Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Định tội danh và quyết định hình phạt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.45 KB, 8 trang )

Bài làm:
I. Lời mở đầu:
Như ta đã biết, định tội danh là giai đoạn có ý nghĩa quan trọng, là tiền đề
cho việc xác định khung hình phạt, quyết định khung hình phạt chính xác,
đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không xử oan
người, không bỏ lọt tội. Đó là việc mà cơ quan thẩm quyền sẽ dựa trên cơ
sở của BLHS sau đó xem xét, đánh giá các tình tiết thực tế của vụ ánh hình
sự; hành vi đã thực hiện trên thực tế thỏa mãn các dấu hiệu của tội phạm nào
được quy định trong BLHS rồi trên cơ sở đó mới xác định vấn đề trach
nhiệm hình sự của bị cáo.
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy, các cơ quan tiến hành tố tụng
còn gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh, đặc biệt
đối với những vụ án mà hành vi phạm tội của bị can, bị cáo không thể hiện
các yếu tố cấu thành tội phạm một cách đặc trưng, rõ ràng. Nếu thiếu cẩn
trọng, bỏ sót hoặc nhận định sai một tình tiết nào đó thì dẫn đến hậu quả
định tội danh không đúng cho người thực hiện hành vi nguy hiểm. Và điều
đó thấy rõ qua thực tế xét xử các vụ án xâm phạm quyền sở hữu. Sau đây, ta
sẽ tìm hiểu một vụ án như thế để làm rõ hơn vấn đề trên:
Bài 4: Trên đường đi uống rượu về, H và Q phát hiện chị B cùng hai
người bạn đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường. Thấy chị B đeo
nhiều nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu
đồng. Gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản
và đi báo công an. Về vụ án này có các ý kiến như sau về tội danh của H
và Q:
1. H và Q phạm tội cướp tài sản.
2. H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
3. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.
1
II. Nội dung:
Tình huống trên yêu cầu xác định tội danh trong các tội về xâm phạm quyền
sở hữu. Giả sử, về mặt chủ thể đã thỏa mãn, khách thể tội phạm đều là quan


hệ sở hữu bị xâm hại; mặt chủ quan của tội phạm thì ta thấy đây là lỗi cố ý
trực tiếp. Để xác định là tội phạm gì chỉ phải dựa vào mặt khách quan, biểu
hiện qua các hành vi của tội phạm.
Theo ý kiến cá nhân em, dựa vào những quy định tại chương XIV: các tội
xâm phạm về sở hữu và những tình tiết cụ thể xẩy ra trong vụ án thì H và Q
đã phạm tội trộm cắp tài sản chứ không phải tội cướp tài sản hay tội công
nhiên chiếm đoạt tài sản.
• Em hoàn toàn không đồng ý rằng, H và Q đã phạm tội cướp tài
sản, bởi:
Theo quy định tại điều 133 BLHS: “ Tội cướp tài sản là dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công
lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản...”
Theo đó, thì hành vi khách quan mà thực tế tội phạm phải thỏa mãn được
mới có thể xếp vào tội cướp tài sản, đó là:
- Hành vi dùng vũ lực;
- Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc;
- Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được.
Trong vụ án cụ thể trên không thỏa mãn bất cứ dấu hiệu nào về hành vi
khách quan trong 3 dạng hành vi trên. H và Q không có không có bất cứ
hành động nào để được xem là dùng vũ lưc ( như ta đã biết như đấm, đá,
đâm, chém… ) hay đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc (dùng vũ khí như dao,
súng… dọa giết…) hay có hành vi khác để chị B lâm vào tình trạng không
2
thể chống cự được. Mà tình trạng say nằm mê mệt bên đường của chị B đã
có từ trước khi H và Q xuất hiện, không phải do hai đối tượng này gây nên.
H và Q chỉ tình cờ thấy được, nảy lòng tham và lợi dụng tình trạng không
thể chống cự ấy của chị B để chiếm đoạt tài sản. Như vậy hoàn toàn thiếu đi
dấu hiệu về hành vi khách quan của tội phạm cướp tài sản. Vậy một lần nữa
khẳng đinh ý kiến H và Q không phạm tội cướp tài sản.

