Đề tài: Đặc điểm của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
LỜI NÓI ĐẦU
Hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam được thể hiện rõ nét qua
nhiều thời kỳ. Mỗi thời kỳ lại có những đặc điểm về hình phạt khác nhau, được
thể hiện từ thời Ngô – Đinh - Tiền Lê cho đến thời kỳ nhà Nguyễn. Những hình
phạt phong kiến đều được sử cũ ghi lại rất cụ thể. Điển hình, như ở thời Lê sơ thì
các hình phạt được quy định rõ trong bộ Quốc triều hình luật (QTHL)- dân gian
quen gọi là bộ luật Hồng Đức, bộ luật tiêu biểu cho pháp luật phong kiến Việt
Nam. Ngoài ra còn có bộ, Hoàng Việt luật lệ (HVLL) của nhà Nguyễn cũng đều
quy định rõ nét những hình phạt dã man tàn bạo và thể hịên được tính phổ biến
của hình phạt trong pháp luật phong kiến. Sau đây là những phân tích của em về
đề tài: “ Đặc điểm của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam”. Trong
quá trình làm bài còn nhiều thiếu sót, em mong các thầy cô giáo góp ý và sửa
chữa giúp em, để bài làm được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn !
PHẦN NỘI DUNG
Đặc điểm về các hình phạt trong pháp luật phong kiến được thể hiện qua
bốn phương diện sau :
1. Hình phạt dã man tàn bạo.
Hình phạt dã man tàn bạo được thể hiện ngay từ thời kì Ngô – Đinh – Tiền
lê cho đến thời nhà Lê, thì những hình phạt này được thể hiện rõ nét hơn trong
bộ Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức), đến thời Nguyễn thì các hình phạt
được sử cũ ghi lại trong Hoàng việt luật lệ (Luật Gia Long). Các hình phạt trong
các bộ luật này đều mang tính hà khắc, nhiều hình phạt mang tính dã man, tàn
bạo như thích chữ, chém bêu đầu, lăng trì. Điển hình đó là hệ thống hình phạt
1
Đề tài: Đặc điểm của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
ngũ hình và các hình phạt khác ngoài ngũ hình nhưng hình phạt thuộc về ngũ
hình gĩư vai trò chủ đạo. Các hình phạt thuộc về ngũ hình bao gồm:
Thư nhất là xuy (phạt roi) là hình phạt đánh bằng roi mây nhỏ vào mông
người bị trừng phạt làm cho họ thấy xấu hổ, nhục nhã để tự sửa lỗi lầm của
mình. Hình phạt này là nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt. Chúng được chia làm
năm bậc từ 10 đến 50 roi. Trong QTHL xuy có thể là hình phạt được áp dụng
độc lập( ví dụ điều 573, điều 640...), cũng có thể là hình phạt áp dụng kèm theo
phạt tiền, biếm( ví dụ điều 295, điều 374...). Cả QTHL và HVLL thì xuy đều
được áp dụng cho cả nam và nữ, tuy nhiên QTHL thì thường áp dụng cho nữ
giới.
Thứ hai là Trượng( Đánh bằng gậy) là hình phạt nghiêm khắc hơn hình phạt
bằng roi. Trong HVLL thì quy định 2 roi thì bằng 1 trượng, ai phạm tội nặng hơn
50 roi thì người ta bỏ roi mà xử bằng trượng. Cả QTHL và HVLL đều quy định
phạt bằng trượng có 5 bậc từ 60 đến 100, mỗi bậc là 10 trượng. Trong QTHL
hình phạt này chỉ áp dụng đối với nam giới phạm tội ( ví dụ như ở điều 570,
640...), nhưng cũng có thể là hình phạt áp dụng kèm theo các tội lưu, tội đồ và
tội biếm. Còn HVLL thì nứ giới phạm tội vẫn bị đánh bằng trượng(tuy phạm vi
áp dụng có hạn chế) cụ thể điều 19 quyển 2 còn dự liệu đánh trượng đối với nữ
phạm nhân, nếu là tội thông gian thì bắt lột áo, tội khác thì cho mặc áo mỏng.
Tuy nhiên nữ phạm nhân thì được miễn thích chữ. Nếu đàn bà phạm tội đồ hay
tội lưu thì đánh hẳn 100 trượng, còn dư tội thì cho chuộc. Điều này cho thấy việc
quy định rõ đối tượng bị áp dụng trượng thể hiện rõ tính nhân đạo ưu việt hơn
hẳn của QTHL so với HVLL.
