và phi quan thuế, mở cửa thị trờnghàng
hoá, đầu t, dịch vụBên cạnh đó sự ra đời của WTO xuất hiện rất nhiều tổ chức tiểu
vùng, khu vực, liên khu vực nh các tam giác, tứ giác phát triển, các khu vực mậu dịch
tự do(AFTA, NAFTA), những tổ chức liên kết toàn châu lục (EU) hoặc giữa các
châu lục (APEC). Các nớc lớn nhỏ đều dành u tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi
chính sách kinh tế mở. Ngay cả những nớc có tiềm năng thị trờng rộng lớn nh Trung
Quốc, Nga, ấn Độ,Mỹ và cả một số nớc vốn khép kín theo mô hình tự cung tự cấp
cũng dần mở cửa, từng bớc hội nhập vào nền kinh tế thế giới
Mặt khác, cộng đồng thế giới đứng trớc nhiều vấn đề suy thoái toàn cầu : môi tr-
ờng suy thoái, bùng nổ dân số, nghèo đói, các bệnh tật hiểm nghèo, các vấn đề xã hội
xuyên quốc gia, không một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết đợc mà cần có
sự hợp tác đa phơng. Tình hình trên làm nảy sinh và thúc đẩy xu thế hội nhập để
cùng nhau phát triển. Trong xu thế chung đó, các nớc công nghiệp phát triển, trớc hết
là Mỹ, do có u thế về thị trờng, nắm đợc tiến bộ khoa học công nghệ, có nền kinh tế
phát triển cao đã ra sức thao túng, chi phối thị trờng thế giới, áp đặt điều kiện đối với
các nớc chậm phát triển hơn, thậm chí dùng những biện pháp thô bạo nh bao vây,
cấm vận trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nớc đang phát triển và chậm phát
triển. Trớc tình hình đó, các nớc đang phát triển từng bớc tập hợp nhau lại, đấu tranh
chống chính sách cờng quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự
kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng. Điều đó chứng tỏ xu thế hội nhập phản ánh
cục diện vừa đẩy mạnh hợp tác, vừa đấu tranh khốc liệt.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368

ở khu vực Đông Nam á đã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Sau nhiều thập kỷ chiến
tranh, đối đầu, Đông Nam á đã có hoà bình, xu thế hợp tác không ngừng gia tăng.
Nhất là cuối thiên niên kỷ thứ hai đầu thiên niên kỷ thứ ba hàng loạt biến cố chính
trị, xã hội xảy ra càng làm cho thế giới xích lại gần nhau hơn, mà trớc hết là về mặt
kinh tế. Đó là sự mở rộng của ASEAN, sự liên kết ASEAN với ba nớc đối thoại EU.
Cũng cần phải nói thêm rằng sự phát triển đột biến của các phơng tiện vô tuyến
viễn thông càng đẩy nhanh quá trình buôn bán giữa các nớc, các khu vực khác nhau
trên thế giới. Cùng với sự phát triển của vô tuyến viễn thông, là sự nối mạng máy
tính, mạng internet xuất hiện, đã làm cho trái đất rộng lớn hôm qua, trở thành ngôi
nhà bé nhỏ hôm nay. Tình hình thế giới trong những năm gần đây đã đem lại nhiều
thuận lợi to lớn, đồng thời đặt ra nhiều thách thức gay gắt đối với nớc ta trong quá
trình phát triển đất nớc nói chung và quá trình hội nhập nói riêng.
2-Thời cơ và thách thức của toàn cầu hoá và quốc tế hoá:
Ngày nay chủ nghĩa t bản đóng vai trò chi phối quá trình toàn cầu hoá. Với cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại, công nghệ thông tin và viễn thông, quá trình này
ngày càng phát triển mạnh mẽ về chiều rộng cũng nh chiều sâu với tốc độ rất nhanh.
Hiện tại toàn cầu hoá đã bộc lộ những mặt tích cực và tiêu cực, điều này thể hiện rất
rõ qua sự tác động của nó đối với các nớc đang phát triển:
A-Thời cơ:
a-Toàn cầu hoá và quốc tế kinh tế hoá giúp các nớc đang phát triển mở rộng thị
trờng ra nớc ngoài, sự giao lu hàng hoá thông thoáng hơn, hàng rào thuế quan và phi
thuế quan thuyên giảm, nhờ đó sự trao đổi hàng hoá tăng mạnh có lợi cho sự phát
triển các nớc. Nếu Việt Nam gia nhập WTO sẽ đợc hởng những u đãi dành cho nớc
đang phát triển theo quy chế tối huệ quốc trong quan hệ với 132 nớc thành viên của
tổ chức này do vậy hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu vào các nớc đó dễ dàng hơn.
Từ năm 2002 hàng rào thuế quan của các nớc APEC sẽ đợc dỡ bỏ. Đây cũng là cơ
hội để nớc ta xuất khẩu hàng hoá vào các nớc thành viên APEC. Toàn cầu hoá đã tạo
ra khả năng để mỗi quốc gia phát huy lợi thế so sánh. Lợi thế so sánh đã từng bớc
cuốn trôi hàng rào thuế quan và phi quan thuế. Nếu tính từ đầu thế kỷ 20 đến nay
(khi GATT ra đời) kim ngạch buôn bán của thế giới đã tăng 2 lần. Song từ đầu thập

