Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Bình luận, đánh giá thực trạng qui định pháp luật về điều kiện kinh doanh ở Việt Nam nói chung và các TCTD nói riêng, các đề xuất, kiến nghị của nhóm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.63 KB, 62 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
  
ĐỀ TÀI


Giáo viên hướng dẫn : PGS. TS. Bùi Xuân Hải
Nhóm : 5
Lớp – Khóa : Đêm 4 – Khóa 22
1. Trần Trí Đức
2. Đặng Thụy Thanh Lan
3. Trần Thị Hùynh Như
4. Vương Thị Thanh Quy
5. Phạm Thị Phương Thảo
6. Lê Thị Yến
1
NĂM 2013
MỤC LỤC
Nội dung Trang
LỜI MỞ ĐẦU
1
A. BÌNH LUẬN, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU
KIỆN KINH DOANH Ở VIỆT NAM – ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
2
I. NHỮNG QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH Ở VIỆT
NAM NÓI CHUNG
2
1.1. Các văn bản quy phạm pháp luật về thành lập và đăng ký doanh nghiệp
2
1.2. Các khái niệm
2


1.2.1. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
2
1.2.2. Vốn điều lệ
2
1.3. Điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp
2
1.3.1. Giấy phép kinh doanh (GPKD)

3
1.3.2. Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh

3
1.3.3. Chứng chỉ hành nghề
2

4
1.3.4. Vốn pháp định

4
1.3.5. Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp

4
1.3.6. Văn bản chấp thuận

5
1.3.7. Các yêu cầu khác mà doanh nghiệp phải thực hiện hoặc phải có mới được
quyền kinh doanh ngành, nghề đó mà không cần xác nhận, chấp thuận dưới
bất kỳ hình thức nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng đảm bảo
đủ điều kiện kinh doanh


5
II. BÌNH LUẬN, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU
KIỆN KINH DOANH Ở VIỆT NAM
5
2.1. Thực trạng điều kiện kinh doanh ở Việt Nam
5
2.1.1.Về giấy phép kinh doanh
6
2.1.2.Về vốn pháp định
7
2.1.2.1. Vị trí và vai trò của vốn pháp định trong pháp luật doanh nghiệp các nước

7
2.1.2.2. Vốn pháp định trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam – Những điểm
tương đồng và khác biệt với thế giới

8
2.1.3. Về các điều kiện kinh doanh khác
10
3
2.2. Đánh giá qui định pháp luật về điều kiện kinh doanh ở Việt Nam
11
2.2 1 Tính thống nhất
11
2.2 2 Tính minh bạch – rõ ràng
12
2.2 3 Tính hợp lý
15
2.2 4 Tính khả thi
16

III.KIẾN NGHỊ QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH Ở VIỆT
NAM
17
3.1 Nguyên nhân của bất cập
17
3.2 Kiến nghị
18
3.2 1 Xây dựng điều kiện kinh doanh trên nền tảng đồng thuận của xã hội

18
3.2 2 Tổng rà soát các giấy phép và điều kiện kinh doanh hiện hành trên quy mô
toàn quốc

20
3.2 3 Tham khảo kinh nghiệm các nước

20
3.2 4 Xây dựng mô hình giám sát doanh nghiệp

20
3.2 5 Cơ chế đăng ký kinh doanh thông thoáng, tăng cường hậu kiểm sau đăng ký

21
4
B. BÌNH LUẬN, ĐÁNH GIÁ QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH
DOANH CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG- ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
22
I. NHỮNG QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH CỦA CÁC
TCTD
22

1.1. Điều kiện kinh doanh đối với TCTD
22
1.2. Vai trò của cấp phép ngân hàng
22
1.3. Về thực hiện cấp phép ngân hàng tại Việt Nam
22
1.3.1. Thẩm quyền cấp phép ngân hàng
22
1.3.2.Quy trình, thủ tục cấp phép
22
1.3.3.Điều kiện cấp phép
23
1.3.3.1. Mức vốn pháp định của TCTD

23
1.3.3.2. Tiêu chuẩn, điều kiện đối với người quản lý, người điều hành và một số
chức danh khác của TCTD

24
1.3.3.3. Các điều kiện khác tại Mục 2 Thông tư số 40/2011/TT-NHNN ngày
15/12/2011

26
1.3.3.4. Tỷ lệ sở hữu cổ phần

26
1.3.3.5. Phạm vi hoạt động được phép của TCTD
5

26

II. ĐÁNH GIÁ QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH CÁC
27TỔ CHỨC TÍN DỤNG- ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
27
2.1. Đánh giá các tiêu chí cấp phép của Việt Nam
27
2.1.1. Nguyên tắc cấp phép của Basel

27
2.1.2. Đánh giá mức độ tuân thủ nguyên tắc cấp phép của UB Basel (11 tiêu chí
trọng yếu)

27
2.2. Về việc tăng vốn pháp định
29
2.2.1. Quy định về tăng vốn pháp định của các TCTD
29
2.2.2.Những hệ quả từ quyết định gia hạn tăng vốn
30
2.3. Tiêu chuẩn, điều kiện đối với người quản lý, người điều hành và một số
chức danh khác của TCTD

33
2.4. Tỷ lệ sở hữu cổ phần

35
2.5. Phạm vi hoạt động được phép của TCTD

35
2.5.1 Về Giấy phép và phạm vi hoạt động kinh doanh


35
2.5.2 Về cơ chế xác định phí, lãi suất của TCTD (Điều 91)
6

36
2.5.3 Về yêu cầu ban hành quy định nội bộ (Điều 93)

36
2.5.4 Về góp vốn, mua cổ phần của NHTM (Điều 103)

36
2.5.5 Về kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối, sản phẩm phái sinh của NHTM
(Điều 105)

37
2.5.6 Về phạm vi hoạt động của công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính

38
KẾT LUẬN
39
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình thành lập doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân cần hết sức chú ý các
điều kiện để hành nghề, một số ngành nghề đăng ký kinh doanh pháp luật yêu cầu người
đứng đầu doanh nghiệp hoặc người phụ trách chuyên môn cần phải có chứng chỉ hành nghề,
một số ngành nghề kinh doanh pháp luật lại yêu cầu doanh nghiệp phải có vốn pháp định mới
được thành lập và đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Các quy định này nằm trong các quy
định của rất nhiều luật và nghị định khác nhau. Chính vì vậy đã làm cho người muốn tham
gia kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn và thời gian khi muốn tham gia vào các lĩnh vực kinh
doanh có điều kiện. Đặc biệt là các tổ chức tín dụng – tổ chức tài chính trung gian – có ảnh
hưởng quan trọng đến nền kinh tế nước ta. Các quy định liên quan đến điều kiện kinh doanh

