Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nghiên cứu phối hợp một số hóa chất nhóm pyrethroid để phòng chống muỗi anopheles epiroticus linton harbach, 2005 đã kháng hóa chất diệt côn trùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 91 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN




TRỊNH HOÀNG ANH




NGHIÊN CỨU PHỐI HỢP MỘT SỐ HÓA CHẤT
NHÓM PYRETHROID ĐỂ PHÒNG CHỐNG MUỖI
ANOPHELES EPIROTICUS LINTON & HARBACH, 2005
ĐÃ KHÁNG HÓA CHẤT DIỆT CÔN TRÙNG




LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC






Hà Nội – 2014




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN




TRỊNH HOÀNG ANH



NGHIÊN CỨU PHỐI HỢP MỘT SỐ HÓA CHẤT
NHÓM PYRETHROID ĐỂ PHÒNG CHỐNG MUỖI
ANOPHELES EPIROTICUS LINTON & HARBACH, 2005
ĐÃ KHÁNG HÓA CHẤT DIỆT CÔN TRÙNG


Chuyên ngành: Động vật học
Mã số: 60420103


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC


Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hương Bình
PGS.TS. Nguyễn Văn Vịnh


Hà Nội - 2014



LỜI CẢM ƠN

Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Hương
Bình và PGS.TS. Nguyễn Văn Vịnh đã hướng dẫn tôi rất tận tình và chu đáo trong
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Viện sốt rét – Ký sinh trùng – Côn
trùng Trung Ương, Ban chủ nhiệm khoa Sinh học trường Đại học Khoa học Tự
nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện giúp cho tôi học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong bộ môn
Động vật học, khoa Sinh học, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc
gia Hà Nội đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình học tập,nghiên cứu và tạo
điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Tôi gửi tới các bác, cô chú, bạn bè đồng nghiệp trong trường Trung cấp Y tế
Đặng Văn Ngữ, Khoa Côn trùng, Khoa Hóa thực nghiệm, Viện sốt rét – Ký sinh
trùng – Côn trùng Trung Ương, những người đã tận tình giúp đỡ, động viên và tạo
điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn. Cảm ơn bạn bè thân thiết luôn là
nguồn cổ vũ động viên tôi phấn đấu.
Với tất cả lòng biết ơn sâu nặng, tôi xin dành cho gia đình, bố mẹ, những
người đã dìu dắt, cổ vũ động viên, yêu thương và cảm thông sâu sắc.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Học viên



Trịnh Hoàng Anh




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Các véc-tơ truyền bệnh sốt rét 3
1.1.1. Vị trí phân loại của muỗi Anopheles epiroticus Linton & Harbach, 2005 3
1.1.2. Phân bố của muỗi Anopheles epiroticus Linton & Harbach, 2005 3
1.1.3. Vai trò truyền bệnh 4
1.2. Các biện pháp phòng chống véc-tơ sốt rét 5
1.2.1. Các biện pháp vật lý và môi trường 5
1.2.2. Các biện pháp sinh học 5
1.2.3. Các biện pháp hóa học 6
1.3.Tình hình kháng và cơ chế kháng của véc-tơ sốt rét với hóa chất diệt côn
trùng. 7
1.3.1. Định nghĩa kháng hóa chất 7
1.3.2. Tình hình kháng hóa chất của véc-tơ sốt rét 8
1.3.3. Cơ chế kháng hóa chất diệt côn trùng 9
1.4. Các nghiên cứu về hóa chất nhóm pyrethroid 11
1.4.1. Tình hình nghiên cứu hóa chất pyrethroid trên thế giới 13
1.4.2. Tình hình nghiên cứu hóa chất pyrethroid trong nước 16
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 21
2.1. Đối tượng nghiên cứu 21
2.2. Thời gian nghiên cứu 21
2.3. Địa điểm nghiên cứu 21
2.4. Phương pháp nghiên cứu 21
2.4.1. Trong phòng thí nghiệm 22
2.4.2. Tại thực địa 31
2.5. Tác dụng không mong muốn của hóa chất và khả năng chấp nhận của
cộng đồng 41



Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 43
3.1. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm 43
3.1.1. Mức nhạy cảm của muỗi An. dirus chủng phòng thí nghiệm với các hóa chất
nhóm pyrethroid 44
3.1.2. Xác định hiệu lực xua diệt của các mẫu hóa chất trong buồng thử Glass
Chamber 45
3.1.3. Hiệu lực diệt tồn lưu của các mẫu hóa chất đối với màn và tường vách trong
điều kiện phòng thí nghiệm 46
3.1.4. Đánh giá tác dụng không mong muốn trong phòng thí nghiệm 50
3.2. Nghiên cứu tại thực địa 51
3.2.1. Mức nhạy cảm của muỗi An. epiroticus chủng thực địa với các hóa chất nhóm
pyrethroid 52
3.2.2. Đánh giá hiệu lực tồn lưu trên tường vách với muỗi An. epiroticus 53
3.2.3. Hiệu lực tồn lưu của hóa chất trên màn tẩm với An. epiroticus 54
3.2.4. Đánh giá hiệu lực của biện pháp phòng chống trước và sau khi tẩm 1 tháng 56
3.2.5. Đánh giá các thử nghiệm trong nhà bẫy 58
3.2.6. Kết quả đánh giá tác dụng không mong muốn của người tiếp xúc trực
tiếp với các mẫu hóa chất 66
3.2.7. Đánh giá khả năng chấp nhận của cộng đồng khi sử dụng các mẫu hóa
chất để phun và tẩm màn 66
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

CS: Dạng huyền phù trong viên nang (Capsule Suspension)

DDT: Diclo Diphenyl Tricloetal
DEET: N,N-diethyl-m-toluamide
ĐC: Đối chứng
EC: Dạng nhũ dầu (Emulsifiable Concentrates)
KST: Ký sinh trùng
KSTSR: Ký sinh trùng sốt rét
PTN: Phòng thí nghiệm
PC: Phòng chống
PCSR: Phòng chống sốt rét
sl.: theo nghĩa rộng (sensu lato)
ss.: theo nghĩa hẹp (sensu stricto)
SC: Dạng huyền phù đậm đặc (Suspension Concentrate)
SR: Sốt rét
TN: Thí nghiệm
WHO: Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization)
WHOPES: Hệ thống đánh giá hóa chất của WHO

(World Health Orgnization Pesticide Evaluation Scheme)
WP: Dạng dễ tan trong nước (Wettable Powder)


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Một số hóa chất sử dụng để tẩm màn và phun tồn lưu ở Việt Nam . 7
Bảng 2.1. Các mẫu hỗn hợp đã được pha để thử nghiệm 23
Bảng 2.2. Lượng hóa chất và lượng nước để pha dung dịch tẩm màn cho 1 m
2
màn
và 1 màn đôi (16,5 m
2