niên 90 của thế kỷ 20 kim ngạch buôn bán đã tăng 50 lần. Khi thị trờng thế giới
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thống nhất và phát triển thì các rào cản thơng mại từng bớc bị loại bỏ, một trong
những thành công của phơng diện này là sự ra đời của tổ chức thơng mại thế giới
WTO ngày 1-1-1995 và tiếp theo là việc giảm thuế quan giữa các thành viên của
WTO xuống mức bình quân là 3% đối với các nớc phát triển và dới 15% đối với các
nớc đang phát triển. Đồng thời do giá thành vận tải thơng mại quốc tế liên tục hạ,
hiện nay chỉ còn 2% giá trị hàng hoá, trong khi tỷ lệ xuất khẩu vẫn vẫn không ngừng
tăng, năm 1998 là 24,3%, dự tính đến năm 2005 sẽ đạt 28%. Thơng mại phát triển
khiến cho thị trờng thống nhất hơn, xu thế thống nhất lại đòi hỏi loại bỏ các hàng rào
thơng mại.
b-Khi tham gia toàn cầu hoá, nớc ta có cơ hội mở rộng thu hút nguồn vốn đầu t
nớc ngoài. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trờng của nớc nớc ta đ-
ợc mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu t. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào n-
ớc ta, sử dụng lao động và tài nguyên vốn có của nớc ta, làm ra các sản phẩm tiêu thụ
trên thị trờng khu vực và thế giới với các u đãi mà nớc ta có.Cơ hội hội mở rộng thị
trờng kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu t nớc ngoài. Đây là cơ hội để thúc đẩy nguồn
vốn trong nớc và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả hơn. Góp phần làm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong nớc theo hớng công nghiệp hoá, phát triển lực lợng sản xuất và tạo
thêm công ăn việc làm cho ngời lao động.Chẳng hạn, tính theo tỷ lệ GDP, luồng vốn
thâm nhập vào các nớc đang phát triển trong vòng 10 năm từ 1986 đến 1996 đã tảng
khoảng 2 lần Riêng Trung Quốc, trong vòng 3 năm 1993- 1995 đã nhận đợc 110 tỷ
USD, vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI) chiếm khoảng 20% tổng đầu t của cả nớc.
FDI cung cấp 34,7% đầu t cho hàng xuất khẩu và 28,7% đầu t cho công nghiệp của
Trung Quốc năm 1994Thực tế này cho thấy, những nớc đang phát triển bứt lên đợc
về kinh tế là những nớc đã tận dụng đợc các cơ hội và thu hút đợc những khoản FDI
lớn nhất.
Để sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, bắt buộc những nớc đang phát triển phải nâng
cao trình độ về mọi mặt, phải đổi mới công nghệ, cải tiến phơng thức quản lý, nâng

cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động. Tất cả những điều đó đa
đến một kết quả là: các nớc phát triển thì ngày càng giàu có, còn các nớc đang phát
triển cũng phát triển mạnh mẽ về lực lợng sản xuất. Sự phát triển của các nớc NICs,
đặc biệt là những con rồng Châu á trong mấy thập kỷ qua đã chứng minh điều đó.
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
c- Tranh thủ đợc kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nớc đi trớc để đẩy nhanh
tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội . Nếu nh trớc đây việc chuyển giao kỹ thuật chỉ là hình
thức chủ yếu, thì hiện nay chuyển giao công nghệ diễn ra rất nhanh chóng, làm cho
các nớc lạc hậu có thể rút ngắn thời gian phát triển của mình. Hội nhập kinh tế quốc
tế là con đờng để khai thông thị trờng nớc ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trờng
đầu t hấp dẫn và có hiệu quả, qua đó mà kỹ thuật công nghệ mới có điều kiện du
nhập vào nớc ta đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kỹ thuật, công nghệ quốc
gia. Trong cạnh tranh quốc tế, có thể công nghệ này là cũ đối với các nớc phát triển
nhng lại là mới và có hiệu quả tại một nớc đang phát triển nh Việt Nam. Trong
những thập niên vừa qua cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nhất là công nghệ thông
tin và viễn thông phát triển mạnh, làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới và đã tạo điều
kiện để Việt Nam tiếp cận những phát triển mới này. Sự xuất hiện và hoạt động của
nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại nh Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí
Minh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dơngvà những khu liên doanh trong ngành công
nghệ dầu khí đã minh chứng điều đó. Bu chính viễn thông và giao thông vận tải bao
phủ toàn cầu làm cho năng suất lao động tăng nhanh không có giới hạn cuối cùng.
Điều đó cũng có nghĩa là giá thành sản phẩm không ngừng giảm xuống, sức mua của
đồng tiền tăng lên. Cuối cùng là đời sống ngời dân không ngừng đợc cải thiện .
d- Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội mở rộng giao lu các nguồn lực của nớc
ta khai thông giao lu với các nớc. Ta có thể thông qua hội nhập để xuất khẩu lao
động hoặc có thể sử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng
xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, công nghệ mới
các phát minh sáng chế mà ta cha từng có. Đồng thời hội nhập kinh tế quốc tế góp

phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi dỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh
vực. Phần lớn các cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã
đợc đào tạo ở cả trong và ngoài nớc. Chỉ tính riêng trong các công trình đầu t nớc
ngoàidã có khoảng 30 vạn lao động trực tiếp, 600 cán bộ quản lý và 25 000 cán bộ
khoa học kỹ thuật đã đợc đào tạo.
e-Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy quá trình nhất thể hoá kinh tế khu vực phát triển
nhanh chóng, trao đổi kinh tế giữa các khu vực ngày càng quan trọng, tăng thêm sự
15

×