của tổ chức tín dụng lại càng phức tạp. Điều này đã gây cản trở khá lớn đối sự phát triển của
nên kinh tế Việt Nam.
Với nhận thức như vậy, nhóm đã chọn đề tài “Bình luận, đánh giá thực trạng quy
định pháp luật về điều kiện kinh doanh ở Việt Nam nói chung và các tổ chức tín dụng
nói riêng. Các đề xuất, kiến nghị của nhóm” làm đề tài. Qua quá trình nghiên cứu, nhóm
7
mong muốn tìm hiểu sâu sắc, rộng hơn những cơ sở lý thuyết và thực tế, trên cơ sở đó mạnh
dạn đưa ra những giải pháp để cải thiện điều kiện kinh doanh tại Việt Nam.
B. BÌNH LUẬN, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU
KIỆN KINH DOANH Ở VIỆT NAM – ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
IV. NHỮNG QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH Ở VIỆT NAM
NÓI CHUNG:
1.4. Các văn bản quy phạm pháp luật về thành lập và đăng ký doanh nghiệp:
- Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005.
- Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 Hướng dẫn chi tiết thi hành một số
điều của Luật Doanh nghiệp.
- Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/04/2010 Về đăng ký doanh nghiệp.
8
- Nghị định số 05/2013/NĐ-CP ngày 09/01/2013 Sửa đổi, bổ sung một số điều quy
định về thủ tục hành chính của Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/04/2010 của Chính phủ
Về đăng ký doanh nghiệp.
- Và các văn bản chuyên ngành khác có liên quan.
1.5. Các khái niệm:
1.2.3. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp:
GCNĐKDN là văn bản hoặc bản điện tử mà cơ quan đăng ký kinh doanh cấp cho
doanh nghiệp ghi lại những thông tin về đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế do doanh
nghiệp đăng ký.
GCNĐKDN đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và Giấy chứng nhận
đăng ký thuế của doanh nghiệp.
1.2.4. Vốn điều lệ:

Vốn điều lệ là số vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết góp trong 01 thời
hạn nhất định và được ghi vào Điều lệ công ty.
1.6. Điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp
Theo qui định tại Khoản 2 Điều 7 Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày
29/11/2005: “Đối với ngành, nghề mà pháp luật về đầu tư và pháp luật có liên quan quy định
phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh ngành, nghề đó khi có đủ điều kiện
theo quy định.
Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi
kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận
đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác.”
Theo qui định tại Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010,
“Điều kiện kinh doanh được thể hiện dưới các hình thức:
- Giấy phép kinh doanh;
- Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh;
- Chứng chỉ hành nghề;
- Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp;
- Xác nhận vốn pháp định;
- Chấp thuận khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
9
- Các yêu cầu khác mà doanh nghiệp phải thực hiện hoặc phải có mới được quyền kinh
doanh ngành, nghề đó mà không cần xác nhận, chấp thuận dưới bất kỳ hình thức nào của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.”
1.3.8. Giấy phép kinh doanh (GPKD)
Giấy phép kinh doanh là một loại văn bản mang tính chất pháp lý do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cấp, cho phép hoặc đồng ý để một chủ thể kinh doanh (cá nhân hoặc tổ
chức) tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh nhất định.
Chức năng: Thể hiện vai trò quản lý của Nhà nước chủ động trong việc hạn chế và
điều tiết những ngành nghề SXKD không có lợi cho cộng đồng, không cần khuyến khích.
Đồng thời, là công cụ can thiệp nhanh, mạnh vào việc điều tiết phát triển các ngành nghề

trong nền kinh tế theo kiểu các mệnh lệnh hành chính.
1.3.9. Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh
Nhiều trường hợp, việc đáp ứng các điều kiện kinh doanh cụ thể phải thực hiện các
thủ tục hành chính khác để xin giấy phép hoặc ý kiến phê duyệt khác. Sau đó, tiếp tục xin
một giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thì mới có thể tiến hành kinh doanh. Ví dụ:
- Ngành hóa chất thuộc danh mục hóa chất sản xuất, kinh doanh có điều kiện. Yêu cầu:
+ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+ Giấy chứng nhận đủ điều kiện phòng cháy và chữa cháy.
+ Giấy xác nhận đăng ký bản cam kết bảo vệ môi trường.
+ Bản kê khai hệ thống nhà xưởng, kho tàng của từng cơ sở kinh doanh hóa chất
nguy hiểm.
+ Bản kê khai trang thiết bị phòng hộ lao động và an toàn.
+ Bản kê khai các phương tiện vận tải chuyên dùng.
+ Bản kê khai địa điểm kinh doanh.
+ Phiếu an toàn hóa chất của toàn bộ hóa chất nguy hiểm trong cơ sở kinh doanh.
+ Bản kê khai nhân sự cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ kỹ thuật và nhân viên có
liên quan trực tiếp đến kinh doanh, bảo quản và vận chuyển hóa chất nguy hiểm.
+ Giấy chứng nhận đủ điều kiện sức khoẻ cấp cho các đối tượng là cán bộ lãnh đạo,
quản lý, cán bộ kỹ thuật và nhân viên có liên quan trực tiếp đến kinh doanh, bảo quản và vận
chuyển hóa chất nguy hiểm.
10
1.3.10. Chứng chỉ hành nghề
Chứng chỉ hành nghề quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật Doanh nghiệp là văn bản
mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam hoặc hiệp hội nghề nghiệp được Nhà
nước ủy quyền cấp cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp về
01 ngành, nghề nhất định.
Chứng chỉ hành nghề được cấp ở nước ngoài không có hiệu lực thi hành tại Việt Nam,
trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành hoặc Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có
quy định khác.
Ngành, nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề và điều kiện cấp chứng chỉ

hành nghề tương ứng áp dụng theo quy định của pháp luật chuyên ngành có liên quan (Phụ
lục Một số ngành cần có chứng chỉ hành nghề khi đăng ký kinh doanh đính kèm – Nguồn: Sở
Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM).
Chức năng:
- Nhằm bảo đảm năng lực tối thiểu của người quản lý, người tự chịu trách nhiệm trước
pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp, và để quản lý, giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề
nghiệp của những người hành nghề.
- Ngành, nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề và điều kiện cấp chứng chỉ
hành nghề tương ứng áp dụng theo quy định của pháp luật chuyên ngành có liên quan. Trong
đó có thể kể đến một số nhóm ngành nghề cần có chứng chỉ hành nghề trước khi đăng ký
kinh doanh.
1.3.11. Vốn pháp định:
Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập
doanh nghiệp.
Ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp định, mức vốn pháp định cụ thể, cơ quan
có thẩm quyền quản lý nhà nước về vốn pháp định, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận
vốn pháp định, hồ sơ, điều kiện và cách thức xác nhận vốn pháp định áp dụng theo các quy
định của pháp luật chuyên ngành
Đối với đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề phải có
vốn pháp định, trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp phải có thêm xác nhận của cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định. Người trực tiếp xác nhận vốn pháp định cùng
liên đới chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của số vốn tại thời điểm xác nhận.
11
Chức năng: Bảo vệ lợi ích của công đồng, chủ yếu đối với các ngành nhạy cảm, sự
biến động tài chính gây tác động lớn đối với xã hội
1.3.12. Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp:
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp: bảo hiểm trách nhiệm pháp lý của ngưòi được
bảo hiểm phát sinh do việc vi phạm trách nhiệm nghề nghiệp.
- Gắn với đặc tính của các lĩnh vực hoạt động chuyên môn khác nhau, các sản phẩm bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp rất đa dạng như: bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp kiến trúc sư,