). 23
Bảng 2.3. Lượng hóa chất và lượng nước để pha dung dịch phun 200 m
2
và 50 m
2

tường 24
Bảng 2.4. Quy trình luân chuyển các loại màn và nhóm người ngủ 38
Bảng 2.5. Quy trình luân chuyển các loại tường và nhóm người ngủ 39
Bảng 3.1. Kết quả đánh giá mức độ nhạy cảm của An. dirus với Alphacypermethrin
30 mg/m
2
và Lambdacyhalothrin 0,05% tại phòng thí nghiệm 44
Bảng 3.2. Thời gian ngã gục KT
50
và KT
90
trong buồng thử Glass Chamber với
muỗi An. dirus (chủng PTN) 45
Bảng 3.3. Hiệu lực tồn lưu của các mẫu tường phun với muỗi An. dirus tại phòng thí
nghiệm 47
Bảng 3.4. Hiệu lực tồn lưu của các mẫu màn tẩm với An. dirus trong phòng thí nghiệm 49
Bảng 3.5. Kết quả đánh giá mức độ nhạy cảm của An. epiroticus với
Alphacypermethrin 30 mg/m
2
và Lambdacyhalothrin 0,05% 52
Bảng 3.6. Hiệu lực tồn lưu của hóa chất trên tường với An. epiroticus 53
Bảng 3.7. Hiệu lực tồn lưu của các mẫu màn tẩm với An. epiroticus 55
Bảng 3.8. Mật độ muỗi An. epiroticus tại các điểm tẩm màn, điều tra bằng phương
pháp mồi người ban đêm 57

Bảng 3.9. Mật độ muỗi An. epiroticus tại các điểm phun tồn lưu, điều tra bằng
phương pháp mồi người ban đêm 58
Bảng 3.10. Tỷ lệ (%) muỗi chết và muỗi sống được thả - bắt lại trong nhà bẫy 59
Bảng 3.11. Số lượng An. epiroticus bắt được (6 đêm) trong từng nhà bẫy trước khi
thử nghiệm 59


Bảng 3.12. Hiệu lực ngăn cản muỗi An. epiroticus trong 3 nhà bẫy sử dụng các loại
màn tẩm khác nhau 60
Bảng 3.13. Tỷ lệ (%) muỗi An. epiroticus bay ra ngoài ở các nhà bẫy sử dụng các
loại màn khác nhau 61
Bảng 3.14. Hiệu lực ức chế đốt máu và hiệu lực bảo vệ cá nhân đối với muỗi An.
epiroticus trong các nhà bẫy sử dụng các loại màn khác nhau 62
Bảng 3.15. Hiệu lực diệt đối với An. epiroticus trong các nhà bẫy sử dụng các loại
màn khác nhau 63
Bảng 3.16. Số lượng An. epiroticus bắt được trong 3 nhà bẫy sử dụng các loại tường
khác nhau 64
Bảng 3.17. Tỷ lệ (%) muỗi An. epiroticus bay ra ngoài ở các nhà bẫy sử dụng các
loại tường khác nhau 64
Bảng 3.18. Hiệu lực ức chế đốt máu và bảo vệ cá nhân đối với An. epiroticus trong
các nhà bẫy sử dụng các loại tường khác nhau 65
Bảng 3.19. Hiệu lực diệt đối với muỗi An. epiroticus trong các nhà bẫy sử dụng các
loại tường khác nhau 65



DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1. Toàn cảnh nhà bẫy muỗi ở xã An Trạch, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu
34

Hình 2.2. Cấu tạo nhà bẫy 35
Hình 2.3. Mô hình cấu tạo chi tiết nhà bẫy 35
Hình 3.1. Biến đổi tỷ lệ % muỗi An. dirus chết của các mẫu tường phun hóa chất tại
phòng thí nghiệm 47
Hình 3.2. Biến đổi tỷ lệ % muỗi An. dirus chết của các mẫu màn tẩm hóa chất trong
phòng thí nghiệm Error! Bookmark not defined.
Hình 3.3. Biến đổi tỷ lệ % muỗi An. epiroticus chết của các tường phun hóa chất . 54
Hình 3.4. Biến đổi tỷ lệ % muỗi An. epiroticus chết trên các màn tẩm hóa chất 56

1

MỞ ĐẦU
Bệnh sốt rét (SR) là bệnh nguy hiểm do ký sinh trùng (KST) Plasmodium ở
người gây ra. Anopheles là véc-tơ truyền bệnh. Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
hiện nay khoảng 40% dân số trên thế giới có nguy cơ mắc bệnh sốt rét. Ước tính
năm 2013 trên toàn cầu có khoảng 207 triệu ca mắc sốt rét và có 627.000 người chết
nhất là trẻ em tại Châu Phi [63]. Cho đến hiện nay, bệnh sốt rét chưa có vắc xin dự
phòng, do đó, phòng chống véc-tơ là một phần quan trọng trong chiến lược phòng
chống SR toàn cầu của WHO với mục tiêu chính là cắt đứt sự lan truyền KST.
Hiện nay các biện pháp được áp dụng nhiều nhất và hiệu quả nhất để phòng
chống véc-tơ là sử dụng hóa chất diệt côn trùng để phun tồn lưu hay tẩm vào màn,
rèm. Đã có rất nhiều các loại hóa chất khác nhau được sử dụng dưới các hình thức
khác nhau, chẳng hạn như nhóm clo hữu cơ (Diclo Diphenyl Tricloetal - DDT),
nhóm cacbamat, nhóm photpho hữu cơ. Tuy nhiên, sau một thời gian sử dụng, một
số véc-tơ đã kháng với các hóa chất này. Mặt khác, các hóa chất này hoặc tồn lưu
quá lâu trong môi trường, trong cơ thể sinh vật hoặc có độc tính cao, có mùi khó
chịu nên ít được cộng đồng chấp nhận. Những năm gần đây, việc sử dụng một số
hóa chất nhóm pyrethroid thay thế các hóa chất diệt côn trùng nhóm clo hữu cơ,
nhóm cacbamat, nhóm photpho hữu cơ đã mở ra một hướng mới cho công tác
phòng chống véc-tơ. Nhờ tính ưu việt của các hóa chất nhóm pyrethroid thế hệ mới

có độc tính thấp với động vật máu nóng, có tác dụng ức chế thần kinh côn trùng
mạnh, có khả năng diệt côn trùng cao với liều rất nhỏ nên chúng đã được sử dụng
trong phòng chống véc-tơ và đã đạt được kết quả khả quan.
Song sau nhiều năm sử dụng các hóa chất nhóm pyrethroid đã xuất hiện
những loài muỗi tăng khả năng thích ứng với hóa chất, tăng sức chịu đựng, có loài
đã kháng dẫn đến làm giảm hiệu lực diệt muỗi gây khó khăn cho công tác phòng
chống véc-tơ.
Gần đây, trên thế giới, một trong những nghiên cứu mới là sử dụng phối hợp
các hóa chất với nhau nhằm tăng khả năng diệt muỗi, khắc phục tình trạng muỗi có
dấu hiệu kháng hóa chất hoặc tăng sức chịu đựng với hóa chất [63].
2

