BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
o0o
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG
PHÂN LẬP VÀ XÁC ĐỊNH KHẢ NĂNG KHÁNG THUỐC
KHÁNG SINH CỦA VI KHUẨN VI KHUẨN Streptococcus spp.
GÂY BỆNH TRÊN CÁ RÔ PHI NUÔI TẠI HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Khánh Hòa - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
o0o
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG
PHÂN LẬP VÀ XÁC ĐỊNH KHẢ NĂNG KHÁNG THUỐC
KHÁNG SINH CỦA VI KHUẨN VI KHUẨN Streptococcus spp.
GÂY BỆNH TRÊN CÁ RÔ PHI NUÔI TẠI HẢI PHÒNG
Chuyên ngành: Nuôi trồng thủy sản
Mã số: 60620301
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN ĐÌNH LUÂN
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
TS. PHẠM QUỐC HÙNG
HOÀNG HÀ GIANG
Khánh Hòa - 2015
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, nghiên
cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công
trình nghiên cứu nào khác. Đồng thời các số liệu tôi trích dẫn trong luận văn đều rõ
ràng và chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả
Nguyễn Thị Phương
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình, ngoài sự nỗ lực và cố gắng của bản
thân, tôi còn nhận được sự giúp đỡ của các đoàn thể, cơ quan, tổ chức, tập thể và các
cá nhân.
Lời đầu tiên, cho tôi gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc nhất tới TS. Trần Đình
Luân – Cục Thú y là người định hướng, hướng dẫn trực tiếp tôi hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị, đồng nghiệp tại phòng Lab Cơ quan Thú y
vùng II, trường Trung cấp nghề thủy sản miền Bắc đã quan tâm, hướng dẫn, tạo điều
kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành các nội dung nghiên cứu của đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn, kính trọng các thầy cô giáo trường Đại học Nha Trang,
trong suốt 2 năm học qua tôi đã nhận được sự dạy dỗ, dìu dắt tận tình của các thầy cô
giáo trong trường.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Ban lãnh đạo, các anh chị trong viện nghiên cứu
Hải Sản đã tạo điều kiện về mặt tổ chức, cung cấp trang thiết bị cho lớp học học tập
trong thời gian qua.
Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn đến tất cả bạn bè, đồng nghiệp, những người
góp ý chân thành và giúp đỡ, động viên tôi trong thời gian tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, con xin cảm ơn bố mẹ, các anh chị em đã động viên, cổ vũ con trong
lúc khó khăn nhất, tạo điều kiện cho con hoàn thành luận văn trong thời gian qua.
Tác giả
Nguyễn Thị Phương
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC BẢNG v
DANH MỤC CÁC HÌNH vi
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Một số đặc điểm sinh học của cá rô phi 4
1.1.1. Khóa phân loại của cá rô phi 4
1.1.2. Nguồn gốc 4
1.1.3. Đặc điểm sinh học, sinh trưởng và tập tính dinh dưỡng. 5
1.2. Tình hình nuôi cá rô phi trên thế giới và ở Việt Nam 6
1.2.1. Trên thế giới 6
1.2.2. Ở Việt Nam 7
1.3. Tình hình nghiên cứu dịch bệnh cá rô phi trên thế giới, ở Việt Nam và Hải
Phòng 8
1.3.1. Trên thế giới 8
1.3.2. Ở Việt Nam 10
1.3.3. Tại Hải Phòng 12
1.4. Tình hình sử dụng thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản 14
1.5. Sự kháng thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản 17
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
2.1 Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 20
2.2 Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 20
2.3 Vật liệu nghiên cứu 21
2.3.1 Dụng cụ, các thiết bị phục vụ nghiên cứu. 21
2.3.2 Môi trường, hóa chất phục vụ nghiên cứu 21
2.3.3 Vật liệu nghiên cứu 22
2.4 Phương pháp nghiên cứu 22
2.4.1 Điều tra tình hình bệnh và sử dụng kháng sinh trong nuôi cá rô phi tại Hải
Phòng 22
iv
2.4.2 Phương pháp thu mẫu cá bệnh 22
2.4.3 Phương pháp mổ cá để lấy nội tạng 23
2.4.4 Phương pháp phân lập vi khuẩn Streptoccoccus spp. từ mẫu cá bệnh phẩm 24
2.4.5 Phương pháp định danh vi khuẩn Streptococcus spp. 25
2.4.6 Thí nghiệm cảm nhiễm vi khuẩn Streptoccocus spp trên cá 30
2.5 Phương pháp phân tích và xử lí dữ liệu 32
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 33
3.1 Kết quả điều tra tình hình dịch bệnh và tình hình sử dụng kháng sinh trên cá rô
phi nuôi tại Hải Phòng 33
3.2 Kết quả phân lập vi khuẩn Streptococcus spp 33
3.2.1 Kết quả thu mẫu 34
3.2.2 Kết quả phân lập vi khuẩn 34
3.3 Kết quả xác định đặc tính sinh hóa của vi khuẩn S.agalactiae 36
3.3.1 Kết quả xác định một số đặc tính sinh hóa. 36
3.3.2 Kết quả định danh vi khuẩn. 37
3.3.3 Kết quả kiểm tra tính mẫn cảm của vi khuẩn S.agalactiae 40
3.4 Kết quả cảm nhiễm lại vi khuẩn S.agalactiae trên cá rô phi 41
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 43
1. Kết luận 43
2. Đề xuất ý kiến 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO 44
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 Số phiếu điều tra tình hình dịch bệnh và sử dụng thuốc kháng sinh trên cá rô
phi nuôi tại Hải Phòng 22
Bảng 2.2 Thuốc thử và cách đọc kết quả các phản ứng sinh hó API 20Strep 28
Bảng 2.3 Đánh giá đường kính vòng vô khuẩn chuẩn 30
Bảng 2.4 Dải cho phép của độ đục McFland 32
Bảng 3.1 Tình hình sử dụng thuốc kháng sinh tại Hải Phòng 33
Bảng 3.2 Thành phần loài vi khuẩn phân lập được từ cá mẫu cá bệnh 35
Bảng 3.3 Kết quả giám định và định danh vi khuẩn S. agalactiae bằng kit test API 20
Strep 39
Bảng 3.4 Kết quả kiểm tra tính mẫn cảm của S. agalactiae với kháng sinh 40
Bảng 3.5 Kết quả gây bệnh thực nghiệm của S. agalactiae 41
vi
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1 Cá rô phi vằn Oreochromis niloticus 4
Hình 2.1 Sơ đồ khối phương pháp nghiên cứu 20
Hình 2.2 Cá rô phi có dấu hiệu bệnh Streptoccocus spp. 23
Hình 2.3 Cách mổ khám bệnh cá 23
Hình 2.4 Cách mổ sọ não cá 24
Hình 2.5 Sơ đồ cảm nhiễm lại vi khuẩn gây bệnh cho cá rô phi 30
Hình 2.6 Thí nghiệm cảm nhiễm lại cá ở các nồng độ vi khuẩn khác nhau 30
Hình 3.1 Dấu hiệu bệnh lý của cá lúc thu mẫu 34
Hình 3.2 Khuẩn lạc trên các môi trường thạch 37
Hình 3.3 S. agalactiae bắt màu Gram dương, hình cầu dạng chuỗi 37
Hình 3.4 Kết quả thử kit API 20 Strep định danh S. agalactiae 38
Hình 3.5 Kiểm tra khả năng mẫn cảm với kháng sinh 41
1
MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, nghề nuôi trồng thủy sản (NTTS) đã không ngừng phát triển
và ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong ngành Thủy sản nói riêng và kinh tế đất
nước nói chung. Với kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt 4,94 tỷ USD thì đây là một
trong ba ngành có đóng góp lớn nhất cho tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Tổng cục Thủy sản ( Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, giai đoạn
2011 – 2015 ngành Thủy sản hướng đến sự phát triển bền vững, là một ngành xuất
khẩu hàng hóa lớn, có khả năng cạnh tranh cao và hội nhập vững chắc với thế giới.
Mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh xuất khẩu đạt kim ngạch 6,5 tỷ USD vào
năm 2015 và chiếm khoảng 37% trong khối nông lâm ngư nghiệp. Vì vậy việc quản lý
dịch bệnh trên các đối tượng chủ lực là yếu tố quan trọng để đạt được mục tiêu trên.
Nghề nuôi cá rô phi ngày càng phát triên mạnh mẽ, cá rô phi là loài cá được nuôi
phổ biến thứ 2 trên thế giới sau loái cá chép. Cá rô phi là loài cá dễ nuôi, ít dịch bệnh,
thức ăn không đòi hỏi chất lượng cao, giá thành sản xuất thấp nên các quốc gia đang
phát triển đặc biết chú trọng nghề nuôi cá rô phi. Thêm vào đó thịt cá rô phi ngon,
không có xương răm nên nhiều người tiêu dùng ưa chuộng. Do đó nghề nuôi cá rô phi
được coi là một sinh kế tốt nhất cho người dân nghèo thoát khỏi nạn đói nghèo [17].
Ở Việt Nam có nhiều diện tích đất đai, vùng cửa sông, các sông, hồ chứa có điều
kiện thích hợp để phát triển loài cá này, nhất là nuôi theo hình thức tập trung, thâm
canh năng suất cao phục vụ cho xuất khẩu. Công nghệ sản xuất giống cá rô phi đơn
tính đực (loại cho năng suất cao nhất) ở nước ta cũng đã làm được và thành công với
tỷ lệ đực khá cao như: công nghệ sử dụng hormone, lai xa khác loài mà vẫn đảm bảo
tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của Mỹ.
Hải Phòng là tỉnh nuôi cá rô phi nhiều khu vực phía bắc. Mô hình nuôi cá rô phi
đơn tính mà Trung tâm Khuyến nông- Khuyến ngư Hải Phòng triển khai tại 2 huyện
Tiên Lãng và Vĩnh Bảo đã giúp nông dân thu lãi 108 triệu đồng/ha trong năm 2012
vừa qua. Tại hầu hết các ao trình diễn, tỷ lệ cá sống đạt 90% và năng suất đạt được là
18,5 tấn/ha. Được biết, trung tâm cũng đang tổ chức xây dựng mô hình trình diễn
“Nuôi thâm canh cá rô phi đơn tính đực theo hướng GAP” tại 2 huyện trên với 6 hộ
tham gia, tổng diện tích ao nuôi rộng 2ha [4-13].
Tuy nhiên, nuôi cá rô phi phát triển mang lại hiệu quả kinh tế cho người nuôi thì
bên cạnh đó dịch bệnh cũng bùng nổ trên diện rộng. Qua nghiên cứu, người ta đã chỉ
2
ra rằng bệnh ở cá rô phi chủ yếu là do vi khuẩn, nấm, virus và kí sinh trùng [14]. Đặc
biệt là vi khuẩn Streptococcus spp. (liên cầu khuẩn) gây ra là nguyên nhân gây nên
thiệt hại lớn cho cá rô phi nói riêng và cá nước ngọt nói chung, làm ảnh hưởng đến
hiệu quả kinh tế của ngành NTTS. Theo thống kê thì liên cầu khuẩn gây bệnh trên cá
rô phi là hai loài Streptococcus iniae và Streptoccus agalactiae. Khi người nuôi gặp
khó khăn trong vấn đề dịch bệnh thì thông thường biện pháp đầu tiên là sử dụng các
chất diệt khuẩn hoặc kháng sinh. Việc sử dụng các chất này đem lại hiệu quả cho
người nuôi [24]. Tuy nhiên việc lạm dụng các chất diệt khuẩn và kháng sinh trong
NTTS công nghiệp đã xuất hiện nhiều dòng vi khuẩn kháng kháng sinh [13]. Những
thiệt hại này không những ảnh hưởng đến ngành NTTS nói chung, trong đó có các đối
tượng nuôi nước ngọt đặc biệt là cá rô phi. Nghiêm trọng hơn các dòng vi khuẩn kháng
thuốc này có thể truyền các gen kháng thuốc cho vi khuẩn gây bệnh ở người, đe dọa
đến sức khỏe của con người [33].
Hiện tượng kháng thuốc kháng sinh đang là mối lo không chỉ người nuôi mà còn
đối với các nhà quản lí sức khỏe cộng đồng bởi nó không những giảm hiệu quả của
việc chữa trị mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với sức khỏe con người, nhất là các
kháng sinh đã được cấm. Chính vì thế mục tiêu của đề tài “Phân lập và xác định khả
năng kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn vi khuẩn Streptococcus spp. gây bệnh
trên cá rô phi nuôi tại Hải Phòng” nhằm đánh giá được tính kháng thuốc của vi
khuẩn gây bệnh phân lập được từ cá nuôi nước ngọt, từ đó xác định được loại thuốc
kháng sinh đặc hiệu để trị bệnh do vi khuẩn gây bệnh trong những trường hợp cần thiết
tại Việt Nam.
Mục tiêu của đề tài: Bổ sung thông tin khoa học về bệnh vi khuẩn trên cá rô phi ở
Việt Nam. Cung cấp thông tin trong phòng chống dịch bệnh thủy sản trên địa bàn nuôi
tỉnh Hải Phòng.
Nội dung của đề tài:
- Xác định được nơi xảy ra bệnh trên cá rô phi nuôi tại địa bàn tỉnh Hải Phòng.
- Phân lập, định danh được vi khuẩn Streptococcus spp. gây bệnh trên cá rô phi
nuôi tại Hải Phòng.
- Xác định khả năng kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn Streptococcus spp. gây
bệnh trên cá rô phi nuôi tại Hải Phòng.
Ý nghĩa của đề tài:
3
Ý nghĩa khoa học: Kết quả phân lập, định danh và xác định sự kháng thuốc của
vi khuẩn Streptococcus spp. gây bệnh trên cá rô phi nuôi tại Hải Phòng là cơ sở
khoa học cho các đề tài nghiên cứu về Bệnh thủy sản tiếp theo.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả phân lập, định danh và xác định sự kháng thuốc của
vi khuẩn Streptococcus spp. gây bệnh trên cá rô phi nuôi tại Hải Phòng góp
phần vào công tác dịch bệnh thủy sản, giảm thiệt hại về kinh tế cho người nuôi,
đồng thời khuyến cáo được người dân nên sử dụng kháng sinh trong nuôi cá
một cách hợp lí.