kỹ sư trong xây dựng; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp môi giới bảo hiểm, bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp môi giới chứng khoán, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp kiểm toán, tư vấn
tài chính, mới đây có quy định trong Thông tư 13 (13/2012/TT-BTC) quy định về bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp đối với tổ chức, cá nhân tiến hành công việc bức xạ…
Chức năng: Doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp sự bảo đảm về mặt tài chính cho các cá
nhân, tổ chức, công ty hành nghề chuyên môn đối với trách nhiệm dân sự phát sinh từ việc
hành nghề chuyên môn (có thể do hành động hoặc thiếu sót của người chịu trách nhiệm
chuyên môn chính cũng như của nhân viên của họ).
1.3.13. Văn bản chấp thuận:
Khác với giấy phép thường là sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan hành chính, điều
kiện kinh doanh có thể được hiểu với những nội dung không rõ ràng. Theo nghĩa rộng, có thể
hiểu đó là mọi sự can thiệp của cơ quan hành chính vào quyền tự do kinh doanh của người dân,
thường được cụ thể hóa bằng những hành vi của nhân viên hành chính có quyền chấp nhận, hạn
chế hoặc khước từ việc đăng kí hoặc tổ chức những hoạt động kinh doanh cụ thể.
Ví dụ: Văn bản chấp thuận của Bộ Văn hóa Thông tin đối với kinh doanh thiết bị thu
tín hiệu truyền hình trực tiếp.
1.3.14. Các yêu cầu khác mà doanh nghiệp phải thực hiện hoặc phải có mới được
quyền kinh doanh ngành, nghề đó mà không cần xác nhận, chấp thuận dưới bất kỳ hình
thức nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng đảm bảo đủ điều kiện kinh doanh:
- Kinh doanh dịch vụ cầm đồ.
- Dịch vụ cho thuê nhà, phòng trọ.
- In lụa.
- Kinh doanh ăn uống.
- Kinh doanh dịch vụ Internet.
12
- Knh doanh gas.
- Kinh doanh rượu, thuốc lá.
V. BÌNH LUẬN, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU
KIỆN KINH DOANH Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng điều kiện kinh doanh ở Việt Nam:

Theo báo cáo thống kê “Ngành nghề kinh doanh có điều kiện: Một số kết quả rà soát
ban đầu”của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thực hiện năm 2008, đã tập hợp
được khoảng gần 400 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và các điều kiện kinh doanh
tương ứng.
- Phân chia theo ngành:
Bưu chính viễn thông: 20; Nông nghiệp và phát triển nông thôn:37; Tài nguyên môi
trường: 45; Tư pháp: 13; Văn hóa thông tin: 42; Xây dựng: 32; An ninh trật tự: 8; Công
thương: 37; Giáo dục đào tạo: 1; Lao động thương binh xã hội: 6; Ngân hàng, tài chính: 53; Y
tế: 47; Giao thông vận tải:36
- Phân chia theo lĩnh vực:
Kinh doanh-dịch vụ: 250; Sản xuất-chế biến: 33; Khai khoáng: 15; Xuất nhập khẩu: 21;
Khác: 66.
- Số lượng ngành nghề kinh doanh có điều kiện có xu hướng tăng nhanh từ năm 2000
trở lại đây.
NĐ 11/1999 chỉ quy định: 10 loại cấm; 5 loại hạn chế; 14 loại kinh doanh có điều
kiện so với NĐ 59/2006 quy định 23 loại cấm; 8 loại hạn chế; 92 loại có điều kiện
Thống kế đến năm 2008: Việt Nam có hơn 300 loại giấy phép; gần 400 ngành nghề
kinh doanh có điều kiện, tập chung chủ yếu trong lĩnh vực thương mại-dịch vụ; sau đó, sản
xuất, chế biến; khai khoáng; các ngành khác.
2.1.4. Về giấy phép kinh doanh:
- Đối với những ngành kinh doanh có điều kiện, hệ thống giấy phép kinh doanh là
những loại giấy tờ cần thiết bên cạnh “Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh” mà thiếu nó,
doanh nghiệp không thể tiến hành hoạt động được. Theo thống kê sơ bộ, hiện nay tại Việt
Nam đang có hơn 300 loại giấy phép kinh doanh do các Bộ, Ngành ban hành đang có hiệu
lực; ngoài ra con số các giấy phép kinh doanh do các địa phương (cấp Tỉnh, Thành phố, thậm
chí cấp Quận, Huyện ) ban hành thì khó có thể thống kê chính xác.
- Số lượng giấy phép kinh doanh có xu hướng tăng nhanh từ năm 2000 trở lại đây.
13
+ Trước năm 2000, theo ước tính có khoảng 500 GPKD tất cả.
+ Năm 2000 Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg và Nghị định 30/2000/NĐ-CP ra đời

để bãi bỏ GPKD không phù hợp và chuyển một số GPKD thành điều kiện kinh doanh
(ĐKKD), khoảng 145 GPKD bị bãi bỏ.
+ Năm 2007, 289 GPKD đã được rà soát và hàng chục giấy phép đã được kiến nghị
bãi bỏ.
+ Năm 2009, Chính phủ đã bãi bỏ được 316 giấy phép và chuyển 44 giấy phép khác
thành ĐKKD.
+ Năm 2010, cả nước có 315 GPKD các loại tồn tại trong nền kinh tế (Theo thống
kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam).
Báo cáo rà soát 37 giấy phép kinh doanh do Ban Pháp chế - Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam cho thấy:
• 19/37 giấy phép có vấn đề về căn cứ pháp lý.
• 05/37 giấy phép hoàn toàn không có căn cứ pháp lý
• 16/37 giấy phép có căn cứ pháp lý nhưng không đầy đủ
- Hệ thống cơ quan cấp GPKD đa dạng và phức tạp.
• Cấp Sở của các tỉnh: 50% giấy phép
• Cấp Bộ, cấp Cục hoặc Tổng cục: 30% giấy phép
• Cấp Ban hoặc Trung tâm: 12% giấy phép
• Còn lại là những cơ quan cấp thấp hơn như Quận, Huyện
Những năm vừa qua, theo kiến nghị của tổ thi hành Luật Doanh Nghiệp, thủ tướng
Chính Phủ đã quyết định hủy bỏ hàng trăm loại giấy phép kinh doanh. Hàng trăm loại giấy
phép khác cũng được sửa đổi, hiệu chỉnh hay hủy bỏ. Tuy nhiên hiện tượng “giấy phép con”
mới ra đời sau vẫn không hề ít.
Tổ công tác thi hành Luật Doanh Nghiệp và Luật Đầu Tư được thành lập năm 2006
đã rà soát 285 loại giấy phép trong số khoảng 320 loại giấy phép và đánh giá theo các tiêu
chí : tính thống nhất, tính cần thiết, tính minh bạch, rõ ràng, tính khả thi, có rất nhiều giấy
phép không căn cứ vào luật, pháp lệnh hay nghị định nào và không đầy đủ, không minh
bạch, không nhất quán và khó khả thi. Nhiều giấy phép mơ hồ về tính hợp pháp, hợp lý cũng
như hiệu quả và hiệu lực thực hiện. Không hướng tới bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội,
thiên về lợi ích ngành hơn là dành thuận lợi cho doanh nghiệp. Thậm chí, một số giấy phép
14