Anopheles epiroticus là véc-tơ chính truyền bệnh SR ở vùng ven biển Nam Bộ.
Trong những nghiên cứu gần đây của Hồ Đình Trung và Vũ Đức Chính nhận thấy
An. epiroticus đã kháng với hóa chất thuộc nhóm pyrethroid [4].
Nghiên cứu, lựa chọn hóa chất phù hợp, đáp ứng đúng với thực tế để nâng cao
hiệu quả phòng chống An. epiroticus kháng hóa chất là việc làm cấp thiết có ý nghĩa
thực tiễn, phù hợp với mục tiêu của chương trình Quốc gia phòng chống SR. Vì vậy
chúng tôi đã tiến hành đề tài “Nghiên cứu phối hợp một số hóa chất nhóm
pyrethroid để phòng chống muỗi Anopheles epiroticus Linton & Harbach, 2005
đã kháng hóa chất diệt côn trùng” với mục tiêu:
1. Xác định liều phối hợp một số hóa chất nhóm pyrethroid có hiệu lực diệt muỗi tối
ưu trong phòng thí nghiệm.
2. Đánh giá hiệu lực phòng chống muỗi Anopheles epiroticus đã kháng hóa chất diệt
côn trùng của mẫu hóa chất phối hợp tối ưu nhất tại thực địa.
3. Đánh giá tác dụng không mong muốn của hóa chất khảo nghiệm đối với người
tiếp xúc trực tiếp với hóa chất và khả năng chấp nhận của cộng đồng.

3


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các véc-tơ truyền bệnh sốt rét
Họ muỗi Culicidae có khoảng 3500 loài, được chia thành 3 phân họ:
Toxorhynchitinae, Culicinae, Anophelinae. Phân họ Anophelinae được chia thành 3
giống: Bironella, Chagasia và Anopheles. Các loài muỗi có khả năng truyền bệnh
SR gọi là véc-tơ SR đều thuộc giống Anopheles.
Trên thế giới đã phát hiện được khoảng 420 loài Anopheles khác nhau, trong
đó có khoảng 70 loài có khả năng truyền bệnh sốt rét ở người và chỉ có khoảng 30
loài là véc-tơ truyền bệnh chính (White, 1982) [53]. Do các đặc điểm về địa lý, khí
hậu và sinh thái của muỗi mà ở mỗi vùng, mỗi quốc gia có các loài truyền SR chính
khác nhau. Ở Châu Phi, véc-tơ truyền SR chính là An. gambiae, An. funestus, An.
arabiensis; ở Trung Mỹ có An. albimanus; ở Đông Nam Á có An. dirus, An.
minimus, An. sundaicus, An. maculatus
Ở Việt Nam, đã xác định 3 loài véc-tơ SR chính, đó là: An. minimus, An.
dirus, An. epiroticus (trước đây gọi là An. sundaicus). Trong đó, An. epiroticus là
đối tượng nghiên cứu chính của đề tài này.
1.1.1. Vị trí phân loại của muỗi Anopheles epiroticus Linton & Harbach, 2005
Giới: Động vật (Animalia)
Ngành: Chân đốt (Arthropoda)
Lớp: Côn trùng (Insecta)
Bộ: Hai cánh (Diptera)
Họ: Muỗi (Culicidae)
Phân họ: Anophelinae
Giống: Anopheles
Phân giống: Cellia
Loài: Anopheles epiroticus Linton & Harbach, 2005
1.1.2. Phân bố của muỗi Anopheles epiroticus Linton & Harbach, 2005
An. epiroticus ss. là một loài trong phức hợp loài An. sundaicus mới được
định tên từ An. sundaicus dạng A [46]. Một số nhà nghiên cứu cho rằng có 3 dạng

4

An. sundaicus (A, B, C) [50]. Một số nghiên cứu dựa trên phân tích, so sánh sự sai
khác về isoenzym, nhiễm sắc thể, ổ bọ gậy, tập tính trú đậu, tìm mồi giữa các loài
và đưa ra kết luận có ít nhất 4 loài trong nhóm này [33,34].
Trước khi loài mới An. epiroticus được công bố (2005), Dusfour Isabelle
(2004) đã vẽ bản đồ phân bố phức hợp An. sundaicus thấy rằng chúng có mặt ở các
vùng ven biển, đảo Nam Á và Đông Nam Á. Cụ thể là từ ven biển phía đông bắc Ấn
Độ tới miền nam Việt Nam, tới các đảo của Indonesia. Loài A và B có phân bố
rộng, còn loài C chỉ có ở phía bắc đảo Sumatra (Indonesia), loài E chỉ có ở
Indonesia. Loài D được xác định có phân bố ở đảo Nicobar của Ấn Độ [33,50].
Các nghiên cứu gần đây cho thấy An. epiroticus có phân bố ở các nước Đông
Nam Á từ Mianma, Thái Lan, bán đảo Malaysia, Campuchia và Việt Nam. Ở Việt
Nam, An. epiroticus chỉ thấy ở vùng ven biển từ vĩ độ 10
0
56’ (tỉnh Bình Thuận) trở
vào phía Nam. An. epiroticus phân bố gắn liền với các thủy vực nước lợ ven biển có
thực vật thủy sinh [38], đẻ ở các thủy vực nước đứng có độ mặn từ 3 %
0
đến 28 %
0
,
độ mặn thích hợp nhất của loài này khoảng 7%
0
[8].
1.1.3. Vai trò truyền bệnh
An. epiroticus được coi là véc-tơ SR chính ở vùng đồng bằng ven biển
Campuchia, Việt Nam, bán đảo Malaysia và được coi là véc-tơ phụ ở Thái Lan [33].
Nói chung, không có nhiều tài liệu ghi nhận về tỷ lệ nhiễm thoa trùng của An.
epiroticus nhưng trước đây có bằng chứng về tỷ lệ nhiễm thoa trùng ở An.