Thứ ba là Đồ (khổ sai). Đối với QTHL thì Đồ là hình phạt được quy định áp
dụng kèm theo xuy, trượng, hoặc thích chữ, đeo xiềng. Đồ có ba bậc: Bậc thứ
nhất là dịch đinh và dịch phụ (cả nam và nữ đều phải làm việc nặng nhọc), nam
phạm tội phạt 80 trượng, nữ phạm tội phạt 50 roi. Bậc thứ hai là tượng phường
2
Đề tài: Đặc điểm của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
binh( lính quét dọn chuồng voi) và suy thất tuỳ ( đàn bà làm đầy tớ trong nhà nấu
cơm ), nam phạm tội thì bị đánh 80 trượng, thích vào cổ hai chữ; nữ phạm tội bị
đánh 50 roi, thích vào cổ hai chữ và đều phải làm những công việc trên. Bậc thứ
ba là chủng điền binh( làm lính đồn điền) và thung thất tỳ (Đàn bà làm đầy tớ giã
gạo), nam phạm tội bị đánh thêm 80 trượng, thích vào cổ 4 chữ, đeo xiềng; nữ
phạm tội bị đánh 50 roi, khắc vào cổ 4 chữ và đều phải làm những công việc
trên. Còn đối với HVLL thì Đồ (làm việc nặng nhọc)là hình phạt được áp dụng
đối với người phạm tội hơi nặng. Người phạm tội bị gửi về quản thúc tại trấn nơi
họ ở, đồng thời người bị áp dụng hình phạt này phải làm những công việc nặng
nhọc với thời hạn từ 1 năm đến 3 năm. Đồ được chia làm 5 bậc, mỗi bậc là 10
trượng và đồ là nửa năm. Đồng thời, tuỳ theo thời hạn bị áp dụng là ngắn hay dài
mà mỗi bậc lại áp dụng thêm một phụ hình với mức phạt 60 trượng đến 100
trượng. Việc áp dụng hình phạt này được coi là một sự tiến bộ hơn hẳn so với
hình phạt khổ sai (5 bậc). Các phạm nhân không bị giam giữ tại trạm giam sau
khi làm việc, do đó tránh được họ cảnh lao tù và giúp họ có điều kiện để hoàn
lương vì họ vẫn được tiếp xúc với xã hội.
Thứ tư là lưu (đi đầy) là hình phạt đày đi nơi xa. Loại hình phạt này đứng
hàng thứ tư trong thang hình phạt cổ. Trong QTHL thì lưu được quy định áp
dụng kèm theo xuy, trượng, thích chữ hoặc đeo xiềng. Lưu có ba bậc là Châu
gần, Châu ngoài, Châu xa, tuỳ theo tội mà tăng giảm. Như ở bậc Châu xa thì
đánh 100 trượng, thích vào mặt 10 chữ, bắt đeo xiềng 3 vòng, đày đi làm việc
Cao Bằng. Còn trong HVLL hình phạt lưu được chép đúng như luật nhà thanh và
chia làm ba bậc, phạm nhân phải đày đi nơi xa 2000 dặm, 2500 dặm, hoặc 3000
dặm là những khoảng cách giữa nơi sinh sống và nơi phạm tội phải chấp hành
hình phạt. Ví dụ như nếu tỉnh của phạm nhân cư trú là Quảng Nam mà bị phạt
lưu 2000 dặm thì nơi mà người phạm tội phải đi đầy là Biên Hoà. Các phạm
nhân được tự do làm việc tuy nhiên người dân xưa thường khiếp sợ hình phạt
3
Đề tài: Đặc điểm của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
này vì đối với họ phải sống xa quê là một cực hình và nhiều trường hợp người đi
đày không trở về quê hương được nữa .