ban hành tùy tiện, thiếu trách nhiệm ngay từ khâu soạn thảo. Trong đó, mục đích hồ sơ, thủ
tục, thẩm quyền, trách nhiệm, điều kiện cấp phép, thời hạn cấp phép…chưa rõ ràng, cụ thể.
Hệ thống giấy phép kinh doanh đang bất cập, cứng nhắc đã góp phần làm tăng chi phí giao
dịch, giảm sức hấp dẫn và năng lực cạnh tranh của môi trường kinh doanh quốc gia, hạn chế
quyền tự do kinh doanh của người dân, gây tốn kém chi phí, phiền hà khó khăn cho doanh
nghiệp. Những điều đó góp phần làm xấu đi môi trường đầu tư kinh doanh và tạo cơ hội cho
tham nhũng phát triển.
2.1.5. Về vốn pháp định:
Vốn có vai trò cực kỳ quan trọng đối với bất kỳ nhà đầu tư nào trên thế giới khi ra
thương trường.
2.1.2.3. Vị trí và vai trò của vốn pháp định trong pháp luật doanh nghiệp các nước.
Có thể nói, vốn là yêu cầu quan trọng hàng đầu để nhà đầu tư gia nhập thị trường mà
các quốc gia đang phát triển kinh tế thị trường không thể không quan tâm. Tuy nhiên, điều
đặt ra là ngưỡng vốn tối thiểu bao nhiêu để cho phép nhà đầu tư gia nhập thị trường lại là một
vấn đề không đơn giản mà pháp luật doanh nghiệp nhiều nước phải cân nhắc để có những
điều chỉnh cho phù hợp. Vì thế, vốn pháp khi thành lập doanh nghiệp đã trở thành một trong
những nội dung cơ bản của pháp luật doanh nghiệp ở nhiều nước.
Ở Việt Nam, quy định về vốn pháp định có quá trình hình thành và phát triển hơn 20
năm từ khi Việt Nam mở cửa kinh tế thị trường. Dù trải qua những giai đoạn thăng trầm nhất
định nhưng vốn pháp định vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong pháp luật doanh nghiệp Việt
Nam suốt từ năm 1990 cho đến nay. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng vào kinh tế
quốc tế cùng với tiến trình cải cách thủ tục hành chính đang diễn ra hết sức mạnh mẽ thì việc
nhìn nhận và đánh giá lại pháp luật điều chỉnh vốn pháp định ở Việt Nam trong tương quan
với quy định vốn pháp định ở các nền kinh tế khác trên thế giới lại có ý nghĩa hơn bao giờ
hết, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà những vấn đề về vốn pháp định cho hoạt động
của doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản
ở Việt Nam vẫn còn đọng lại nhiều vướng mắc, bất cập đòi hỏi phải nhanh chóng và hoàn
thiện trong thời gian sớm nhất để tạo ra sự ổn định cho kinh tế nước nhà phát triển bền vững,
thoát ra thời kỳ khủng hoảng và suy thoái kinh tế mà Việt Nam đang phải nếm trải suốt từ
năm 2008 đến nay.

2.1.2.4. Vốn pháp định trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam – Những điểm
tương đồng và khác biệt với thế giới
15
Nhìn chung, quy định vốn pháp định giữa pháp luật doanh nghiệp Việt Nam với các quốc
gia khác trên có những điểm tương đồng và khác biệt thể hiện ở những nội dung cơ bản sau :
- Thứ nhất, vốn pháp định ở Việt Nam được xác định theo từng ngành, nghề kinh
doanh cụ thể, không áp dụng cho từng loại hình doanh nghiệp như hầu hết các nước trên thế
giới đã và đang thực hiện
Khoản 3 Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2005 và Điều 8 Nghị định 102/2010/NĐ-CP do
Chính phủ ban hành ngày 01/10/2010 để quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Doanh nghiệp 2005 đã xác định vốn pháp định với tư cách là mức vốn “sàn” đối với doanh
nghiệp ở Việt Nam không áp dụng đại trà trong nền kinh tế, mà chỉ áp dụng cho từng ngành,
nghề kinh doanh cụ thể do pháp luật chuyên ngành điều chỉnh.
Có thể nói, lịch sử phát triển của vốn pháp định ở Việt Nam đã trải qua nhiều giai
đoạn thăng trầm nhất định nhưng tất cả đều thống nhất ở chỗ: vốn pháp định ở Việt Nam
chưa bao giờ áp dụng theo từng loại hình doanh nghiệp như nhiều nước khác đã và đang làm.
+ Giai đoạn từ năm 1991 – 1999 vốn pháp định áp dụng tràn lan trong nhiều ngành
nghề theo yêu cầu của Luật Công ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990. Mỗi ngành,
nghề Chính phủ Việt Nam đều ấn định một một mức vốn nhất định buộc doanh nghiệp ở Việt
Nam phải đáp ứng bằng cách có xác nhận của Ngân hàng nơi doanh nghiệp mở tài khoản
hoặc xác nhận của Phòng Công chứng nhà nước về tài sản góp vốn bằng hiện vật khi thành
lập. Nhìn chung, vốn pháp định áp dụng trong nhiều ngành nghề kinh doanh của doanh
nghiệp giai đoạn 1991-1999 không đem lại hiệu quả trên thực tế mà nguyên nhân là do nhà
nước quy định mức vốn tối thiểu quá thấp đã làm mất hết ý nghĩa của việc quy định về mức
vốn pháp định là nhằm đảm bảo tối thiểu về tài sản của chủ doanh nghiệp đối với việc kinh
doanh và đối với khách hàng. Khi Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời thì vốn pháp định chỉ còn
lại trong số rất ít ngành nghề kinh doanh.
+ Đến thời điểm năm 2003, cả nước chỉ còn một số ngành, nghề DN phải chứng
minh vốn pháp định như kinh doanh tiền tệ- tín dụng, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh
chứng khoán và kinh doanh vàng.