4
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số đặc điểm sinh học của cá rô phi
1.1.1. Khóa phân loại của cá rô phi
Lớp: Ostechthyes
Lớp phụ: Actynopterigii
Bộ cá vược: Perciformes
Họ: Cichlidae
Giống: Oreochromis
Loài: Oreochromis niloticus
Cá rô phi vằn Oreochromis niloticus
Hình 1.1. Cá rô phi vằn Oreochromis niloticus
1.1.2. Nguồn gốc
Cá rô phi có nguồn gốc từ châu Phi, cá được nuôi đầu tiên ở Kenya và sau đó nuôi
rộng rãi nhiều nước ở châu Phi và trên thế giới. Cá được nuôi nhiều nhất ở các nước
nhiệt đới và cận nhiệt đới. Rô phi đen (Oreochromis mosambicus) là loài cá rô phi
được di nhập vào nước ta vào những năm 1951. Rô phi vằn (O.niloticus) được nhập rừ
Đài Loan năm 1973, sau đó cá rô phi được cải thiện chất lượng di truyền (dòng GIFT)
đã được giới thiệu vào Việt Nam từ Thái Lan năm 1994. Cá diêu hồng thực tế là “con
lai” của cá rô phi đen, thịt hai con cá này có gái trị dinh dưỡng như nhau. Cá diêu hồng
được người Trung Quốc phát hiện và phổ biến ở Việt Nam đặc biệt là được nuôi khá
phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1968 người ta phát hiện một số cá bộ rô
phi cỏ (O.mosambicus) có màu đỏ, do bị đột biến “bạch tạng” không hoàn toàn. Người
ta tiếp tục cho lai O.masambicus bị đột biến “bạch tạng” với cá rô phi vằn O.niloticus
được thế hệ F1 có 30% màu đỏ, những cá thể này có những chấm đen ở hai bên cơ thể
gần như đối xứng nhau. Thế hệ F1 tiếp tục cho sinh sản và nâng tỷ lệ đỏ lên 80%.
5
Dòng này có thể đạt 500 - 600gr trong 5 tháng nuôi, và đạt 1,200gr trong vòng 18
tháng nuôi [9-17].
1.1.3. Đặc điểm sinh học, sinh trưởng và tập tính dinh dưỡng.
Đặc điểm sinh học
Cá rô phi có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới, có một số đặc điểm sinh học như sau:
- Nhiệt độ: cá rô phi có khả năng thích nghi với nhiệt độ cao tốt hơn nhiệt độ
thấp. Nhiệt độ thích hợp cho cá sinh trưởng và phát triển là 25-30
o
C khả năng chịu
đựng với biến đổi nhiệt độ cũng rất cao từ 8-42
0
C, cá chết rét ở 5,5
o
C và bắt đầu chết
nóng ở 42
o
C. Nhiệt độ càng thấp thì cá càng giảm ăn, ức chế sự tăng trưởng và tăng rủi
ro nhiễm bệnh.
- Độ mặn: Cá rô phi là loài rộng muối, có khả năng sống được trong môi trường
nước sông, suối, đập tràn, hồ ao nước ngọt, nước lợ và nước mặn có độ muối từ 0-
40%. Trong môi trường nước lợ (độ mặn 10-25‰) cá tăng trưởng nhanh, mình dày,
thịt thơm ngon.
- pH: Môi trường có độ HP từ 6,5-8,5 thích hợp cho cá rô phi, nhưng cá có thể
chịu đựng trong môi trường nước có độ PH thấp bằng 4.
- Oxy hoà tan DO: Cá rô phi có thể sống được trong ao, đìa có màu nước đậm,
mật độ tảo dày, có hàm lượng chất hữu cơ cao, thiếu Oxy. Yêu cầu hàm lượng oxy hoà
tan trong nước của cá rô phi ở mức thấp hơn 5-10 lần so với tôm sú.
Đặc điểm về dinh dưỡng và sinh trưởng
- Tập tính ăn: Khi còn nhỏ, cá rô phi ăn dinh vật phù du (tảo và động vật nhỏ) là
chủ yếu (cá 20 ngày tuổi, kích thước khoảng 18mm). Khi cá trưởng thành ăn mùn bả
hữu cơ lẫn các tảo lắng ở đáy ao, ăn ấu trùng, côn trùng, thực vật thuỷ sinh. Tuy nhiên
trong nuôi công nghiệp cá cũng ăn các loại thức ăn chế biến từ cá tạp, cua, ghẹ, ốc, bột
cá khô, bột bắp, bột khoai mì, khoai lang, bột lúa, cám mịn, bã đậu nành, bã đậu
phộng. Trong thiên nhiên cá thường ăn từ tầng đáy có mức sâu từ 1-2m.
- Sinh trưởng, dinh dưỡng: Khi nuôi trong ao, cá sử dụng thức ăn tự nhiên sẵn có
kết hợp với thức ăn chế biến, cá rô phi vằn đơn tính lớn nhanh từ tháng đầu đến tháng
thứ 5-6. Đặc biệt cá rô phi có thể sử dụng thức ăn công nghiệp và thức ăn tự chế biên
[17]. Đây là một đặc điểm giúp cho việc nuôi cá rô phi thâm canh đạt năng suất cao.
Với những đặc điểm ưu việt đó cá rô phi được phân bố và ương nuôi rộng rãi trong
các vùng miền của đất nước.
6
1.2. Tình hình nuôi cá rô phi trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Trên thế giới
Hiện nay cá rô phi là đối tượng nuôi phổ biến trên thế giới, theo công bố của FAO
(1996) hiện nay trên thế giới có hơn 100 quốc gia nuôi cá rô phi công nghiệp, chiếm
một vị trí quan trọng chỉ đứng sau nhóm cá chép trong các thủy vực nước ngọt. Nhờ
có đặc tính tốt như phổ thức ăn đa dạng, ít bệnh tật, chất lượng thịt thơm ngon, đầu tư
chi phí sản xuất thấp vì thế mà loài này nuôi phổ biến. Sản lượng cá rô phi trong 10
năm gần đây (1986) đạt 253 nghìn tấn thì năm 1990 đạt 410 nghìn tấn, đến năm 1995
đạt 659 nghìn tấn (trong vòng 10 năm tăng 269%). Cũng theo FAO (1996), nếu so
sánh sản lượng rô phi nuôi ở châu Á với sản lượng của loài rô phi đó trên thế giới (đơn
vị: tấn) thì của cá rô phi đen là 50.884/51.870; của có rô phi vằn là 384.976/426.773.
Châu Á là nơi nuôi nhiều cá rô phi nhất trên thế giới, trong đó vùng Đông Á và Đông
Nam Á thực sự đã là quê hương thứ hai của cá rô phi [10].
Ba loài cá rô phi nuôi quan trọng nhất trên thế giới hiện nay là rô phi vằn
O.niloticus, rô phi xanh O.aureus và rô phi đen O.mossambicus. Sản lượng của chúng
chiếm 90% tổng sản lượng có rô phi nuôi – riêng sản lượng cá rô phi vằn đã tăng
430% so với sản lượng loài này cách đây 10 năm.Theo nghiên cứu của Giáo sư Kevin
M. Fitzsimmons, trong vòng 20 năm qua sản lượng cá rô phi trên toàn thế giới đã tăng
từ 500 ngàn tấn/năm lên đến 4 triệu tấn/năm vào năm 2011 trong đó, sản lượng tăng
chủ yếu là từ cá nuôi [17].
Tại nước Mỹ, cá rô phi từ vị trí thứ 10 năm 2001 trên bảng xếp hạng các loại thủy
sản được tiêu thụ nhiều nhất đã giành được vị trí thứ 4 trong năm 2011, trong đó 98%
lượng cá đến từ nhập khẩu. Năm 2011, Mỹ đã chi hơn 1 tỉ USD để mua sản phẩm thô
từ các nông trại, nếu tính tất cả các giá trị gia tăng thì thị trường cá rô phi ở Mỹ đạt là
6,5 tỉ USD/năm. Tương tự như ở Mỹ, nhu cầu tiêu thụ fillet cá rô phi tại châu Âu và
nhiều nước phát triển cũng liên tục tăng, không chỉ từ các hộ gia đình mà còn từ các
bếp ăn tập thể, trường học, trên máy bay, du thuyền, các chuỗi cửa hàng fastfood do
loại thực phẩm này dễ chế biến, giá cả phải chăng.