sundaicus, chẳng hạn ở Banglades là 4,3% (Nasiruddin, 1952). Theo Fryauff và cs
(2002) ở đảo Nias phía tây Sumatra, Indonesia An. sundaicus nhiễm thoa trùng
Plasmodium vivax là 1,2% [36].
An. epiroticus hút máu cả người và gia súc, tỷ lệ hút máu người và gia súc ở
các vùng khác nhau cũng khác nhau. Một số nghiên cứu ở miền Nam Việt Nam
thấy An. epiroticus thích đốt người hơn gia súc [6]. Nhìn chung hoạt động tìm mồi
của An. epiroticus diễn ra suốt đêm nhưng đỉnh đốt mồi thay đổi theo từng địa
phương. Tỷ lệ nhiễm thoa trùng của An. epiroticus ở miền Nam Việt Nam năm
1961 là 2,9%, năm 1975 là 2,7% [16]. Trong những năm gần đây, tuy không thấy
5

muỗi nhiễm trùng nhưng mật độ đốt người trung bình của An. epiroticus rất cao
(trung bình 12,8 con/giờ/người) [31] cho thấy mức độ nguy hiểm của loài này nếu
như ở đây có mầm bệnh. Như vậy tuy An. epiroticus đã được xác định là véc-tơ
chính truyền SR vùng ven biển Nam bộ nhưng hiện nay vai trò truyền SR của An.
epiroticus không thể hiện một cách rõ ràng [6].
1.2. Các biện pháp phòng chống véc-tơ sốt rét
Có thể phân loại các biện pháp PC véc-tơ thành 3 loại theo cách sử dụng là
vật lý-môi trường, sinh học và hóa học.
1.2.1. Các biện pháp vật lý và môi trường
Các biện pháp vật lý có từ cổ xưa đơn giản để xua, diệt, ngăn muỗi tiếp xúc
đốt người dưới các hình thức cơ học như đập, xua bằng cành lá, hun khói, đóng kín
cửa, mặc quần áo dài hoặc sử dụng lưới chống muỗi cho cửa nhà ở, nằm màn
tránh muỗi đốt; trong những năm gần đây là vợt tích điện, bẫy đèn Ngoài ra, còn
phải kể đến các biện pháp cải tạo môi trường như phát quang bụi rậm, khơi thông
cống rãnh, đổ dầu, thả hạt xốp, bèo che mặt nước [22].
1.2.2. Các biện pháp sinh học
Các biện pháp sinh học phòng chống véc-tơ SR thực hiện bằng cách đưa vào
môi trường sống của chúng những kẻ thù tự nhiên, chẳng hạn các sinh vật gây hại
hoặc động vật ăn thịt. Có thể kể đến biện pháp sử dụng cá ăn bọ gậy hoặc cá ăn

rong, cỏ phá ổ đẻ của muỗi, nơi trú ẩn của bọ gậy [22]. Một số nghiên cứu và ứng
dụng vi khuẩn Bacillus có khả năng tiết độc tố, khi bọ gậy ăn phải sẽ bị chết. Một số
tác giả khác nghiên cứu biện pháp diệt muỗi An. gambiae ở Châu Phi bằng cách
phun lên tường vách bào tử của một số chủng nấm ký sinh như Metarhizium
anisopliae hay Beauveria bassiana để gây bệnh cho muỗi, kết quả thu được là hơn
90% muỗi chết trước khi thoa trùng phát triển đến giai đoạn chín trong tuyến nước
bọt của muỗi [49].
Những nghiên cứu về thay đổi bộ gen ở muỗi như gây bất thụ hoặc làm giảm
khả năng dung nạp hay kháng KST SR cũng đã được tiến hành. Chẳng hạn như sử
dụng thực khuẩn thể piggyBac chuyển gen có tên là AgCP[SM1]4 vào muỗi làm
6

chúng tổng hợp protein [SM1]4 chống lại KST, do đó làm mất khả năng tiếp nhận
KST của các tế bào biểu mô dạ dày muỗi [44].
1.2.3. Các biện pháp hóa học
Là biện pháp sử dụng các hóa chất tự nhiên hoặc tổng hợp tác động làm giảm
hoặc tiêu diệt muỗi, có thể được sử dụng để phòng chống muỗi trưởng thành hoặc
diệt bọ gậy. Các biện pháp hóa học chủ yếu được sử dụng để phòng chống muỗi
trưởng thành là phun tồn lưu, tẩm màn, hương xua, kem xua; đối với bọ gậy là sử
dụng hóa chất thả xuống các nguồn nước – nơi sinh sống của chúng để tiêu diệt.
Các biện pháp hóa học phòng chống muỗi trưởng thành đã chứng tỏ hiệu quả
và đã góp phần to lớn cho thành công của Chương trình PCSR ở nước ta. Một số
nhóm hóa chất đã được sử dụng để PC véc-tơ SR bao gồm clo hữu cơ, phốt pho hữu
cơ, cacbamat, pyrethroid. Hiện nay, các hóa chất nhóm pyrethroid đang được sử
dụng rộng rãi nhất với 2 hình thức áp dụng chủ yếu là phun tồn lưu trên tường vách
và tẩm màn. Một số hóa chất không độc với môi trường nhưng cũng có thể diệt
được bọ gậy như Agnique MMF (mono molecular film) [8], dựa trên nguyên lý làm
giảm sức căng bề mặt nước làm cho bọ gậy không thể nổi trên mặt nước để thở
được và sẽ bị chết do thiếu ôxy.
1.2.3.1. Biện pháp phun tồn lưu

Phun tồn lưu hóa chất trên tường vách có tác dụng PC muỗi cao vì hóa chất
có khả năng gây độc cho muỗi bằng con đường tiếp xúc. Hầu hết các loài muỗi sau
khi bay vào nhà tìm mồi đều có một khoảng thời gian đậu rình mồi trong nhà trước
khi đốt mồi hoặc nghỉ sau khi đốt máu trước khi bay ra khỏi nhà. Một số loài muỗi
đậu trong nhà trong suốt thời gian tiêu máu và phát triển trứng. Khi đậu trên tường
vách đã được phun hóa chất, chân muỗi tiếp xúc với hóa chất và muỗi bị ngộ độc.
1.2.3.2. Biện pháp tẩm màn
Tác động của màn tẩm là xua và ngăn không cho muỗi hút máu người, tất
cả mọi người dùng màn đều được bảo vệ, thậm chí cả khi tỷ lệ phủ màn thấp.
Màn tẩm hóa chất sẽ có tác dụng diệt chết hoặc xua đuổi muỗi bay đi, không vào
7

màn đốt người được. Màn tẩm hóa chất theo liều quy định sẽ không độc hại đối
với sức khỏe người.
Bảng 1.1. Một số hóa chất sử dụng để tẩm màn và phun tồn lưu ở Việt Nam
Năm Tên hóa chất Dạng
hóa chất
Nồng độ Ứng dụng
1997-
2001
Permethrin EC 500g/l Tẩm màn
Lambdacyhalothrin WP 100g/kg Phun tồn lưu

2002-
2006
Alphacypermethrin SC 100g/l Tẩm màn+ phun tồn lưu
Lambdacyhalothrin WP 100g/kg Phun tồn lưu
Lambdacyhalothrin CS 25g/l Tẩm màn