+ Sau này khi Luật Doanh nghiệp 2005 được ban hành thì vốn pháp định tiếp tục áp
dụng cho một số ngành, nghề như: kinh doanh tiền tệ - tín dụng, kinh doanh bảo hiểm, kinh
doanh chứng khoán, kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ đòi nợ thuê, kinh doanh dịch
vụ bảo vệ, kinh doanh vận chuyển hàng không, kinh doanh cảng hàng không, kinh doanh cung
cấp dịch vụ hàng không, kinh doanh sản xuất phim, kinh doanh Sở giao dịch hàng hoá và kinh
doanh dịch vụ kiểm toán độc lập. Chẳng hạn, để kinh doanh dịch vụ đòi nợ thuê thì phải có ít
nhất là 2 tỷ VND, kinh doanh bất động sản thì phải có vốn tối thiểu là 6 tỷ VND,
16
Trong khi đó, ở nhiều nước, vốn pháp định để thành lập doanh nghiệp họ lại có cách
tiếp cận khác, đó là quy định vốn pháp định áp dụng theo từng loại hình doanh nghiệp, hoặc
một mức thống nhất cho doanh nghiệp, chứ không áp dụng theo từng ngành, nghề kinh doanh
cụ thể như tại Việt Nam và Lào. Điều này được thể hiện qua các dẫn chứng sau:
+ Ở Phần Lan, vốn pháp định để thành lập doanh nghiệp mà quốc gia này quy định
chung là 2.500 euro.
+ Ở Indonesia, để thành lập công ty TNHH thì họ bắt buộc NĐT phải có ít nhất 50
triệu rupiah.
+ Ở Hàn Quốc, một công ty cổ phần trong lĩnh vực đầu tư phải có vốn tối thiểu 1 tỷ
won, còn trong lĩnh vực thương mại thì vốn pháp định đối với một công ty TNHH là 10 triệu
won, trong đó giá trị mỗi phần vốn góp ít nhất là 5.000 won, còn đối công ty cổ phần là 50
triệu won và giá trị danh nghĩa của mỗi cổ phiếu thấp nhất là 100 won.
+ Ở Trung Quốc, để thành lập công ty TNHH một thành viên phải có vốn pháp định
là 100.000 yuan, đối với công ty cổ phần là 5.000.000 yuan, còn đối với công ty TNHH hai
thành viên là 30.000 yuan.
+ Ở Đức, thành lập công ty TNHH thì họ quy định phải có tối thiểu 25.000 euro,
công ty cổ phần là 50.000 euro.
+ Ở Anh Quốc, thành lập công ty cổ phần thì phải có tối thiểu 50.000 euro và ít nhất
¼ trong số đó phải được thành toán đủ khi thành lập.
+ Ở Pháp, để thành lập công ty hợp danh hữu hạn (Société à responsabilité limitée -
SARL) thì phải có vốn tối thiểu là 7.500 euro, còn nếu thành lập công ty cổ phần (La Société
Anonyme) thì phải có ít nhất 37.000 euro.

Chính việc không quy định mức vốn pháp định cụ thể áp dụng cho từng loại hình
doanh nghiệp hoặc một ngưỡng thống nhất chung cho tất cả các doanh nghiệp như nhiều
nước đang làm điều đó có nghĩa là về mặt pháp lí nhà đầu tư ở Việt Nam khi thành lập doanh
nghiệp có thể chỉ đăng kí với mức vốn khiêm tốn 1.000 VND vẫn được ! Qua đó, việc gia
nhập thị trường của nhà đầu tư sẽ được nhiều thuận lợi hơn, phù hợp với chủ trương phát huy
nội lực, giải phóng sức sản xuất trong nhân dân mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang
thực hiện. Theo thống kê, trong năm 2010, cả nước Việt Nam đã có khoảng 85.000 doanh
nghiệp dân doanh thành lập mới với số vốn đăng ký khoảng 500 nghìn tỷ đồng trên phạm vi
63 tỉnh, thành. Bình quân vốn đăng kí của mỗi doanh nghiệp đạt gần 6 tỷ đồng.
- Thứ hai, việc quy định mức vốn vốn pháp định cụ thể ở Việt Nam chủ yếu được xác
định thông qua các văn bản dưới luật do cơ quan hành pháp ban hành, trong khi ở hầu hết các
17
nước vốn pháp định của họ lại thường được được điều chỉnh trong các đạo luật có giá trị
pháp lí cao hơn do cơ quan lập pháp ban hành.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 thì ngành nghề kinh doanh
phải có vốn pháp định được xếp vào dạng ngành nghề kinh doanh có điều kiện, theo đó, chỉ
có Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ mới có quyền quy định về điều kiện
kinh doanh áp dụng trong các ngành nghề nhất định theo luật định. Điều đó có nghĩa là vốn
pháp định có thể tồn tại trong các văn bản luật do Quốc hội ban hành hoặc trong các văn bản
dưới luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ ban hành.
Thực tế, ở Việt Nam, danh mục ngành nghề kinh doanh phải có vốn pháp định hầu
như chỉ được liệt kê trong các Nghị định do Chính phủ ban hành, còn luật và pháp lệnh do
Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành chỉ đóng vai trò hết sức mờ nhạt, mang
tính định hướng là cơ bản.
Trong khi đó, ở các quốc gia khác nếu có quy định vốn pháp định thì họ lại xác định
rõ mức vốn cụ thể trong đạo luật về doanh nghiệp mà cơ quan lập pháp đã ban hành. Ở Trung
Quốc, mức vốn pháp định cho các doanh nghiệp được xác định cụ thể tại các Điều luật số 26,
59 và 81 của Luật Công ty 2005, ở Anh Quốc cũng vậy – Điều 768 Luật Công ty 2006 của họ
quy định rõ mức vốn pháp định áp dụng đối với công ty cổ phần là 50.000 euro.
Chính việc quy định vốn pháp định trong các văn bản dưới luật cũng dẫn đến hệ quả

là so với nhiều nước trên thế giới thì vốn pháp định ở Việt Nam không có tính ổn định cao
bằng, đó là điều tất yếu.
- Thứ ba, trong khi hầu hết các nước trên thế giới đang có xu hướng giảm bớt vai trò và
ảnh hưởng của vốn pháp định đối với doanh nghiệp thì ở Việt Nam vốn pháp định lại đang có
chiều hướng gia tăng trở lại trong nhiều ngành nghề
Nếu như vào thời điểm năm 2003, cả nước chỉ có khoảng 3-4 ngành, nghề kinh doanh
phải có vốn pháp định, thì tại thời điểm hiện nay, số lượng ngành, nghề kinh doanh phải có
vốn pháp định đã tăng từ 5-6 lần so với thời điểm năm 2003 và chưa có dấu hiệu dừng lại
trong thời gian tới. Nếu như vào thời điểm năm 2003, cả nước chỉ có khoảng 3-4 ngành, nghề
kinh doanh phải có vốn pháp định, thì tại thời điểm năm 2011, số lượng ngành, nghề kinh
doanh phải có vốn pháp định đã tăng từ 5-6 lần so với thời điểm năm 2003 và chưa có dấu
hiệu dừng lại trong thời gian tới. Sự gia tăng các ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp
định ở Việt Nam cũng gây nhiều lo ngại cho doanh nghiệp và đi ngược lại tiến trình cải cách
thủ tục hành chính mà Nhà nước Việt Nam đang tiến hành. Thậm chí, trong một số trường
hợp vốn pháp định ở Việt Nam còn được sử dụng để tạo lực cản cho nhà đầu tư gia nhập thị
trường, đây là điều mà hiếm khi xuất hiện trong pháp luật doanh nghiệp các nước khác.
18
Thực tiễn này đã đặt các nhà hoạch định chính sách pháp luật liên quan đến doanh nghiệp
ở Việt Nam phải xem xét, đánh giá lại quy định vốn pháp định để chúng thực sự phát huy
được hiệu quả trên thực tế chứ không phải là rào cản cho quyền tự do kinh doanh của người
dân như dẫn chứng trên đã phân tích.
2.1.6. Về các điều kiện kinh doanh khác:
- Hiện tại tại Việt Nam chứng chỉ hành nghề còn những hạn chế và ảnh hướng xấu đến
môi trường kinh doanh. Chứng chỉ hành nghề nên do hội nghề nghiệp cấp cho tất cả những
người hành nghề để quản lý, giám sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của họ, chứ không
phải do đào tạo và thi tuyển. Có rất nhiều nhân viên có hàng chục năm công tác nhưng không
được hành nghề vì chưa tham gia học và “thi tuyển” để được cấp chứng chỉ hành nghề. Do
đó, những vi phạm về đạo đức nghề nghiệp, sự lạc hậu về trình độ chuyên môn của người
hành nghề đã và đang xảy ra một cách phổ biến. Chứng chỉ hành nghề đã và đang trở thành
một rào cản lớn đối với công dân khi gia nhập thị trường nói riêng và cả môi trường kinh