Tại hội nghị của INFOFISH TILAPHIA 2010 về cá rô phi tổ chức tại Kuala
Lumper, Malaysia cuối tháng 10/2010, thống kê sản lượng cá rô phi toàn cầu năm
2010 là 3,7 triệu tấn. Mặc dù cá rô phi không có nguồn gốc từ châu Á nhưng đây là
khu vự sản xuất cá rô phi quan trọng nhất thế giới. Sản lượng cá rô phi ở châu Á trong
7
thời gian qua được coi là tăng nhanh nhất thế giới. Các nước Châu Á đại diện có nghề
nuôi cá rô phi phát triển mạnh là Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan trong
đó Trung Quốc là quốc gia đứng đầu thế giới về sản xuất cá rô phi. Tính đến năm
2011 sản lượng cá rô phi của nước này giữ mức ổn định là 1,1-1,2 triệu tấn và dự kiến
sẽ tiếp tục tăng vào năm tới. [10-17].
Đều đáng chú ý là mức tăng nhanh về sản lượng cá rô phi nuôi lại đi kèm với nâng
cao chất lượng cá thương phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu
dùng. Chỉ sau một thời gian ngắn, quan niệm của người tiêu dùng về cá rô phi nuôi đã
có những thay đổi cơ bản. Trước đây cá rô phi chỉ được xếp vào hàng cá “bình dân”,
của người ngèo, thì nay được đánh giá cao, có nhu cầu tăng nhanh trên thị trường thế
giới, thậm chí ở một số nước còn được coi là hàng “đặc sản”. Sản phẩm cá rô phi nuôi
hiện nay ngoài phẩm chất thịt thơm ngon còn do cá có cỡ lớn, kích cỡ đồng đều, màu
sắc hấp dẫn, được nuôi trong môi trường sạch, cho ăn thức ăn tinh Nên được người
tiêu dùng ưa chuộng. Giá 1 kg cá thịt rô phi năm 1995 trên thị trường thế giới (tính
bằng USD) là 1,4 usd, trong khi đó cá chép là 1,24; cá trắm cỏ 0,87; cá trắm đen 1,65;
cá mè trắng 0,93; cá mirigan 0,90. Như vậy là cá rô phi được đánh giá cao hơn cả cá
chép và bỏ xa các loài cá nuôi truyền thống khác như mè, trôi, trắm cỏ. Đây thực sự là
điều rất đáng mừng, báo hiệu tương lai phát triển mạnh mẽ của nghề nuôi cá rô phi
trên thế giới nói chung, ở châu Á nói riêng [10].
1.2.2. Ở Việt Nam
Nghề nuôi cá Rô phi ở nước ta có lịch sử hơn 50 năm, khởi đầu nuôi là khi nhập
cá rô phi đen (O.mosambicus) vào nước ta đầu những năm 1950. Những thập niên 50
và 60 của thế kỷ trước, cá Rô phi được nuôi ở hình thức quảng canh và quảng canh cải
tiến, nuôi chung cá đực với cá cái. Phong trào nuôi cá Rô phi bắt đầu từ thập kỷ 90 sau
khi chúng ta nhập lại dòng cá Rô phi vằn có chất lượng tốt, đặc biệt là cá chọn giống
dòng Thái Lan và Israel. Cá được nuôi ở nhiều địa phương với các hình thức khác
nhau: nuôi đơn, nuôi ghép với mức độ canh tác từ quảng canh, bán thâm canh đến
thâm canh.
Theo Cục thống kê năm 2005, diện tích nuôi cá Rô phi cả cá nước ta là 22,340 ha
chiếm 3% tổng diện tích NTTS, trong đó nước lợ, mặn là 2,068 ha và nuôi nước ngọt
là 20,272 ha. Tổng sản lượng cá rô phi ước tính đạt 54.486,8 tấn; chiếm 9,08% tổng
sản lượng cá nuôi. Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long là hai vùng
8
nuôi chủ yếu, lần lượt chiến 17,6% và 58,4% tổng sản lượng cá Rô phi của cả nước.
Sản lượng cá Rô phi của cả nước bao gồm: nuôi trong ao và trong đầm 37.931,8 tấn;
nuôi lồng là 10,182 tấn. Mục tiêu đến năm 2015 sản lượng cá cả nước đạt 200.000
tấn/năm; trong đó giành 40% cho xuất khẩu [18].
Ở Việt Nam có nhiều diện tích đất đai, vùng cửa sông, các sông, hồ chứa có điều
kiện thích hợp để phát triển loài cá này, nhất là nuôi theo hình thức tập trung, thâm
canh năng suất cao phục vụ cho xuất khẩu. Công nghệ sản xuất giống cá rô phi đơn
tính đực (loại cho năng suất cao nhất) ở nước ta cũng đã làm được và thành công với
tỷ lệ đực khá cao như: công nghệ sử dụng hormone, lai xa khác loài mà vẫn đảm bảo
tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của Mỹ.
Nuôi nhiều và thành công loài cá này có thể kể đến tỉnh Hải Dương, Quảng Ninh
đạt năng suất từ 10-12 tấn/ha/vụ, mức lãi ước tính khoảng 70-80 triệu đồng/ha/vụ.
Trong chiến lược phát triển của thủy sản Việt Nam lâu nay, bên cạnh mặt hàng xuất
khẩu chủ lực là tôm và cá tra thì cá rô phi vẫn được coi là một thế mạnh mũi nhọn cần
tập trung phát triển phục vụ xuất khẩu.
Mục tiêu của ngành là năm 2015 sẽ đưa được cá rô phi trở thành sản phẩm xuất
khẩu chủ lực với giá trị đạt từ 200-300 triệu USD. Tuy nhiên, theo ý kiến của Giáo sư
Kevin M. Fitzsimmons và nhiều nhà khoa học Việt Nam, sản lượng và tổng giá trị của
ngành này tại nước ta vẫn còn rất thấp so với tiềm năng. Sản lượng nuôi cá rô phi toàn
quốc chỉ vào khoảng xấp xỉ 100.000 tấn/năm và chủ yếu phục vụ nhu cầu nội địa.
Trong bối cảnh ngành thủy sản gặp nhiều khó khăn như hiện nay nhiều ao, đầm
nuôi tôm đang bị bỏ hoang do dịch bệnh có thể cải tạo lại để nuôi cá rô phi một thời
gian nhằm dứt mầm bệnh và tạo thêm giá trị mới. Gần đây, nghề nuôi cá rô phi ở nước
ta đã bắt đầu phát triển mạnh ở nhiều địa phương, việc lựa chọn những đối tượng tiềm
năng như cá rô phi để phát triển sẽ giúp mang lại hiệu quả kinh tế, đồng thời góp phần
ngăn chặn được nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của ngành (theo
Giáo sư Kevin M. Fitzsimmons tại diễn đàn nuôi cá Rô phi tại Việt Nam, 2012) [10].
1.3. Tình hình nghiên cứu dịch bệnh cá rô phi trên thế giới, ở Việt Nam và Hải
Phòng
1.3.1. Trên thế giới
Sản lượng NTTS trên thế giới chiếm 40% tổng sản lượng thủy sản hay chiếm
khoảng 78 tỉ (FAO, 2008). Vai trò của NTTS ngày càng gia tăng đáng kể, tuy nhiên
9
vấn đề dịch bệnh ngày càng gia tăng không chỉ riêng với đối tượng nuôi hải sản mà
nuôi nước ngọt cũng gia tăng. Một số dịch bệnh xảy ra trên đối tượng nuôi nước ngọt
thường do các vi khuẩn như Aeromonas spp., Streptococus spp., Ewdsiella spp.,
Pseudomonas spp xảy ra ngày càng phổ biến, tỷ lệ chết cao [28].