2007-
nay
Alphacypermethrin SC 100g/l Tẩm màn + phun tồn lưu
Lambdacyhalothrin WP 100g/kg Phun tồn lưu
Lambdacyhalothrin CS 25g/l Tẩm màn
Lambdacyhalothrin CS 100g/l Tẩm màn+ phun tồn lưu

Nguồn: Lê Xuân Hùng, Nguyễn Mạnh Hùng, 2010 [10].
1.2.3.3. Các biện pháp sử dụng hóa chất khác
Ngoài phun tồn lưu hóa chất trên tường vách trong nhà và tẩm màn với hóa
chất, một số biện pháp khác cũng được nghiên cứu và áp dụng như tẩm rèm, tẩm khăn
choàng, tẩm tấm đắp, bình xịt, hương muỗi, kem xua diệt muỗi Các hình thức này
thông thường chỉ áp dụng cho địa phương hay cá nhân có điều kiện đặc thù. Chẳng hạn
tấm choàng, tấm đắp có thể áp dụng cho những người làm việc đêm trong rừng hay
lính chiến. Sử dụng bình xịt, kem xoa, chỉ có tác dụng xua muỗi tức thời khi làm việc
ngoài trời. Hương xua, diệt muỗi chủ yếu ở trong nhà buổi tối trước khi đi ngủ. Một
hướng nghiên cứu khác sử dụng mồi bả diệt muỗi, tuy nhiên kết quả cho thấy hiệu quả
chủ yếu với giống Culex còn với giống Anopheles và Aedes rất hạn chế [17].
1.3. Tình hình kháng và cơ chế kháng của véc-tơ sốt rét với hóa chất diệt côn trùng
1.3.1. Định nghĩa kháng hóa chất
Theo Tổ chức Y tế Thế giới “kháng hóa chất diệt côn trùng là sự phát triển khả
năng sống sót của một số cá thể sau khi tiếp xúc với nồng độ nào đó của một hóa chất
8

mà với nồng độ đó đa số các cá thể trong một quần thể bình thường của loài đó sẽ bị
chết” [35]. Khả năng phát triển kháng phụ thuộc vào các yếu tố sinh học, sinh thái học
của côn trùng, mức độ trao đổi dòng gen giữa các quần thể, độ bền của hóa chất và
cường độ sử dụng hóa chất bao gồm liều lượng và thời gian [39].
1.3.2. Tình hình kháng hóa chất của véc-tơ sốt rét
Trên thế giới, thống kê tới năm 1988, đã có 504 loài côn trùng và ve bét

kháng với một hoặc nhiều nhóm hóa chất. Trong số các loài này có khoảng 60% là
côn trùng nông nghiệp, còn 40% là côn trùng y học và KST thú y [43].
Đối với muỗi, lần đầu tiên vào năm 1947, Culex tritaeniorhynchus và Aedes
solicitans được thông báo đã kháng DDT. Năm 1976, WHO thông báo có 43 loài
muỗi kháng DDT, năm 1986 tăng lên 51 loài, trong đó 34 loài là véc-tơ SR [15].
Năm 1991 đã phát hiện 55 loài muỗi kháng hóa chất, trong đó có 53 loài kháng
DDT, 27 loài kháng photpho hữu cơ, 17 loài kháng cacbamat, 10 loài kháng
pyrethroid tổng hợp y [43]. Năm 1992, WHO đã công bố 72 loài muỗi kháng hóa
chất, trong đó có 69 loài kháng DDT, 38 loài kháng photpho hữu cơ, 17 loài kháng
cả ba loại trên. Sự kháng hóa chất của muỗi ngày càng tăng cả về số lượng loài,
mức độ và kháng chéo với nhiều hóa chất. Đến năm 2000 đã có khoảng 100 loài
muỗi kháng hóa chất trong đó có hơn 50 loài Anopheles [39].
An. gambiae là véc-tơ sốt rét chính ở Châu Phi đã xuất hiện đột biến gen Kdr
kháng hóa chất nhóm pyrethroid. Kiểu gen kháng lan rộng tới các nước vùng Đông,
Tây Phi như Bờ Biển Ngà, Burkina Fasso và Mali. Đột biến gen kháng Kdr xuất hiện ở
nhiều loài Anopheles khác như An. albimanus ở Trung Mỹ, An. stephensi ở vùng vịnh,
An. sacharovi ở Thổ Nhĩ Kỳ, An. culicifacies ở Ấn Độ, hoặc An. epiroticus ở Châu Á.
Muỗi sốt rét kháng hóa chất, KSTSR kháng thuốc điều trị đang là một thách thức lớn
cho công tác chống sốt rét ở nhiều nước hiện nay [25, 28, 31, 41].
Kháng pyrethroid đã được chứng minh ở 1 số loài véc-tơ SR ở Thái Lan
(Chareonviriyaphap và cộng sự, 2002). Phát triển tính kháng với pyrethroid xuất
hiện trong một quần thể An.minimus A ở bắc Thái Lan sau một năm đưa nhóm
9

pyrethroid vào chương trình phòng chống véc-tơ SR (Chareonviriyaphap và cộng
sự, 1999) [20].
Các công trình nghiên cứu ở Đông Nam Á cho thấy An. epiroticus đã kháng
với hóa chất diệt như Permethrin, Kothrin, Lambda-cyhalothrin, Deltamethrin và
An. minimus tăng sức chịu đựng với nhóm pyrethroid ở Thái Lan (Annual malaria
report, 2000)

Ở Việt Nam, một số kết quả nghiên cứu về mức độ nhạy cảm với hóa chất
diệt côn trùng của các loài muỗi Anopheles cũng đã được công bố.
Lương Trường Sơn và cộng sự đã nghiên cứu giám sát sự nhạy, kháng của
An. epiroticus trong nhiều năm (2002-2011) tại khu vực miền Tây Nam Bộ cho thấy
muỗi An. epiroticus đã tăng sức chịu đựng và kháng với hóa chất thuộc nhóm
pyrethroid sử dụng trong chương trình phòng chống sốt rét [19].
Vũ Đức Chính (2011) cho biết tình trạng kháng hóa chất nhóm pyrethroid
của An. epiroticus miền Tây Nam Bộ đã lan rộng trong toàn vùng và không còn
điểm nào còn nhạy cảm [5].
Khi một quần thể muỗi nào đó kháng với nhiều nhóm hóa chất thì việc lựa
chọn biện pháp phòng chống trở nên rất khó khăn vì đây là biện pháp chính được áp
dụng để PC véc-tơ hiện nay. Kháng hóa chất của véc-tơ SR là vấn đề lớn, trầm
trọng và có tính phổ biến trên toàn cầu mà WHO và các chương trình quốc gia
PCSR phải đương đầu. Chính vì thế nghiên cứu chiến lược sử dụng hóa chất trong
đó có phối hợp các hóa chất diệt côn trùng là hướng nghiên cứu quan trọng để nâng
cao hiệu quả công tác PC véc-tơ SR.
1.3.3. Cơ chế kháng hóa chất diệt côn trùng
Các hóa chất có thể xâm nhập vào cơ thể muỗi bằng nhiều cách và ảnh hưởng
đến sự sống sót của chúng ở mức độ khác nhau. Dựa vào khả năng hóa chất bị phân
giải trực tiếp hay không khi tác động lên cơ thể muỗi để chia ra các loại cơ chế [5]:
- Giảm thẩm thấu của hóa chất diệt.
- Thay đổi trong quá trình trao đổi chất.
- Kháng do biến đổi vị trí đích.
10

- Kháng tập tính.
Kháng giảm thẩm thấu của hóa chất diệt
Kháng giảm thẩm thấu hóa chất diệt là cơ chế mà trong đó hóa chất diệt
không bị phân hủy trực tiếp, song tính kháng hình thành là do giảm khả năng thấm.
Nhiều loại hoá chất diệt côn trùng thâm nhập vào cơ thể côn trùng qua lớp biểu bì.

Những thay đổi của lớp biểu bì của côn trùng làm giảm tốc độ thẩm thấu của hoá
chất diệt côn trùng gây nên sự kháng đối với một số hoá chất diệt. Đơn thuần tính
thấm giảm chỉ gây ra sự kháng ở mức độ thấp [5].
Cơ chế này hiếm khi được đề cập tới, nó thường được coi là thứ yếu thậm chí
không được nhắc tới ở muỗi. Tuy nhiên, nếu phối hợp với các cơ chế kháng khác,
nó có thể tạo nên sự kháng cao. Cơ chế này hầu hết được phát hiện qua các nghiên
cứu tính thấm sử dụng hoá chất diệt đánh dấu.
Kháng do thay đổi trong quá trình trao đổi chất
Đây là một trong những cơ chế kháng quan trọng. Một nhóm nhỏ các enzym
hoặc họ các enzym có liên quan trong tính kháng trao đổi chất. Sự kháng là kết quả
của sự thay đổi về mặt cấu trúc enzym làm tăng khả năng giải độc của nó và/hoặc
sự tăng số lượng enzym nhằm tăng cường sự đào thải độc tố của hoá chất diệt côn
trùng. Các phân tử hóa chất sau khi thâm nhập vào cơ thể, dưới tác dụng của các
enzym trong cơ thể muỗi sẽ phân hủy chúng theo nhiều con đường khác nhau như:
oxy hóa, thủy phân, hydro hóa, khử clo, ankyl hóa trở thành chất không độc. Các
hệ thống enzym: esterase, glutathione-S.transferase và cytochrome 450,
monooxygenase nhìn chung được coi là các hệ thống giải độc chủ yếu của các hóa
chất diệt côn trùng ở côn trùng [5] tương ứng với các nhóm hóa chất clo hữu cơ,
phốtpho hữu cơ, cacbamat và pyrethroid.
Kháng do biến đổi vị trí đích
Sự kháng này gây ra bởi sự biến đổi vị trí đích tác động của hoá chất diệt côn
trùng.
11

Vị trí đích là kênh vận chuyển cổng điện thế Na của màng thần kinh. Các vị
trí đích khác nhau của các hóa chất diệt côn trùng gây độc thần kinh là thụ thể cổng
phối tử axit γ-aminobutyric (GABA) và thụ thể acetylcholine nicotin (nAchR).
Kháng tập tính
Những thay đổi tập tính thông qua việc giảm tiếp xúc với hoá chất diệt có thể
làm tăng khả năng sống sót của côn trùng. Những thay đổi bao gồm sự giảm xu

hướng bay vào vùng sử dụng hoá chất hay tránh xa khỏi bề mặt có hoá chất khi việc
tiếp xúc xảy ra. Tuy nhiên, sự kháng này cũng hiếm khi được đề cập đến và giống
như hậu quả thay đổi gây ra trực tiếp bởi sự có mặt của hoá chất diệt côn trùng hoặc
do những con muỗi sống trong nhà của quần thể muỗi bị tiêu diệt.
1.4. Các nghiên cứu về hóa chất nhóm pyrethroid
Pyrethroid tổng hợp là dẫn xuất của este cacboxylat (còn gọi là este
pyrethrum hoặc este pyrethrin) có ngồn gốc tự nhiên từ cây hoa cúc họ
Chrysanthemum cineraiefolium và C. roseum, chứa nhiều hoạt chất pyrethrin có độc
tính cao đối với côn trùng nhưng có độc tính thấp với động vật máu nóng [1].
Đặc tính chung của các chất nhóm pyrethroid:
+ Có tác dụng chọn lọc cao, diệt được các loại côn trùng kháng clo hữu cơ,
photpho hữu cơ và cacbamat.
+ Hòa tan nhanh trong lipit và lipoprotein nên tác dụng tiếp xúc gây ngã gục
nhanh và một số còn có tác dụng xua.
+ Độ độc cấp tính đối với người và động vật máu nóng thấp, nhanh chóng
phân hủy trong cơ thể sống và trong môi trường nhưng rất độc với cá và động vật
thủy sinh khác.
Dưới đây là một số pyrethroid đã và đang sử dụng trong phòng chống véc-tơ
SR ở Việt Nam:
 Alphacypermethrin
Alphacypermethrin còn có tên khác là Alfamethrin, Alphamethrin. Công thức
phân tử là C
22
H
19
Cl
2
NO
3
, phân tử lượng là 416 đơn vị cácbon.