doanh nói chung.
- Việc áp dụng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp hiện tại vẫn còn nhiều bất cập.
Những qui định vẫn chưa cụ thể, vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Các luật cũng quy định
rất hạn chế trong các lĩnh vực có yêu cầu bảo hiểm nghề nghiệp. Cách giải quyết các sai
phạm chưa được cụ thể mà đa phần chỉ mang tính khái quát, định hướng.
2.2. Đánh giá qui định pháp luật về điều kiện kinh doanh ở Việt Nam:
2.2 1 Tính thống nhất
- Hiện nay quy định về điều kiện kinh doanh các ngành nghề còn phân tán, nằm rải rác
tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau, chưa có tính thống nhất. Chưa tồn tại một thống kê và
cập nhật chính xác các loại giấy phép và điều kiện kinh doanh đang có hiệu lực ở nước ta.
Tuy 64 phòng đăng kí kinh doanh các tỉnh và các cơ quan có chức năng đăng kí kinh doanh
khác có nghĩa vụ hướng dẫn người dân về các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, song
không một cơ quan nào có thể trả lời chính xác có bao nhiêu loại giấy phép kinh doanh đang
có hiệu lực ở Việt Nam, chúng được quy định cho các ngành nghề gì và được cấp phép theo
những thủ tục và tiêu chí cụ thể ra sao.Đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên
nhiều bất lợi đối với doanh nghiệp; qua đó, làm giảm tính hấp dẫn và năng lực cạnh tranh
của môi trường kinh doanh nước ta.
+ Căn cứ khoản 2 và 5 Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2005:
19
“Đối với ngành, nghề mà pháp luật về đầu tư và pháp luật có liên quan quy định phải
có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh ngành, nghề đó khi có đủ điều kiện theo
quy định.
Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi
kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận
đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác.”
“Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp không được
quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh.”
+ Khoản 1 và Điều 8 – NĐ 102
“Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh áp dụng theo các quy

định của các luật, pháp lệnh, nghị định chuyên ngành hoặc quyết định có liên quan của Thủ
tướng Chính phủ (sau đây gọi chung là pháp luật chuyên ngành).
Các quy định về loại ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh
đối với ngành, nghề đó tại các văn bản quy phạm pháp luật khác ngoài các loại văn bản quy
phạm pháp luật đã nêu tại khoản 1 Điều này đều không có hiệu lực thi hành.”
Như vậy, một ngành nghề kinh doanh có điều kiện được coi là “hợp pháp” chỉ khi cả
Tên ngành nghề và các điều kiện kinh doanh tương ứng của ngành, nghề đó được quy
định tại luật, pháp lệnh, nghị định hoặc quyết định của Thủ Tướng. Các ngành nghề và điều
kiện kinh doanh khác là không hợp pháp
- Căn cứ vào các quy định Luật Doanh nghiệp 2005, trong khoảng 400 ngành nghề kinh
doanh có điều kiện, thì có khoảng 50 ngành nghề kinh doanh có điều kiện không đủ tính hợp
pháp. Đây là những ngành nghề mà cả tên ngành nghề kinh doanh và điều kiện kinh doanh
được quy định tại Thông tư của Bộ và/hoặc Quyết định của Bộ trưởng.
- Ngành nghề kinh doanh mà điều kiện kinh doanh “thể hiện bằng giấy phép”. Mặc dù
tên giấy phép được đề cập trong luật, pháp lệnh, nghị định; nhưng không quy định điều
kiện/tiêu chí cấp phép; việc cấp phép sau đó được hướng dẫn bằng Quyết định của Bộ
trưởng hoặc Thông tư: Ví dụ - Một số hoạt động cung cấp dịch vụ kết nối Internet (ISP,
IXP, );
- Luật, pháp lệnh không quy định thành điều kiện kinh doanh, nhưng nghị định và QĐ
hoặc thông tư lại hướng dẫn thành ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo hướng bó hẹp
lại – Ví dụ: Xác nhận đăng ký đại lý dịch vụ chuyển phát thư - Pháp lệnh chỉ quy định hợp
đồng đại lý phải lập thành văn bản; sau đó NĐ hướng dẫn quy định phải đăng ký. Nhưng TT
20
hướng dẫn việc đăng ký thành việc “nộp hồ sơ, thẩm tra hồ sơ và cấp giấy xác nhận đăng ký
hợp đồng. Hoặc Giấy phép cung cấp dịch vụ ứng dụng Internet trong viễn thông cấp cho
OSP viễn thông. Ví dụ như hoạt động in xuất bản phẩm, luật chỉ yêu cầu “có thiết bị để in
xuất bản phẩm”. Nhưng nghị định cụ thể hoá yêu cầu “phải có dây chuyền thiết bị in và gia
công sau in”. Thông tư cụ thể hoá thêm bằng yêu cầu cơ sở phải có đủ các thiết bị in và gia
công sau in, gồm máy in, máy xén, máy gấp, máy đóng sách
- Quy định của Luật, pháp lệnh hoặc nghị định rất chung chung, sau đó các Bộ quy