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã có thông báo về sự bùng phát và lây lan
của dịch bệnh liên cầu khuẩn ở các loài cá, gây nguy hiểm cho các loài cá, bao gồm cả
cá nước biển và nước ngọt, nhất là các loài cá sống trong môi trường nước ấm. Dịch
bệnh liên cầu khuẩn ở cá đã trở thành một trong những dịch bệnh chính gây nên tổn
thất kinh tế lớn cho ngành nuôi trồng thủy sản trên thế giới, hàng năm, tổn thất kinh tế
do liên cầu khuẩn gây ra vượt quá 1,5 tỉ USD. Liên cầu khuẩn không chỉ nguy hiểm
đối với ngành nuôi cá mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người và vấn
đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Những năm gần đây, dịch bệnh liên cầu khuẩn ở cá rô
phi Trung Quốc đang có xu hướng tăng lên, chủ yếu gây nguy hiểm cho cá bố mẹ và
những con cá bé, cá trưởng thành có trọng lượng 100g trở lên, khả năng lây nhiễm cao
và tỉ lệ phát bệnh từ 10-30%, tỉ lệ tử vong từ 25-80%. Trong đó, khuẩn Streptococcus
iniae và Streptococcus agalactiae gây nguy hiểm nhiều nhất cho cá [10].
Cá rô phi, tuy có sức đề kháng cao hơn các loài cá khác, nhưng khi nuôi thâm
canh thì không tránh khỏi bệnh tật đặc biệt là bệnh do tác nhân vi khuẩn Streptococcus
spp. gây ra. Bệnh trên cá rô phi xảy ra khắp nơi, trong đó một số nơi đã phát triển
thành đại dịch. Đài Loan là nước hứng chịu rất nhiều về đại dịch bệnh trên cá rô phi đã
mô tả dịch bệnh trong hệ thống nuôi thâm canh trên cá rô phi vằn do Saprolegnia spp.
gây ra. Trận dịch năm 1992 đã làm chết rất nhiều cá rô phi nuôi trong ao mà không xác
định được rõ nguyên nhân, bệnh bắt đầu từ những ao nuôi nước ngọt ở miền Đông và
nam Đài Loan sau đó lan tràn sang các đảo khu vực cả ao nước lợ lẫn nước mặn [10].
Các tác nhân gây bệnh phổ biến cho cá Rô phi bao gồm Streptococcus spp.,
Flavobacterium columnare, Aeromonas hydrophyla, Edwarsiela tarda,
Ichthyophitirius multifillis, Trichodina spp., Gyrodactylus niloticus [25]. Điều quan
trọng cần lưu ý rằng nhiễm liên cầu khuẩn đã thành một vấn đề lớn trong nuôi cá rô
phi và gây thiệt hại kinh tế nặng nề. Streptococcus agalactiae và S.iniae là những vi
khuẩn chình gây bệnh gây ảnh hưởng đến việc sản xuất cá rô phi trên thế giới [21].
Tác nhân gây bệnh Streptococsis là nhóm vi khuẩn thuộc giống Streptococcus
spp.gây bệnh ở cá rô phi lần đầu tiên phân lập được ở cá Rô phi nuôi tại Nhật Bản gồm
10
hai loài S.shiloi và S.difficile. Sau đó các loài vi khuẩn gây bệnh trên cá rô phi được
phân lập lại trên cá rô phi là Streptococcus shiloi được là S.iniae còn S.difficile được
phân lập là S.agalactiae [30].
Dịch bệnh cá rô phi nuôi ở Thái Lan đã được quan sát thấy trong lồng trên sông
Mê Kong tại thành phố Mukudahan, phía đông bắc Thái Lan vào tháng 5 năm 2001.
Tỷ lệ cá bị chết do dịch bệnh vào khoảng 40-60% sau hai tuần bị nhiễm bệnh, với dấu
hiệu là cá bị chướng bụng, có nhiều dịch trong xoang bụng và hậu môn sưng. Trong 2
năm 2002 và 2003 tại Lubuk Linggau, miền nam Sumatra, Indonesia cá rô phi nuôi
lồng cũng đã xuất hiện hiện tượng cá bị lồi mắt, đục mắt và đổi màu, vi khuẩn được
phân lập thấy là S.agalactiae và S.iniae [24].
Năm 2005 tại Malaysia đã ghi nhậ được hiện tượng cá rô phi nuôi lồng bị chết, kết
quả phân tích cho thấy S.agalactiae và Leuconostoc spp. được phân lập từ mẫu mắt,
não, thận. Trong đó S.agalactiae chiếm 70%. Cá bị bệnh có dấu hiệu điển hình như
bơi lội bất, bỏ ăn, mắt cá bị đục giác mạc hoặc tối màu, mắt bị lồi hoặc xẹp [24].
S.agalactiea ngày càng được phát hiện và khẳng định là nguyên nhân gây chết cho
cá, đặc biệt là cá nước ngọt (Plumb, 1999; Pretto-Giordano và ctv, 2010). Mặt khắc
S.agalactiae cũng được ghi nhận là nguyên nhân gây chết cho nhiều trang trại nuôi cá
rô phi ở Châu Á ở những năm gần đây [26].
Từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2009 bệnh Streptococcosis trên cá rô phi đã bùng nổ
tại bôn stinhr Guangdong, Guangxi, Hainan và Fuijin nơi chiếm tới 90% sản lượng
nuôi đối tượng này tại Trung Quốc [10].
Nghiên cứu về dịch tễ học của Intervet/Scheing –Plough Animal Health cho thấy
S.agalactiae chiếm 82% và S.iniae chiếm 18% trong tổng số mẫu phân lập từ 13
nước Châu Á và châu Mỹ La Tinh trong 8 năm qua (Sheehan và ctv., 2009). Trên cá rô
phi đỏ (Oreochromis spp.) các kết quả cho thấy tác nhân gây bệnh chính là
S.agalactiae [26].
1.3.2. Ở Việt Nam
Theo hiệp hội Vasep thì “khi nghề nuôi và chế biến cá tra xuất khẩu đang gặp khó
khăn thì đa dạng hóa đối tượng nuôi xuất khẩu trở nên cần thiết. Cá rô phi là đối tượng
xuất khẩu có nhiều tiểm năng”. Cá rô phi là loài tăng trưởng mạnh, khỏe. Từ lâu, cá rô
phi trở thành nguồn protein chủ yếu của nhiều quốc gia phát triển trong đó có Việt
Nam. Ở Việt Nam thích hợp cho nuôi cá rô phi phát triển với nhiệt độ 27-32
o
C, thời
11
gian thả nuôi từ 4,5 – 6 tháng, mật độ tùy theo nguồn nước mà thả từ 150-200con/m
3
.
Theo FAO, 2007 thì Việt Nam đạt 4.525.750 tấn đứng thứ 3 thế giới sau Trung Quốc
và Ấn Độ. Theo cục thống kê thủy sản Việt Nam năm 2009 thì tổng sản lượng 4.847
triệu tấn trong đó nuôi trồng thủy sản đạt 2.569 triệu tấn. Năm 2009 tổng kim ngạch
xuất khẩu thủy sản là 4,2 tỷ USD chỉ đứng sau xuất khẩu dệt may và dầu thô. Theo
báo cáo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sản lượng thủy sản của nước ta đứng
đầu là cá tra, cá basa( trên 1 triệu tấn), tiếp đó là tôm sú ( 413 ngìn tấn) và cá rô phi
đứng thứ 3 về sản lượng [35].