12

Trên thị trường Alphacypermethrin được sản xuất với các tên thương phẩm khác
nhau như: Fendona 10SC (CYANAMID), Fastac (SHELL); Dominex và Bestox
(FMC).
Hoạt chất Alphacypermethrin nguyên chất ở dạng tinh thể, có màu trắng
nhạt, mùi nhẹ. Alphacypermethrin có tác dụng gây độc tiếp xúc, ức chế thần kinh
trung ương và ngoại vi với liều rất nhỏ, có phổ diệt côn trùng rộng đối với côn trùng
miệng nhai và chích hút…
 Lambdacyhalothrin
Lambdacyhalothrin còn có tên thương phẩm khác là Karate, PP321, Icon. Công
thức phân tử là C
23
H
19
ClF
3
NO
3
, phân tử lượng là 449,9 đơn vị cácbon.
Lambdacyhalothrin là chất rắn, không màu; dạng kỹ thuật (90%) ở thể dầu, màu
đỏ nâu và thường được sản xuất dưới dạng huyền phù (CS), dạng bột dễ tan trong
nước (WP), dạng nhũ dầu (EC) tùy theo mục đích sử dụng. Ngoài ra còn được sản
xuất dưới dạng hỗn hợp với Dimethoate, Tetramethrin, Pirimicarb.
Lambdacyhalothrin có tác dụng diệt tiếp xúc cao, được sản xuất dưới dạng chế
phẩm Icon 2,5CS để tẩm màn và Icon 10WP để phun tồn lưu trên tường. Cả 2 dạng
sản phẩm đều có tác dụng diệt muỗi Anopheles cao và có tác dụng diệt tồn lưu lâu
dài [52].
 Deltamethrin
Deltamethrin còn có tên khác là Decis, Decamethrin, Cislin, K-Othrin. Công

thức phân tử là C
22
H
19
Br
2
NO
3
, phân tử lượng là 505,2 đơn vị cácbon.
Deltamethrin có tác dụng diệt theo đường tiếp xúc và tiêu hóa. Trong y tế,
deltamethrin được sản xuất dưới dạng K-Othrin 2,5SC, 2,5WP, 2,5EC để tẩm màn,
phun tồn lưu trên tường hay phun không gian có tác dụng diệt muỗi. Deltamethrin
có độc tính cao đối với côn trùng và một số động vật máu lạnh, nhưng có tính độc
thấp với động vật máu nóng, vì vậy hệ số sử dụng an toàn cao [52].
 Permethrin
13

Permethrin còn có tên khác là Perthrin, Ambush, Coopex, Ectiban,
Imperator, Outflank. Công thức phân tử là C
22
H
20
Cl
2
O
3
, phân tử lượng là 391,3 đơn
vị cácbon.
Permethrin thành phẩm được chế thành nhiều dạng khác nhau như dạng nhũ
dầu (EC), dạng xông hơi aerosol… Ngoài ra còn được sản xuất dưới dạng hỗn hợp

với Dimethoat, Thiram, Pyrethrin, Malathion, Tetramethrin, Biollethrin +
Piperonylbutoxit [52].
 Etofenprox
Etofenprox còn có tên khác là Vectron, Trebon. Công thức phân tử là
C
25
H
46
O
3
. Chất này có tác dụng diệt côn trùng qua đường tiếp xúc, phổ diệt côn
trùng rộng, được sử dụng nhiều trong nông nghiệp và trong y tế. Độ độc của
Etofenprox với động vật máu nóng rất thấp.
Các chế phẩm dùng để phun tồn lưu như Vectron 20WP, Trebon 10WP; để
phun sương như Vectron 30ULV, tẩm màn như Vectron 10EC; vừa để phun tồn lưu
vừa để tẩm màn như Vectron 10EW. Các chế phẩm có hiệu lực diệt tồn lưu trên
vách gỗ, nứa từ 6 đến 10 tháng, trên màn từ 5 đến 6 tháng [52].
1.4.1. Tình hình nghiên cứu hóa chất pyrethroid trên thế giới
Để phòng chống các loài côn trùng có hại, việc sử dụng các hóa chất diệt là
một trong những biện pháp quan trọng, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu ứng
dụng các hóa chất nhóm pyrethroid để tẩm màn, phun tồn lưu cho thấy đạt hiệu quả
cao trong phòng chống côn trùng truyền bệnh, góp phần giảm tỷ lệ mắc sốt rét.
Màn tẩm hóa chất diệt được xác định là có tác dụng nhanh, an toàn và có độc
tính thấp đối với người. Hàng rào bảo vệ bằng hóa chất do màn cung cấp được thêm
vào hàng rào vật lý (màn thường) thường không được bảo vệ hoàn toàn. Màn tẩm
hóa chất có thể được xem là mồi bẫy muỗi nhờ mùi cơ thể người nằm màn.
Từ năm 1992 hóa chất tổng hợp nhóm pyrethroid đã được dùng như hóa chất
diệt côn trùng chủ yếu trong cả lĩnh vực nông nghiệp và y tế công cộng. Vào mùa
dịch, các hóa chất Deltamethrin, Cypermethrin và Permethrin là những hóa chất
tổng hợp chủ yếu thuộc nhóm pyrethroid được sử dụng để phòng chống muỗi Ae.

14

aegypti bằng biện pháp phun diện rộng; thêm vào đó các sản phẩm hóa chất sử dụng
trong lĩnh vực gia dụng y tế như bình xịt, bình phun hơi, hương muỗi, rèm và các
dạng dung dịch cũng chứa những hóa chất tổng hợp pyrethroid như Permethrin, D-
tetramethrin và Esbiothrin được sử dụng rất phổ biến, đặc biệt ở thành phố Băng
Cốc (Paeporn và cộng sự, 1996)
Tại Tanzania: Curtis và cộng sự (1996) sử dụng Lambdacyhalothrin dạng CS
để tẩm màn polyester liều 10 mg/m
2
, sau 15 tháng tỷ lệ chết là 85-100% đối với
muỗi An.gambiae. Đối với màn polyethylene, hiệu lực tồn lưu khoảng 5 tháng, tỷ lệ
muỗi chết > 80%. Curtis và cộng sự (1998) sử dụng lambdacyhalothrin 10% CS để
phun tồn lưu trong nhà với liều 30 mg hoạt chất/ m
2
, sau khi phun 7 tháng tỷ lệ
muỗi chết 100% [54].
Tại Philipin: Quilala và cộng sự (1996) sử dụng Lambdacyhalothrin dạng CS
để tẩm màn polyethylen liều 10 mg hoạt chất/m
2
phòng chống An. flavirostris tại thực
địa. Sau 6 tháng, tỷ lệ muỗi chết trong thử sinh học là 100% với An. flavirostris. Tỷ lệ
muỗi đến đốt người trong nhà giảm có ý nghĩa khi so với đối chứng (1,48
con/người/đêm ở khu thử nghiệm và 5,3 con/người/đêm ở khu đối chứng). Phỏng vấn
ngẫu nhiên 124 hộ khu thử nghiệm sau 1 tuần, sau 1 tháng và sau 2 tháng đều không
có phàn nàn gì về phản ứng phụ của hóa chất này, ngoại trừ một số ít người cho rằng
hóa chất có mùi và một vài người có ho trong 2 ngày đầu [54].
Tại Malaysia: sử dụng Icon 2,5CS tẩm màn liều 15 mg hoạt chất/m
2
có hiệu

lực tồn lưu 9 tháng đối với màn không giặt, tỷ lệ chết của muỗi An. maculatus là
90% [54].
Tại Cote d’Ivoire: hiệu lực của Lambdacyhalothrin dạng CS đã được Darriet
và cộng sự (1999) tiến hành trong phòng thí nghiệm và nhà bẫy tại thung lũng
M’be’ [54]:
+ Trong phòng thí nghiệm, với màn không giặt, ở liều 10 mg /m
2
có hiệu lực
tồn lưu 8 tháng, ở liều 15 mg /m
2
hiệu lực tồn lưu 9 tháng với muỗi thử nghiệm là
An. gambiae và An. funestus.
15