định cho các hoạt động kinh doanh có liên quan – Ví dụ GP hành nghề khoan nước dưới đất
– Luật tài nguyên nước điều 34 – “1. Tổ chức, cá nhân thăm dò, khai thác nước dưới đất
phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” – sau đó hướng dẫn bằng Quyết định
của Bộ trưởng Bộ Tài Nguyên Môi Trường .
- Luật không quy định bất kỳ về điều kiện kinh doanh mà đơn thuần uỷ quyền cho
Chính phủ, Bộ quy định các điều kiện kinh doanh. Tương tự, Chính phủ uỷ quyền cho Bộ.
Ví dụ điều 45 Pháp lệnh bưu chính viễn thông chỉ đơn thuần quy định 1 loạt các loại giấy
phép viễn thông. Sau đó, NĐ và thông tư, quyết định hướng dẫn cấp phép và điều kiện cấp
phép. Hoặc, NĐ 55 về đại lý internet chỉ quy định đại lý internet có trách nhiệm “thực hiện
các quy định về quản lý dịch vụ internet do cơ quan quản lý nhà nước ban hành”. Sau đó TT
2/2005 quy định 1 loạt điều kiện đại lý internet.
Theo kiến nghị của các chuyên gia, cần thống nhất cách tiếp cận về ngành nghề kinh
doanh có điều kiện theo Luật Doanh nghiệp.
2.2 2 Tính minh bạch – rõ ràng
- Không công khai về quá trình ban hành các giấy phép mới hoặc sửa đổi các giấy phép
cũ, không công khai các thông tin về bản thân các quy định liên quan đến giấy phép cũng
như quy trình thực thi các quy định này (mặc dù các quy định về quy trình ban hành văn bản
quy phạm pháp luật đã đề cập đến vấn đề này nhưng việc thực thi còn rất hạn chế; hơn nữa,
quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật cấp bộ, đặc biệt là các văn bản có liên quan
đến giấy phép kinh doanh, chưa được quy định rõ ràng và chủ yếu vẫn thuộc quyền tự quyết
của các bộ).
- Rất nhiều giấy phép có vấn đề về căn cứ pháp lý, thể hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau:
+ Giấy phép không được nêu trong bất kỳ văn bản nào của Quốc hội, Chính phủ, Thủ
tướng (ví dụ: Văn bản đồng ý nội dung kịch bản trò chơi trực tuyến và các điều kiện kinh
doanh trò chơi trực tuyến khác quy định tại Thông tư liên tịch 60/2006/TTLT),
21
+ Giấy phép vẫn được quy định trong những văn bản này nhưng một số quy định về
điều kiện cấp phép, duy trì giấy phép lại được nêu trong văn bản cấp bộ (ví dụ các điều kiện
kinh doanh quảng cáo chỉ được quy định một phần trong Pháp lệnh quảng cáo và Nghị định

24/2003/NĐ-CP, đa số các điều kiện khác được quy định tại Thông tư 43/2003/TT-BVHTT
và Thông tư 79/2005/TT-BVHTT của Bộ Văn hóa Thông tin);
+ Giấy phép có căn cứ pháp lý rất mơ hồ (các điều kiện kinh doanh đại lý Internet quy
định tại Thông tư liên tịch 02/2005/TTLT-BCVT-VHTT-CA-KHĐT dựa trên một căn cứ duy
nhất là quy định “Đại lý Internet có trách nhiệm thực hiện các quy định về quản lý dịch vụ
Internet do các cơ quan quản lý nhà nước ban hành” trong Nghị định 55/2001/NĐ-CP).
Nếu các doanh nghiệp đều biết rằng các giấy phép không có căn cứ pháp lý đều
không có giá trị thi hành, rằng họ không có nghĩa vụ phải xin các giấy phép này, rằng họ có
thể khiếu nại/tố cáo các cơ quan liên quan và thậm chí có thể yêu cầu tòa án bảo vệ quyền
không cần xin các giấy phép này thì có lẽ tình hình giấy phép kinh doanh ở Việt Nam sẽ có
được sự thay đổi căn bản ngay cả khi chưa có những điều chỉnh cụ thể của các cơ quan lập
pháp, lập quy.
- Kết quả rà soát của Bộ kế hoạch và đầu tư (CIEM), theo dự án GTZ cho thấy:
Về cơ bản thể hiện sự không rõ ràng, hợp lý của các quy định về giấy phép kinh
doanh (báo cáo CIEM-GTZ), cụ thể:
+ Đối tượng áp dụng:
Đối tượng áp dụng thường được quy định chung chung là “cá nhân, tổ chức” hoặc
“doanh nghiệp”; Với quy định như vậy, không rõ quy định đó áp dụng như thế nào đối với
đối tượng là hộ kinh doanh cá thể; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài! Rất ít trường
hợp có phân định rõ đối tượng áp dụng là bao gồm những loại doanh nghiệp nào (ví dụ, kinh
doanh vận tải đa phương thức).
+ Các điều kiện kinh doanh cụ thể:
Đây là một nội dung quan trọng nhất trong quy định về ngành nghề kinh doanh có
điều kiện, nhưng cũng là nội dung thiếu rõ ràng, hợp lý, thể hiện.
 Nhiều trường hợp, thiếu quy định về điều kiện kinh doanh: Ví dụ, thử nghiệm
mạng và dịch vụ viễn thông; thử nghiệm dịch vụ chuyển phát thư (nghị định chỉ quy định:
”Bộ bưu chính viễn thông quyết định trường hợp thử nghiệm dịch vụ chuyển phát thư trước
khi cấp giấy phép).
 Phần lớn các điều kiện kinh doanh được quy định tại Quyết định hoặc thông
tư của các Bộ.

22
 Nhiều điều kiện còn quy định chung chung, thiếu rõ ràng và cụ thể, thậm chí
khó thực hiện được. Các điều kiện này thường là điều kiện về địa điểm kinh doanh, cơ sở vật
chất, trang thiết bị, trình độ chuyên môn, phương án, kế hoạch kinh doanh; những yêu cầu
này lại thường thể hiện một cách chung chung là:
 Phù hợp quy hoạch;
 Đủ trang thiết bị
 Người quản lý có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm phù hợp
 Phương án kinh doanh khả thi hoặc có đủ khả năng tài chính.
 Điều kiện hoạt động giới thiệu việc làm là một ví dụ điển hình về sự không rõ
ràng:
 Có địa điểm và trụ sở ổn định; đặt ở nơi thuận tiện và đủ diện
tích cho việc giao dịch và hoạt động của doanh nghiệp; nếu thuê trụ sở thì phải ổn
định từ 36 tháng trở lên
 Có phòng sử dụng cho hoạt động tư vấn, hoạt động giới thiệu
và cung ứng lao động; phòng sử dụng cho hoạt động về thông tin thị trường lao động;
có trang bị máy vi tính, điện thoại, fax, email và các tài liệu liên quan đến thị trường
lao động và trang thiết bị khác phục vụ khách hàng
 Có ít nhất 300 triệu đồng ký quỹ tại ngân hàng
 Có ít nhất 5 cán bộ có trình độ từ cao đẳng trở lên, thuộc các
chuyên ngành kinh tế, pháp luật, ngoại ngữ; có lý lịch rõ ràng, phẩm chất đạo đức tốt,
không tiền án.
 Các điều kiện này, đặt ra một loạt các câu hỏi:
 Thế nào là trụ sở “ổn định”, “thuận tiện”, và “đủ diện tích”? Rõ ràng sẽ là tuỳ
sự diễn giải chủ quan của cơ quan cấp phép
 Yêu cầu xác nhận của UBND xã, phường về “đạo đức tốt”, “chưa tiền án, tiền
sự” là bất hợp lý trên nhiều mặt. Bắt một người chứng minh là vô tội là trái với
nguyên tắc pháp luật VN; cấm một người có tiền án, tiền sự không được kinh doanh
cũng là trái với pháp luật; căn cứ, trình tự nào để UBND xác nhận, trách nhiệm của
UBND đến đâu?