Ở nước ta, hàng năm có đến 5.000 – 7.000 tấn cá rô phi được tiêu thụ nội địa, rô
phi là loài có sức kháng bệnh và sức sống cao hơn so với các loài khác. Tuy nhiên, mật
độ nuôi thâm canh ngày càng cao làm phát sinh dịch bệnh. Bên cạnh các bệnh ở cá rô
phi do: nấm, vi khuẩn, virus, kí sinh trùng thì Streptococcus spp.gây bệnh cho cá rô
phi nói chung và cá nuôi nước ngọt nói riêng đang gây thiệt hại kinh tế cho ngành nuôi
trồng thủy sản. Streptoccus spp.gây bệnh cho rất nhiều loài cá từ nước ngọt như cá rô
phi, cá trắm cỏ, cá tra, cá basa, đến các loài nước lợ như cá bớp và các loài nước mặn
khác như cá song, cá chẽm, cá giò và cá hồng Mỹ [35].
Năm 2009, dịch bệnh cá rô phi gây chết hàng loạt tại một số ao nuôi thương phẩm
ở một số tỉnh miền Bắc nước ta. Đây là một trong những đợt dịch lớn nhất đối với
nghề nuôi cá rô phi từ trước đến nay. Bước đâu nghiên cứu nguyên nhân cho thấy, vi
khuẩn Streptococcus spp. là tác nhân gây bệnh chính [5]. Cá bị bệnh thường có những
triệu chứng như: bơi lội bất thường, mất định hướng, trướng bụng, xuất huyết, lồi mắt,
sưng hậu môn, sưng ruột và các cơ quan khác như gan, thận, lách bị bạc màu hoặc
sưng to. Đặc biệt vi khuẩn tấn công niêm mạc mắt và não cá làm cho cá bơi không
định hướng và có đấu hiệu bị tổn thương thần kinh. Bệnh thường xảy ra vào mùa hè
đặc biệt là vào mùa nước nóng nhiệt độ cao. Tỷ lệ thiệt hại từ 7 – 10% và cá ở giai
đoạn 1- 4 tháng tuổi. Đối với mùa đông và mùa xuân, mật độ vi khuẩn thấp và không
đủ ngưỡng gây bệnh cho cá. Mặt khác theo nghiên cứu tình hình dịch bệnh tại An
Giang và Vĩnh Long vi khuẩn Streptococus spp. có tần suất hiện từ 95 – 100% vào
tháng 1, tháng 5, tháng 9 và tháng 11 [5- 10].
Từ tháng 4 đến tháng 9 năm 2009, hiện tượng cá rô phi bị chết đã xuất hiện ở các
tất cả các vùng nuôi tập trung ở miền Bắc như Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng
Ninh, Bắc Ninh, Bắc Giang và Hà Giang tỷ lệ chết cao là 100% và trung bình là
12
42,56%. Đây được coi là đợt dịch lớn nhất từ trước đến giờ đối với một số tỉnh miền
Bắc nước ta về nuôi cá rô phi. Kết quả phân lập cho thấy tác nhân gây bệnh chính là
Streptoccocus spp. vi khuẩn Gram dương (Công ty Hanvet, 2009) ; Viện nghiên cứu
Nuôi trồng thủy sản 1 phân lập thấy trên tất cả các mẫu thu được ở một số tỉnh nuôi cá
rô phi ở miền Bắc [5].
Theo Đồng Thanh Hà và ctv, 2009 thì dịch bệnh trên cá rô phi ở các tỉnh phía Bắc
nước ta như: Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh và Hà Giang thì
tác nhân S.agalactiae gây chết tỷ lệ 90-100% cá nuôi ( thương phẩm và cá giống). Vi
khuẩn này phát triển được ở 37
o
C và độ mặn là 37‰ được xem là yếu tố nguy cơ gây
bệnh cho động vật có vú và con người. Mặt khác những mẫu cá thu được phân lập từ
cá Diêu hồng tại An Giang và Tiền Giang tiến hành kiêm tra thấy S.agalactiae gây là
tác nhân chính [9].
1.3.3. Tại Hải Phòng
Mô hình nuôi cá rô phi đơn tính do Trung tâm khuyến ngư – khuyến nông Hải
Phòng triển khai cho các huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo từ năm 2012 đến nay. Tại các ao
trình diễn, tỷ lệ cá sống đạt 90% và đạt 18,5 tấn/ha. Hiện nay trung tâm cũng đang
triển khai mô hình nuôi trình diễn theo mô hình GAP cho 6 hộ gia đình nuôi rộng 2 ha.
Bên cạnh đó Thủy Nguyên là huyện nuôi cá rô phi với diện tích lớn, hàng năm đem lại
lợi nhuận kinh tế cho người dân, có thể nói cá rô phi là “con” xóa đói giảm nghèo nơi
đây. Phần lớn con giống ở đây được lấy từ Trung tâm giống hải sản miền Bắc được
chọn nhờ công nghệ sinh học hiện đại với di truyền truyền thống [38].
Hiện nay, Hải Phòng thường nuôi cá rô phi nước lợ nuôi ghép với một số loài khác
như cá vược tuy nhiên khi mức độ thâm canh cao, thời tiết khí hậu thay đổi dẫn đến
dịch bệnh trên cá rô phi ngày càng bùng phát. Năm 2009, dịch bệnh trên cá rô phi xảy
ra ở Hải Phòng ( xã Thủy Nguyên, Kiến Thụy, Vĩnh Bảo, Tiên Lãng) gây chết với tỷ
lệ 90-100 % cá nuôi và cá thương phẩm. Theo phân tích thì tác nhân gây bệnh chính là
S.agalactiae [5].
Năm 2010, tại Hải Phòng Streptoccocus spp. gây chết hàng loạt tại một số ao nuôi
cá giống đến thương phẩm tại Thủy Nguyên và Kiến Thụy, cá chết bắt đầu từ tháng 8
dương lịch, chỉ riêng Thủy Nguyên thiệt hại trên 175 tấn cá rô phi, tôm và cá các loại
chết trong diện tích 300ha theo số liệu báo cáo của cán bộ [4].
Triệu chứng và bệnh tích của cá rô phi khi nhiễm Streptoccocus spp.
13
- Triệu chứng
Bơi lội bất thường: cá bị bệnh có dấu hiệu đặc trưng cho nhiều loài khác nhau. Do
vi khuẩn có tính hướng thần kinh trung ưng nên cá bị bệnh sẽ có biểu hiện bị hôn mê
và mất phương hướng, cá bơi lội lờ đờ hay mất định hướng gần mặt nước, có những
con xoáy hình chân ốc. Những tổn thương về mắt có thể thấy như: lồi mắt, chảy máu
mắt. Tuy nhiên con nào bị bệnh cũng có dấu hiệu về mắt.
Xuất huyết dưới da: Các vết xuất huyết được nhìn thấy dưới da và gốc miệng,
vây. Đôi khi thấy các vết xuất huyết này xuất hiện ở hậu môn và mắt làm cho cá bơi
lội không định hình.
Dịch cổ trướng: Sự có mặt các chất dịch ở bụng cá là dấu hiệu bệnh đang ở thời
kỳ cấp tình. Cá bị bệnh có biểu hiện bụng bị trướng, và dịch này có thể nhìn thấy khi
chúng chảy ra ngoài lỗ hậu môn.