+ Kết quả theo dõi ở những nhà bẫy cho thấy: tỷ lệ An. gambiae vào nhà bẫy
có tẩm màn ở liều 10 mg /m
2
giảm 55%. Tỷ lệ muỗi An. funestus vào nhà bẫy có
tẩm màn ở liều 15 mg /m
2
giảm 68%. Tỷ lệ muỗi An. gambiae bay ra khỏi nhà bẫy
có tẩm màn là 80%, trong khi đó nhà bẫy đối chứng (không tẩm màn) thì tỷ lệ muỗi
An. gambiae bay ra khỏi nhà bẫy là 38%. Như vậy, tỷ lệ muỗi bay ra khỏi nhà bẫy
có tẩm màn tăng 2 lần so với nhà bẫy đối chứng. Điều đó nói lên là
Lambdacyhalothrin dạng CS có hiệu quả xua muỗi. Tỷ lệ hút máu của An. gambiae
giảm 31% ở nhà bẫy tẩm màn liều 10 mg /m
2
và giảm 47% ở nhà bẫy tẩm màn liều
15 mg /m
2

. Tỷ lệ hút máu của An. funestus giảm 73% ở nhà bẫy tẩm màn liều 10 mg
/m
2
và giảm 81% ở nhà bẫy tẩm màn liều 15 mg /m
2
[54].
Sau nhiều năm sử dụng các hóa chất nhóm pyrethroid đã xuất hiện loài muỗi
tăng khả năng thích ứng với hóa chất, tăng sức chịu đựng, có loài đã kháng dẫn đến
làm giảm hiệu lực diệt muỗi gây khó khăn cho công tác phòng chống véc-tơ.
Thử nghiệm về hiệu lực màn tẩm deltamethrin dạng viên (K-OTAB
®
) năm
2002 ở huyện Sundargarh của Orissa, Ấn Độ - vùng có SR lan truyền dai dẳng cho
thấy giảm đáng kể tỷ lệ mắc mới và hiện mắc ở đây. Thử nghiệm cũng chứng minh
rằng màn tẩm K-OTAB làm giảm đáng kể mật độ 2 véc-tơ chính An. culicifacies và
An. fluviatilis [11].
Những thí nghiệm ở Assam thuộc Tanzania và những nơi khác đã chỉ ra rằng
khi toàn thể cộng đồng được cung cấp màn tẩm, nhiều loài muỗi ái tính với người
đã bị diệt khi tiếp xúc với màn, mật độ muỗi, thoa trùng giảm (C.F.Curtis, 2003).
Ngày nay một số hóa chất nhóm pyrethroid được sử dụng đơn lẻ và phối hợp
với nhau để phun không gian phòng chống muỗi (Báo cáo thường niên về bệnh do
véc-tơ truyền 2002-2003) (Journal of vector Ecology 2005)
Một trong những nghiên cứu mới là sử dụng phối hợp các loại hóa chất diệt
(trong cùng nhóm hoặc khác nhóm) hoặc là phối hợp giữa các hóa chất diệt với các
chất sinnengis để tăng hiệu lực của hóa chất và phần nào giải quyết khả năng tăng
sức chịu đựng của côn trùng với hóa chất [55,60].
16

1.4.2. Tình hình nghiên cứu hóa chất pyrethroid trong nước
Phòng chống véc-tơ có vai trò quan trọng trong việc làm giảm tỷ lệ mắc bệnh

sốt rét, các biện pháp phòng chống véc-tơ chủ yếu hiện nay là tẩm màn và phun tồn
lưu trong nhà với hóa chất diệt côn trùng, vì vậy sự xuất hiện tính kháng hóa chất
của véc-tơ sốt rét làm cho hiệu quả của hoạt động phòng chống véc-tơ bị hạn chế.
Ở Việt Nam nhiều năm gần đây đã sử dụng một số hóa chất nhóm
pyrethroid để tẩm màn, rèm và phun tồn lưu và đã đạt được hiệu quả phòng chống
côn trùng truyện bệnh góp phần giảm đáng kể tỷ lệ mắc sốt rét.
Nguyễn Đức Mạnh, Trần Đức Hinh và cộng sự đã tiến hành thử nghiệm đánh
giá tác dụng diệt tồn lưu của Icon 10CS và so sánh hiệu lực phòng chống An.
minimus của màn tẩm Icon 10CS (nồng độ 20 mg/m
2
) với màn tẩm Permethrin
50EC (nồng độ 200 mg/m
2
) tại xã Liên Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình từ
tháng 6 năm 1996 đến tháng 7 năm 1997. Cả màn tẩm Icon 10CS và màn tẩm
Permethrin 50EC đều có tác dụng tốt trong phòng chống An. minimus, đặc biệt là
giảm mật độ muỗi vào nhà đốt máu ban đêm và muỗi trú đậu trong nhà ban ngày ở
những tháng đầu sau khi tẩm màn. Tác dụng diệt tồn lưu của màn tẩm Permethrin
kéo dài 7 tháng, của màn tẩm Icon là 12 tháng. Màn tẩm Icon 10CS giữ được tác
dụng diệt tồn lưu sau 3 lần giặt, trong khi đó tác dụng diệt tồn lưu của màn tẩm
Permethrin giảm rõ rệt sau lần giặt đầu tiên [14].
Nguyễn Tuấn Ruyện, Trần Đức Hinh và cộng sự (1997) đã sử dụng biện
pháp phun tồn lưu bằng Fendona 10SC để phòng chống muỗi sốt rét tại xã Bảo Hà,
huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Kết quả cho thấy muỗi An. minimus tại điểm nghiên
cứu nhạy cảm với hóa chất Fendona, tỷ lệ muỗi chết là 100%. Tác dụng tồn lưu của
Fendona 10SC liều 30 mg/m
2
trên tường gỗ là 11 tháng, trên tường gạch là 9 tháng.
Sử dụng biện pháp phun tồn lưu bằng Fendona đã làm giảm mật độ An. minimus trú
ẩn trong nhà và vào nhà tìm người hút máu [18].

Nguyễn Mạnh Hùng và cộng sự đã đánh giá hiệu lực của Icon 10WP phun
tồn lưu và Permethrin tẩm màn tại điểm nghiên cứu Đăklấp tỉnh Đắk Lắk từ tháng
5/1997 – 4/1998. Kết quả là phun Icon liều 30 mg/m
2
có tác dụng diệt tồn lưu 11

×