 Yêu cầu phải có 5 nhân viên, trình độ ít nhất là cao đẳng? Là không thực tế và
bất hợp lý. 5 người có là quá nhiều không? Tại sao phải là cao đẳng? Tại sao phải là
23
người tốt nghiệp trong ngành luật, ngoại ngữ, kinh tế? Ngoại ngữ là là tiếng Anh,
Pháp, hay Tây Ban Nha?
 Điều kiện kinh doanh được quy định trong các văn bản hướng dẫn có xu
hướng bổ sung thêm điều kiện, theo hướng khắt khe hơn, khó thực hiện hơn: Ví dụ: hoạt
động in xuất bản phẩm:
 Luật chỉ yêu cầu “có thiết bị để in xuất bản phẩm”
 Nghị định cụ thể hoá yêu cầu này bằng “phải có dây chuyền thiết bị in và gia công sau
in”
 Thông tư, sau đó tiếp tục cụ thể hoá bằng yêu cầu cơ sở in phải có đủ các thiết bị in và
gia công sau in, bao gồm: máy in, máy xén, máy gấp và máy đóng sách (khâu thép liên hợp
hoặc vào bìa)
 Hoặc, “đăng ký cam kết bảo vệ môi trường” được hướng dẫn thành “xác nhận đăng
ký cam kết BVMT” giống như một giấy phép.
 Nhiều trường hợp, việc đáp ứng các điều kiện kinh doanh cụ thể phải thực
hiện các thủ tục hành chính khác để xin giấy phép hoặc ý kiến phê duyệt khác. Sau đó, tiếp
tục xin một giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thì mới có thể tiến hành kinh doanh.
Ví dụ, các trường hợp kinh doanh có điều kiện thể hiện bằng giấy phép hoặc giấy chứng
nhận đủ điều kiện kinh doanh (kinh doanh xăng dầu, )
 Tiêu chí để cơ quan hành chính cấp phép hoặc từ chối cấp phép đôi khi chưa
rõ ràng. Ví dụ như việc xin giấy phép khai thác mỏ, doanh nghiệp phải xin ý kiến rất nhiều
cơ quan và phải hoàn thiện nhiều thủ tục thẩm định cấp phép không rõ ràng. Để có được
giấy phép khai thác mỏ, trước hết doanh nghiệp phải xin ý kiến hai cơ quan quốc phòng và
du lịch, sau đó doanh nghiệp phải thỏa thuận với UBND xã nơi có mỏ để xin chấp thuận về
nguyên tắc. Tiếp đó doanh nghiệp phải lên UBND huyện để xin huyện chấp thuận ý kiến của
xã, sau đó huyện sẽ có công văn gửi lên Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) của tỉnh.
Sở TN&MT giao cho Phòng Quản lí Khoáng sản xuống kiểm tra thực địa, trên cơ sở kết
luận của khảo sát, Sở TN&MT sẽ làm công văn đề nghị UBND tỉnh ký quyết định chấp

thuận. Tùy theo loại mỏ, Bộ TN&MT sẽ quyết định phân cấp cho tỉnh cấp phép hoặc Bộ này
sẽ tự quyết định. Sau khi có quyết định của Bộ TN&MT, tỉnh yêu cầu doanh nghiệp lập dự
án khai thác mỏ, lập báo cáo tác động môi trường. Trung tâm Đo đạc Địa chính thuộc Sở
TN&MT đến đo đạc lần cuối với chi phí chính thức 1,2 triệu đồng/ha, cuối cùng tỉnh mới
cấp phép. Tổng chi phí cho các đợt đi lại xin phép ước tốn 20 triệu đồng, thời gian cấp phép
trung bình khoảng 1 năm.
24
 Quy trình cấp phép và giám sát điều kiện kinh doanh chưa có sự tham gia của
người liên quan, chưa tham vấn và giải thích rõ các quyền của người làm đơn xin cấp phép, nếu
từ chối cấp phép thường cũng không nêu nguyên nhân và giải thích quyền khiếu nại cho đương
sự.
Như vậy, để có thể tiến hành hoặc động kinh doanh, có thể phải thực hiện rất nhiều
thủ tục khác nhau
2.2 3 Tính hợp lý:
Quy định của pháp luật về các điều kiện kinh doanh thể hiện qua Giấy phép kinh
doanh (hay Chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh ) là công cụ quản lý Nhà nước liên quan
đến những hoạt động sản xuất, kinh doanh những mặt hàng hay dịch vụ mà Nhà nước kiểm
soát. Và đây là việc bình thường và cần thiết. Trên thực tế, không chỉ nhà nước mới cấp các
loại giấy phép kinh doanh mà chủ thể ngoài nhà nước (không mang quyền lực nhà nước)
cũng có thể cấp phép, chẳng hạn: Một chủ sở hữu (như tác giả, công ty ) cũng có thể cấp
phép cho bên thức ba sử dụng tài sản của mình trong kinh doanh.
Và ngành nghề kinh doanh có điều kiện chỉ coi là cần thiết, nếu :
+ Có mục tiêu rõ ràng: bảo vệ cái gì, lợi ích của ai…
+ Điều kiện kinh doanh là công cụ duy nhất, rẻ nhất và hiệu quả nhất để đạt được mục
tiêu nói trên.
Tuy nhiên: Kết quả rà soát cho thấy:
- Hầu hết các quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện đều không nêu mục tiêu
một cách rõ ràng; chứ chưa nói đến việc lý giải điều kiện đó đã phải là công cụ tốt nhất để
đạt được mục đích đó chưa. Một số ít quy định (luật, nghị định) có nêu mục tiêu một cách
chung chung mục ở lời nói đầu.

- Thường lấy đối tượng quản lý làm mục đích - quản lý cái gì?; chứ không phải là mục
đích - phải quản lý để làm gì?, ví dụ hoạt động quảng cáo.
Mục đích của giấy phép phải hướng tới việc bảo vệ một hoặc một số lợi ích công
cộng nhất định (ví dụ an ninh quốc phòng, trật tự xã hội, sức khỏe cộng đồng, môi trường );
đa số giấy phép được xem là có vấn đề về tính cần thiết:
+ Điều kiện cấp phép không liên quan đến lợi ích công cộng cần bảo vệ (ví dụ, các
điều kiện để được cấpgiấy xác nhận đủ điều kiện về an toàn trật tự đối với ngành nghề khắc
dấu bao gồm cả các điều kiện về an toàn phòng cháy chữa cháy, phòng nổ, phòng độc, vệ
25

×