Trong trường hợp này, nếu như sau thì sẽ là tội cướp tài sản: H và Q đã
chuốc cho chị B uống rượu hoặc bắt chị B uống rượu làm chị B say và nằm
mê mệt bên đường không biết gì cả. Lợi dụng lúc đó, H và Q lấy toàn bộ tài
sản trên người chị B. Thì rõ ràng, hành vi thực hiện tội phạm trong trường
hợp này thuộc vào dạng thứ ba đã nêu trên. Tội danh của H và Q lúc này
mới là cướp tài sản.
• H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, theo em cũng là
một ý kiến không đúng, bởi:
Theo quy định tại khoản 1 điều 137 BLHS thì “ Người nào công nhiên
chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới
năm mươi triệu đồng… thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Mặc dù điều luật không mô tả tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là như thế
nào, nhưng thực tiễn xét xử cho thấy tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là
việc người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác trong
điều kiện người quản lí tài sản hoặc người chủ sở hữu tài sản vì hoàn cảnh
khách quan không bảo vệ được tài sản của mình hoặc không có khả năng
ngăn cản hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản đó.
Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội này phân biệt với hành vi chiếm đoạt
của tôi phạm khác qua dấu hiệu công nhiên có những đặc điểm sau:
- Hành vi chiếm đoạt có tính công khai (như ở hành vi của tội cướp).
Công khai ở đây được hiểu là lấy tài sản trước sự chứng kiến của của
3
chủ sở hữu hoăc người có trách nhiệm quản lí tài sản mà không dùng
vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào.
- Hành vi này xảy ra trong hoàn cảnh chủ tài sản do tình thế khách quan
mà không có điều kiện ngăn cản.
Trong tình tiết của vụ án trên, lúc H và Q thực hiện hành vi chiếm đoạt thì
đúng là người chủ tài sản (chị B) không có khả năng, điều kiện ngăn cản do
đang lâm vào tình trạng mê mệt do say rượu. Thế nhưng, về dấu hiệu công
nhiên thì hoàn toàn không thỏa mãn. Bởi trong thực tiễn xét xử, công nhiên

tức là lấy công khai trước sự chứng kiến của chủ tài sản, tức chủ tài sản biết,
nhưng vì một lí do khách quan nào đó mà không thể bảo vệ tài sản của mình
hoặc không thể ngăn cản nổi hành vi phạm tội xẩy ra. Ví dụ như: A để xe
máy ở dưới để trèo lên cột điện sửa điện, lợi dụng lúc A đang ở trên cao,B ở
dưới phóng xe đi mất. Lúc B phóng xe đi, A nhìn xuống thấy nhưng không
làm gì được vì ở quá cao, trèo xuống không kịp. Hay một ví dụ nữa để thấy
rõ hơn: Cụ D đã già, đang cấm khẩu, chỉ nằm một chỗ. Trong lúc con cái đi
làm hết thì C là hàng xóm vào nhà, ngang nhiên lấy xe đạp trong phòng cụ D
đi ra. Cụ D tuy thấy nhưng vì tình trạng sức khỏe lúc ấy nên đã không làm
được gì..v.v.. Thì theo em, những tình huống đó mới thỏa mãn dấu hiệu của
tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Trong tình huống này, mặc dù H và Q không cần phải che dấu nhưng khi
chúng thực hiện hành vi thì chị B hoàn toàn không biết vì đang say và nằm
mê mệt bên đường, sau khi tỉnh dậy mới biết và báo công an. Vì vậy ở đây
sẽ không được xem là công khai, bởi để đánh giá có công khai hay không là
phải đối với chính chủ tài sản hoặc người có quyền đối với tài sản. Vây nên
trường hợp này sẽ không được xem là công khai chiếm đoạt tài sản.
• theo em, ý kiến đúng trong trường hợp này là H và Q đã phạm tội
trộm cắp tài sản, vì:
4
Theo điều 138 BLHS thì tội trộm cắp tài sản cũng không được mô tả, thế
nhưng cũng theo thực tiễn xét xử thì có thể hiểu tội trộm cắp tài sản là hành
vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ. Hai dấu hiệu đó được dùng để
phân biệt tội trộm cắp với các tội xâm phạm quyền sở hữu khác. Cụ thể như
sau:
- Là hành vi lén lút: là hành vi được thực hiện bằng hình thức mà hình
thức đó có khả năng không cho chủ tài sản biết có hành vi đó xảy ra.
Việc che giấu này chỉ đòi hỏi đối với chủ tài sản; đối với những người
khác, ý chí chủ quan của người phạm tội vẫn có thể là công khai.
- Tài sản đang có chủ: là tài sản đang ở trong sự chiếm hữu của người

khác hoặc nằm trong khu vực quản lí, bảo quản của chủ tài sản.
Trong tình huống trên, thỏa mãn mọi dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản. H và
Q đã lợi dụng tình trạng mê mệt vì say rượu của chị B để lén lút, bí mật
chiếm đoạt tài sản. Chị B đã không hay biết gì, chỉ sau khi mất chị mới biết
và đi báo công an. Đồng thời, ta cũng dễ dàng thấy rằng, tài sản mà H và Q
lấy từ trên người chị B vì thế đây hoàn toàn là tài sản có chủ.
Phân tích thêm, ta thấy, ở đây tội phạm được thực hiện trong tình trạng chị B
không hay biết gì, thế nhưng lại hoàn toàn không có hành vi nào tác động để
dẫn đến tình trạng mất ý chí đó của chị; Và lúc này chị B cũng không có khả
năng chống lại hành vi của H và Q nhưng là do chị B không biết nên sẽ
không được xem là công khai với chủ tài sản.
Từ những phân tích trên thì hành vi của H và Q thỏa mãn đặc điểm của cấu
thành tội trộm cắp tài sản mà không phải tội cướp tài sản hay công nhiên
chiếm đoạt tài sản.
Trên đây là tình huống mà có nhiều quan điểm về định tội danh, tồn tại rất
nhiều trong thực tế ví dụ, vụ án “Kiểm lâm bắn nhầm đồng đội” xảy ra tại
5

×