Các ổ áp – xe: Trên thân cá bị nhiễm Streptoccocus spp. xuất hiện các ổ áp xe có
đường kính từ 2 – 3 cm, những vết loét này nhanh chóng vỡ ra tạo thành những vết lở
loét không lành tạo điều kiện cho các tác nhân khác xâm nhập. Những vết lở loét naỳ
thường gặp ở vây ngực và phần đuôi của cá, bên trong vết lở loét đó có chất như mủ.
- Bệnh tích
Các dậu hiệu bệnh tích do Streptoccocus spp. có dấu hiệu giống như bệnh nhiễm
trùng ở các loài cá khác nhau:
Cá bỏ ăn: Nhìn chung không có sự hiện diện của thức ăn khô trong dạ dày của cá
hoặc trong ruột của những con bị bệnh. Tuy nhiên trong các ao nuôi thương phẩm, cá
vẫn ăn bằng cách sàng lọc thức ăn. Khi ruột và dạ dày của cá trống rỗng thức ăn sẽ
quan sát thấy túi mật rất to, đó là đặc trưng sự vắng mặt của sự tiêu hóa thức ăn.
Nhiễm trùng máu: Trong giai đoạn cấp tính vi khuẩn nhanh chóng lan truyền đến
hệ thống máu tới các cơ quan nội tạng. Những dấu hiệu lâm sàng chính liên quan đến
sự nhiễm trùng máu là sự xuất huyết, viêm gan, thận, lá lách, tim, mắt và ống ruột. Lá
lách thường mở rộng ra (trương và sưng nhẹ).
Viêm màng bụng: Khi cá nhiễm bệnh nặng có sự dính nhau của các cơ quan nội
tạng với màng trong khoang bụng của cá. Hơn nữa lúc này sự hiện diện của tơ huyết
(fibrinous) có thể được quan sát thấy trong màng ở khoang bụng của cá. Ngoài ra cá bị
bệnh còn kết hợp với một số tác nhân khác cơ hội có sẵn trong môi trường như vi
khuẩn Aeromonas spp. nước ngọt và nước mặn, lợ là Vibrio spp.
14
- Cơ chế lây nhiễm của Streptoccocus spp.
Streptoccocus spp.cho ra ngoại độc tố, phá hỏng các khí quan trong cơ thể dẫn đến
làm cho cá bị rối loạn chức năng như vi khuẩn tấn công vào thần kinh trung ương của
cá làm cá có biểu hiện bị hôn mê và mất phương hướng. Do vậy khi chữa bệnh không
ngoài diệt mầm bệnh mà còn phải dùng thuốc giải các độc tố hoặc nâng cao sức khỏe
cá tự giải độc ra môi trường.
Streptoccocus spp. trực tiếp phá hỏng hệ thống máu, gây nên hiện tượng cá xuất
huyết toàn thân, hiện tượng này đối với vật nuôi rất quan trọng, ảnh hưởng đến toàn
vật nuôi, khí quan và hệ thống máu bị tổn thương, lúc đó bệnh rất khó chữa.
Hiện nay chưa có bất kỳ loại vaccine phòng bệnh Streptococcus spp.gây bệnh trên
cá rô phi được nghiên và ứng dụng vào sản xuất tại Việt Nam. Vì vậy, việc phân lập và
xác định đặc tính sinh học của Streptococcus spp.là cần thiết để giúp cho việc nghiên
cứu và sản xuất vaccine phòng bệnh Streptococcus spp. trên cá rô phi nuôi tại Việt
Nam là rất cần thiết.
1.4. Tình hình sử dụng thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản
Với nỗ lực tăng nhanh sản lượng thuỷ sản và kim ngạch xuất khẩu, các nước đang
phát triển rất chú trọng tới nuôi trồng thuỷ sản. Ðể đạt được sản lượng và lợi nhuận
cao nhất, nhiều ngư dân hiện đang áp dụng các phương thức nuôi thâm canh. Nhưng
các vật nuôi lại bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi những áp lực và bệnh tật dẫn đến những
vụ dịch bệnh gây chết hàng loạt. Trong số các bệnh của thuỷ sản thì nguyên nhân chủ
yếu là do vi khuẩn gây ra với những vụ dịch bệnh có qui mô lớn. Thông thường, người
ta sử dụng thuốc kháng sinh để kiểm soát các vi khuẩn gây bệnh. Do việc sử dụng
không đúng cách và quá nhiều các loại thuốc kháng sinh nên đã gây ra hiện tượng vi
khuẩn kháng thuốc (antibiotic resistence) và tích tụ dư lượng thuốc kháng sinh trong
thịt thuỷ sản. Một nguyên nhân khác gây ra hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc là việc sử
dụng các loại kháng sinh với hàm lượng nhỏ trong thức ăn của thuỷ sản như một chất
kích thích sinh trưởng [10].
Vấn đề sử dụng thuốc kháng sinh nói riêng và hóa chất nói chung trong NTTS cho
đến nay vẫn phổ biến. Một nghịch lý xảy ra là chưa có thuốc kháng sinh dùng riêng cho
động vật thủy sản mà đa phần số hóa chất đều lấy dùng của người và gia súc [41]. Mặc
dù thuốc kháng sinh đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc chống lại nhiều bệnh
tật cho con người và các loài động vật thuỷ sinh, nhưng việc sử dụng bừa bãi trong nuôi
15
trồng thuỷ sản có thể gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng như gây độc, biến đổi hệ vi
khuẩn của người tiêu dùng hoặc làm cho người tiêu dùng cũng bị kháng thuốc.
Trước đây chỉ có một số hóa chất và kháng sinh được sử dụng như vôi bột,
formalin, sulfate đồng, thuốc tím, dipterex, rotanon và một số chất như
chloramphenicol, furazolidon, tetracycline được sử dụng trong NTTS. Ngày nay có
rất nhiều hóa chất và chế phẩm sinh học được sử dụng, các loại kháng sinh hay sử
dụng trong NTTS là:
- Nhóm Sulfonamid: bao gồm các tác nhân kháng khuẩn có tác dụng kìm hãm
hoạt động của axit folic và có thể hình thành tác dụng hiệp đồng (synergism). Các
kháng sinh nhóm sulfonamid kết hợp trimethoprim được sử dụng rộng rãi trong nuôi
trồng thuỷ sản.
- Nhóm Tetracycline: là một nhóm gồm nhiều kháng sinh chủ yếu có tác dụng
kìm hãm vi khuẩn có trong tự nhiên. Chúng làm ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp
protein trong cả các vi khuẩn Gram âm (-) và vi khuẩn Gram dương (+). Những kháng
sinh này được sử dụng rộng rãi trong nuôi trồng thuỷ sản.
- Nhóm Quinolone : Chúng có tác dụng mạnh đối với các vi khuẩn Gram (+) và
được sử dụng nhiều tại Nhật Bản. Tác dụng kháng khuẩn bao gồm cả tác dụng kìm
hãm và tiêu diệt vi khuẩn do chúng có thể gây ảnh hưởng đến cấu trúc xoắn của ADN
trong vi khuẩn.
- Erythromycin: được sử dụng rộng rãi trong nuôi cá hồi, nó là loại thuốc rất hiệu
quả để chữa những bệnh do vi khuẩn gây ra.
Chloramphenicol: được sử dụng rộng rãi tại Hoa Kỳ và Pháp. Việc sử dụng
chúng trong nuôi trồng thuỷ sản là rất hạn chế tại nhiều nước bởi vì nó là một loại
thuốc dùng để chữa bệnh cho người.