Thứ năm là Tử (tội chết) là hình phạt được quy định áp dụng độc lập và
được chia làm 3 bậc tuỳ theo mức nặng nhẹ là: Bậc thứ nhất là thắt cổ (giảo),
chém (trảm); bậc thứ hai là Chém bêu đầu (trảm kiều); bậc thứ ba là Lăng trì (róc
thịt cho chết dần). Như vậy, theo Quốc triều hình luật thì chỉ có tử là hình phạt
có khả năng được áp dụng độc lập. Còn theo HVLL thì tử là hình phạt nghiêm
khắc nhất trong hệ thống ngũ hình. Hình phạt tử hình có hai bậc là giảo (thắt cổ)
và trảm (chém đầu). Những phạm nhân bị xử tội giảo hay tội trảm mà hành hình
ngay thì gọi là giảo quyết và trảm quyết. Điều đặc biệt ở HVLL là không quy
định hình thức xử tử bằng lăng trì, điều này phù hợp với phần giải thích trong bộ
luật “Chết lăng trì là một hình phạt ghê khiếp nhất trong các hình phạt...ngày nay
vĩnh viễn bỏ nhục hình ấy, vĩnh viễn bỏ, chỉ còn giữ lại hình phạt ghê khiếp ngoài
hết thảy mọi ghê khiếp này là bằng cách chém kẻ bất trung, bất hiếu thôi”. Tuy
nhiên tại một số điều luật quy định về tội phạm trong HVLL lại quy định hình
phạt tử hình bằng hình thức lăng trì (Điều 223, 253, 254...). Việc quy định hình
phạt bằng hình thức lăng trì là một sự mâu thuẫn với phần giải thích của bộ luật
và điều này tạo ra sự hạn chế nghiêm trọng trong lịch sử lập pháp hình sự của
thời nhà Nguyễn. So với QTHL thì HVLL quy định hình phạt tử hình nghiêm
khắc hơn nhiều, nếu QTHL không quy định chế định “tộc tru” (giết cả họ) thì
trong HVLL đã chính thức quy định chế định này tại điều 223 (Mưu đại nghịch).
Những hình phạt dã man, tàn bạo không chỉ lấy đi tính mạng của người
phạm tội mà còn hạ thấp danh dự, nhân phẩm của họ. Có những tội phạm bị
gông cùm, dải đi khắp thành để dân chúng ném, chửi. Những hình phạt trên còn
đánh vào tâm lý của người dân. Tính dã man tàn bạo còn thể hiện dấu ấn của
hình phạt suốt đời như là thích chữ...Các hình phạt ngoài ngũ hình bao gồm biếm
tước, phạt tiền, thích chữ, đeo xiềng và tịch thu tài sản trong đó biếm tước và
4
Đề tài: Đặc điểm của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
phạt tiền được quy định vừa có thể áp dụng độc lập, vừa có thể áp dụng kèm theo
hình phạt khác.
2. Hình phạt trong pháp lụât phong kiến được áp dụng phổ biến.
Hình phạt là chế tài phổ biến đối với các hành vi vi phạm dù trong lĩnh vực
hình sự hay dân sự, hành chính, hôn nhân gia đình, luân thường đạo lý...Quan
niệm đó làm cho hình phạt trong lụât hình phong kiến nói chung có tính phổ
biến.
Trong dân sự, thời Lê Trịnh quy định nếu là hợp đồng bán đất thì người bán
không được đòi chuộc lại (chiếu 6/1135 và chiếu 3/1292), người nào cố tình đòi
chuộc phạt 80 trượng. Trong QTHL thời Lê quy định tại chương điền sản (từ
điều 342 đến điều 400), ví dụ như điều 397: Hướng dẫn cách chia hương hảo
một trường hợp cụ thể, hay tại điều 356 quy định: “Những người tá điền cày nhờ
ruộng ở nhà người khác mà trở mặt thì phạt 60 trượng, biếm 2 tư...”
Trong hôn nhân và gia đình: Cả QTHL và HVLL đều quy định tội bất hiếu
là một trong 10 trọng tội và được xếp vào nhóm tội thập ác. Ví dụ như điều 475,
QTHL quy định: “Lăng mạ ông bà cha mẹ thì xử tội lưu châu ngoài, đánh thì xử
tội lưu đi châu xa, đánh bị thương thì xử tội giảo, vì lầm lỡ mà làm chết người thì
xử tội lưu châu ngoài, bị thương thì xử tội đồ, làm chủng điền binh”. Các quan hệ
khác như: Vợ - chồng, vợ cả và vợ lẽ, anh chị em...nếu làm trái điều quy định thì
càng bị xử lý bằng hình phạt.
Trong hình sự, tại điều 428, QTHL quy định về tội ăn cướp rồi lại hiếp dâm
“Ăn cướp mà lại hiếp dâm thì sử tội chém bêu đầu, ăn trộm mà lại hiếp dâm thì
xử tội chém..."; điều 235, HVLL quy định về tội cướp giật mạnh “Phàm cướp
giật mạnh nhưng không lấy được tiền thì phạt 100 trượng, lưu 300 dặm”. Nhìn
chung, tính phong kiến còn thể hiện ở chỗ pháp luật phong kiến có xu hướng mở
rộng diện trách nhiệm hình sự. Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, pháp luật
5