Rất khó có thể có được những số liệu đáng tin cậy về tình hình sử dụng thuốc
kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản. Ở Nauy, trong năm 1990, có khoảng 50 loại
kháng sinh được sử dụng trong nuôi trồng thuỷ sản và gần gấp đôi số lượng thuốc
được sử dụng cho con người trong năm đó. Tình hình cũng diễn ra tương tự đối với
các nước đang phát triển. Đã có sự nhờn thuốc trong các trại giống nuôi tôm ở nước ta
[11]. Tuy nhiên, thực tế sản xuất kinh doanh và sử dụng cũng như quản lý các sản
phẩm như thế nào cần phải xem xét.
16
Thuật ngữ kháng sinh (antibiotic) nguyên thủy được dùng để nói về một hợp chất
tự nhiên được sản xuất bởi một loại nấm hoặc vi sinh có khả năng tiêu diệt vi khuẩn
gây bệnh ở người và động vật. Một số thuốc kháng sinh có thể là các hợp chất tổng
hợp (không sản xuất bởi các vi sinh vật) cũng có thể giết hoặc ngăn chặn sự phát triển
của vi khuẩn [3].
Tổ chức sức khỏe thế giới (WHO) định nghĩa kháng sinh (probiotics) là sản phẩm
chứa vi sinh vật sống và đòi hỏi liều lượng hiệu quả để chống lại bệnh tật. Mỹ là quốc
gia đầu tiên sử dụng probiotics trong thức ăn chăn nuôi nông nghiệp và trong thập niên
1990’s probiotics ở Mỹ đã được xuất khẩu sang châu Âu. Ở Loài tôm thẻ chân trắng
có khoảng 10 loài vi khuẩn Vibrio spp. đã được định danh và thêm khoảng 3 loài vi
khuẩn chưa được định danh nhiễm trong các cơ quan gan tụy, máu, đường ruột và dạ
dày. Các giống vi khuẩn Lactic như Bacillus spp. khu trú trong hệ thống tiêu hóa của
tôm có khả năng kiểm soát tốt Vibrio spp. làm giảm tỉ lệ chết tôm nuôi và gia tăng sản
lượng. Bởi vi Bacillus spp. khu trú tự nhiên trong tôm và vì thế nó là probiotics hiệu
quả về chi phí để sử dụng cho các trại giống tôm [1].
Sử dụng probiotics ở Trung Quốc bắt đầu từ khi nhập khẩu hàng từ Anh, Mỹ và
Nhật vào những năm 1990. Ở Thượng Hải đã có trên 100 nhà sản xuất sản phẩm vi
sinh dung cho nuôi trồng thủy sản đã ký thỏa thuận vào năm 2006 về an toàn thực
phẩm trong sử dụng probiotics. Hơn 50% trại nuôi ở Trung Quốc ngưng sử dụng
probiotics sau 1 năm bởi vì chúng quá đắt, chi phí vào khoảng 2.590,05 đô la cho 1 ha.
Các trại nuôi tôm ở Ấn Độ sử dụng thành công probiotics kể từ 1995. Thái Lan tự sản
xuất 9 loại probiotics và nhập khẩu 2 đến 3 loại từ Trung Quốc và 1 loại từ Mỹ. Hàm
lượng của vi khuẩn dị dưỡng xác định mức hiệu quả của probiotics. Liều lượng cao
nhất của vi khuẩn là 1,3 x 10 mũ 9 CFU/g đối với các probiotics của Mỹ. Ở Thái Lan
có 4 trong 9 sản phẩm sản xuất không có thong tin về hàm lượng probiotics và 3 trong
số 4 sản phẩm này không ghi rõ tên loài vi khuẩn trong hỗn hợp của probiotics. Mặc
dù probiotics đã được sử dụng ở Thái Lan nhưng hàm lượng và các thông tin cần thiết
đã không được chỉ rõ hoặc không chính xác [28].
Sử dụng quá mức thuốc kháng sinh sẽ làm giảm hiệu quả của thuốc trong kiểm
soát bệnh bởi vì sự gia tăng kháng thuốc (lờn thuốc). Ở Thái Lan, hầu hết trong thức
ăn tôm đều có thuốc kháng sinh và có đến 74% trại nuôi sử dụng thuốc kháng để ngăn
ngừa bệnh. Các loại thuốc kháng sinh như Trimethoprim, Sulfamethoxazole,
17
Norfloxacin và axít Oxolinic tất cả được tìm thấy trong khoảng 5cm của lớp bùn ao
nuôi với hàm lượng giữa 1,81 ppm cho Oxolic và 2615,95 ppm cho Norfloxacin. Sử
dụng thuốc kháng sinh gia tăng sự kháng thuốc của vi khuẩn đối với từng loại thuốc có
ít nhất 33% quần đàn vi khuẩn đặc trưng kháng thuốc trong khi không sử dụng thuốc
kháng sinh chỉ có khoảng 25% quần đàn các vi khuẩn kháng thuốc. Khi không sử dụng
kháng sinh, sự kháng khuẩn giảm khoảng 50% so với việc sử dụng kháng sinh thì sự
kháng khuẩn tăng 67% của quần đàn vi khuẩn. Kháng sinh phổ rộng Chloramphenicol
bị cấm ở Mỹ và các nước châu Âu là vì các lý do này (TAA, 2003; FAO, 2006) [24].
Theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NN&PTNT), trong năm 2011 có
56 lượt tôm VN đã bị cơ quan chức năng Nhật Bản phát hiện có dư lượng kháng sinh
enrofloxacin quá mức cho phép và buộc tái nhập về Việt Nam. Trong những con tôm
con cá mang đi xuất của Việt Nam đang có chất Enrofloxacin – là một tác nhân hóa
học trị liệu tổng hợp từ các lớp học của các fluoroquinolone dẫn xuất axit cacboxylic.
Nó có tác dụng kháng khuẩn đối với một loạt các vi khuẩn. Hàm lượng thuốc
Enrofloxacin phải mất 14 ngày sau khi vật nuôi được xuất hàng mới giảm xuống mức
10g – mức sử dụng đối cho phép với con người. Lượng thuốc Enrofloxacin tồn tại cả
trong cơ thể vật nuôi còn sống và đã chết. Ngày 16/1/2012, Bộ NN và PTNT đã ban
hành Thông tư số 03/2012/TT – BNNPTNT bổ sung các chất Cypermethrin,
Deltamethrin và Enrofloxacin vào Danh mục hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng trong
sản xuất, kinh doanh thủy sản tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Thông tư số
15/2009/TT-BNNPTNT ngày 17/3/2009 của Bộ NN và PTNT.
Khánh Hòa với 65 trại sản xuất giống thủy sản đã sử dụng 44 loại kháng sinh, mỗi
trại trung bình dùng 5,8 loại. Trong số 44 loại thuốc thì có 5 loại kháng sinh chữa bệnh
cho người (Streptomycine, Chloramphenicol, Rifampicine, Furazonidon,
Erythromycine) [10].
Các loại thuốc sử dụng cho khu vực nuôi ở Hải Phòng và Quảng Ninh có 10 loại
thuốc bao gồm: Oxytetracycline, Chlaramphenicol, Rifampicine, ampicicline, clocyte,
tetracycline thường được sử dụng để phòng và trị bệnh cho cá trong suốt quá trình
nuôi, ngoài ra còn có một số loại thuốc không rõ nhãn mác và hướng dẫn sử dụng ghi
trên bao bì do nhập lậu từ Trung Quốc, hoặc nhãn mác được viết bằng tiếng Trung
Quốc [11].
1.5. Sự kháng thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản