Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Nghiên cứu thành phần loài tuyến trùng ký sinh trên cây lạc ở tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.61 MB, 83 trang )

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN



Tạ Thị Mai Anh




NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI TUYẾN TRÙNG
KÝ SINH TRÊN CÂY LẠC Ở TỈNH HƢNG YÊN




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC






Hà Nội - 2014
2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN



Tạ Thị Mai Anh



NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI TUYẾN TRÙNG
KÝ SINH TRÊN CÂY LẠC Ở TỈNH HƢNG YÊN

Chuyên ngành: Động vật học
Mã số: 60420103

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
HDC: PGS.TS Nguyễn Ngọc Châu
HDP: PGS. TS Nguyễn Văn Vịnh


Hà Nội - 2014
3

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn Ngọc Châu, PGS. TS
Nguyễn Văn Vịnh, những người thầy đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá
trình hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo và cán bộ nghiên cứu Phòng Tuyến trùng,
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đã

giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi có thể thực hiện được luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban chủ nhiệm cùng tập thể các thầy cô giáo trong Khoa
sinh nói chung và Bộ môn động vật không xương sống nói riêng đã tận tình chỉ bảo, giúp
đỡ để tôi hoàn thành được chương trình học tại Khoa sinh – Đại học khoa học tự nhiên,
Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Nhân dịp này, tôi cũng xin gửi lời tri ân tới TS. Trịnh Quang Pháp, Phó phòng tuyến
trùng - Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật đã cung cấp những trợ giúp về mặt kỹ thuật và
các ý kiến tư vấn hết sức hiệu quả, giúp tôi hoàn thành tốt nhất công việc của mình trong
phòng thí nghiệm.
Cuối cùng tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới toàn thể gia đình, bạn bè những
người luôn bên cạnh giúp đỡ, là chỗ dựa tinh thần để tôi có thể hoàn thành được luận văn
này.


Hà Nội, tháng 5 năm 2014

Tác giả








4

MỤC

LỤC


MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1 - TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Tình hình nghiên cứu về tuyến trùng ký sinh cây lạc trên Thế giới và tại Việt
Nam 3
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về tuyến trùng ký sinh cây lạc trên Thế giới 3
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về tuyến trùng ký sinh cây lạc tại Việt Nam 21
1.2. Tình hình sản xuất cây lạc trong những năm gần đây ở tỉnh Hƣng Yên. 22
Chƣơng 2 - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
2.1. Địa điểm, thời gian nghiên cứu 25
2.1.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 25
2.1.2. Dụng cụ, thiết bị nghiên cứu 25
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 26
2.2.1. Phƣơng pháp thu mẫu 26
2.2.2. Phƣơng pháp tách tuyến trùng từ đất và mô thực vật 26
2.2.3. Phƣơng pháp cố định, xử lý tuyến trùng và làm tiêu bản 28
2.2.4. Phƣơng pháp đếm và kỹ thuật gắp tuyến trùng 30
2.2.5. Phƣơng pháp phân loại tuyến trùng dựa vào hình thái 31
2.2.6. Xử lý số liệu 33
Chƣơng 3 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 34
3.1. Thành phần tuyến trùng ký sinh trên cây lạc ở tỉnh Hƣng Yên 34
3.2. Phân loại các giống và loài tuyến trùng ký sinh ở cây lạc Hƣng Yên 35
3.2.1. Giống Ditylenchus Filipjev, 1936 35
3.2.2. Giống Tylenchorhynchus Cobb, 1913 40
3.2.3. Giống Helicotylenchus Steiner, 1945 47
3.2.4. Giống Pratylenchus Filipjev, 1936 49
5

3.2.5. Giống Criconemella de Grise & Loof, 1965 53
3.3. Đặc điểm phân bố tuyến trùng ký sinh trên cây lạc ở Hƣng Yên 58

3.4. Đặc điểm sinh học, sinh thái của một số loài tuyến trùng ký sinh quan trọng
trên cây lạc ở tỉnh Hƣng Yên 60
3.4.1. Nhóm tuyến trùng ngoại ký sinh ở cây lạc 60
3.4.2. Nhóm tuyến trùng nội ký sinh ở cây lạc 61
3.5. Mật độ ký sinh và tần suất hiện diện của tuyến trùng trên cây lạc ở tỉnh
Hƣng Yên 61
3.6. Sự tƣơng quan tuyến trùng ký sinh đến triệu chứng hại trên cây lạc ở tỉnh
Hƣng Yên 63
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 65
Kết luận 65
Khuyến nghị 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
Tiếng Việt 67
Tiếng Anh 68
PHỤ LỤC

6

DANH

MỤC

BẢNG
Bảng 1.1. Diện tích trồng cây lạc ở tỉnh Hƣng Yên trong năm 2012, 2013 23
Bảng 1.2. Diện tích trồng cây lạc nhiều nhất ở các xã tại 3 khu vực 24
Bảng 3.1. Hệ thống định loại các loài tuyến trùng ký sinh cây lạc ở Hƣng Yên 34
Bảng 3.2. Thành phần tuyến trùng ký sinh trên cây lạc ở Hƣng Yên 59
Bảng 3.3. Tần suất xuất hiện và mật độ tuyến trùng ký sinh ở cây lạc 62
Bảng 3.4. Tƣơng quan giữa mật độ tuyến trùng ký sinh và triệu chứng bệnh trên cây
lạc 64

















7

DANH

MỤC

HÌNH

Hình 1.1. Triệu chứng bệnh trên cây lạc do loài Meloidogyne spp. gây ra 6
Hình 1.2. Tổn thƣơng trên lạc do P. brachyurus gây ra 11
Hình 1.3. Hệ thống rễ lạc bị giảm đáng kể do loài B. longicaudatus gây ra 14
Hình 1.4. Con cái và trứng của loài tuyến trùng C. ornata 16
Hình 2.1. Sơ đồ thu mẫu 25
Hình 3.1. Ảnh chụp kính hiển vi của Ditylenchus anchilisposomus 36

Hình 3.2. Ảnh chụp kính hiển vi của Ditylenchus ausafi 38
Hình 3.3. Ảnh chụp kính hiển vi của Ditylenchus equalis 40
Hình 3.4. Ảnh chụp kính hiển vi của Tylenchorhynchus clavicaudatus 42
Hình 3.5. Ảnh chụp kính hiển vi của Tylenchorhynchus dispersus 44
Hình 3.6. Ảnh chụp kính hiển vi của Tylenchorhynchus leviterminalis 46
Hình 3.7. Ảnh chụp kính hiển vi của Helicotylenchus laevicaudatus 48
Hình 3.8. Hình vẽ và ảnh chụp kính hiển vi của Pratylenchus brachyurus 51
Hình 3.9. Ảnh chụp kính hiển vi của Pratylenchus neglectus 53
Hình 3.10. Ảnh chụp kính hiển vi của Criconemella onoensis 55
Hình 3.11. Ảnh chụp kính hiển vi của Criconemella sphaerocephala 57








8

DANH MỤC

CÁC

TỪ

VIẾT

TẮT VÀ THUẬT NGỮ
CHLB Đức: Cộng hòa liên bang Đức

Ha: hecta
T.P HƣngYên: Thành phố Hƣng Yên
TSXH: Tần suất xuất hiện
USD: Đô la Mỹ
Anastoma: Cấu trúc nối vòng cutin dạng gân lá
Areolation: Dạng cấu trúc phân ô của đƣờng bên đƣợc tạo thành do các vạch
cutin ngang cắt các đƣờng bên của vùng bên
Cutin: Lớp vỏ bọc bên ngoài cơ thể tuyến trùng không có cấu trúc tế
bào
Deirid: Là một nhú cổ lớn, một dạng cấu trúc thụ cảm bên nằm gần vòng
thần kinh
Epiptigma: Cấu trúc màng vulva
Hemizonid: Cấu trúc có hình bán cầu nằm gần lỗ bài tiết phía bụng, nó có
dạng một tấm sáng nằm dƣới lớp biểu bì, trong lát cắt dọc dạng
lồi hai cạnh và khúc xạ ánh sáng rất mạnh đƣợc nối giữa các bó
thần kinh của hệ thần kinh trung ƣơng
Isthmus: Phần thắt eo của thực quản
Kitin: Chất xƣơng, chỉ mức độ hóa xƣơng
Monodelphic-prodelphic: Kiểu hệ sinh dục cái đơn với một buồng trứng ở phía sau
Phasmid: Là cấu trúc dạng lỗ nằm ở khoảng giữa bên đuôi đƣợc nối với
tuyến trƣớc đuôi, có chức năng cảm thụ hóa học
Procorpus: Phần trƣớc của thực quản thƣờng có dạng hình trụ
Rectum: Ruột thẳng, trực tràng
Stylet: Kim hút-một cấu trúc hút dạng ống đƣợc hình thành từ xoang
miệng
TAF: Dung dịch cố định tuyến trùng có thành phần từ Formalin (7
phần), Triethanolamine (2 phần) và nƣớc (9 phần)
9

Vagina: Âm đạo, ống sinh dục đƣợc bao phủ bằng lớp cutin và đƣợc nối

với tử cung
Vulva: Âm hộ, lỗ sinh dục cái


10


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong các cây công nghiệp ngắn ngày đang đƣợc sản xuất ở Việt Nam thì cây Lạc
có một vị trí rất quan trọng. Cây Lạc, còn đƣợc gọi là Đậu phộng hay Đậu phụng (tên
khoa học là Arachis hypogaea), là một loài cây thực phẩm thuộc họ Đậu có nguồn
gốc tại Trung và Nam Mỹ. Sản phẩm của cây lạc rất giàu lipit, protein dùng làm thức
ăn cho ngƣời và gia súc, dầu lạc cũng đƣợc sử dụng trong công nghiệp. Ngoài tiêu
dùng nội địa, sản phẩm của cây lạc còn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao,
mỗi năm Việt Nam xuất khẩu 100.000-135.000 tấn thu về 65-120 triệu USD[26].
Cây lạc đƣợc trồng khá phổ biến tại Việt Nam, trong đó tỉnh Hƣng Yên là một
trong những tỉnh trồng nhiều nhất. Nằm gọn trong một ô trũng thuộc đồng bằng sông
Hồng, đƣợc cấu tạo bằng các trầm tích thuộc kỷ Đệ Tứ, với chiều dài 150m - 160m và
đất đai trong tỉnh đƣợc hình thành do phù sa sông Hồng bồi đắp. Thành phần cơ giới
của đất khá đa dạng từ đất thịt nhẹ đến đất thịt pha nhiễm chua. Bên cạnh tài nguyên
đất đai, tỉnh Hƣng Yên còn có nguồn tài nguyên nƣớc khá phong phú, có thể cung cấp
nƣớc trực tiếp cho nông nghiệp qua các hệ thống sông ngòi tự nhiên và hệ thống trung
đại thuỷ nông Bắc - Hƣng - Hải. Với những ƣu thế đó thì cây lạc đƣợc chú trọng quan
tâm đặc biệt bởi nó phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh Hƣng Yên.
Thành phần sinh hoá của hạt lạc có thể thay đổi phụ thuộc vào giống, vào sự biến
động các điều kiện khí hậu giữa các năm, vào vị trí của hạt ở quả, các yếu tố không
bình thƣờng nhƣ: sâu bệnh hại, và phƣơng pháp phân tích khác nhau cũng ảnh hƣởng
đến thành phần sinh hoá của hạt lạc [1].
Các loại bệnh hại trên cây lạc chủ yếu do các loài sâu, rệp, vi khuẩn gây ra và

còn một loại bệnh nữa do tuyến trùng gây ra cũng gây hại không kém tới năng suất
cây trồng. Tuyến trùng gây thiệt hại ở tất cả các khu vực trồng cây lạc trên thế giới.
Theo khảo sát của các nhà tuyến trùng học, tổn thất hàng năm gây ra bởi các loài
11

tuyến trùng trên cây lạc đƣợc ƣớc tính khoảng 12% và thiệt hại ƣớc tính khoảng 1,03
tỷ USD [26].
Trong những năm gần đây, năng suất cây lạc tại tỉnh Hƣng Yên có sự suy giảm
bởi một số bệnh hại, trong đó phải kể đến bệnh do tuyến trùng ký sinh gây ra. Chúng
làm giảm năng suất cây trồng, ảnh hƣớng tới chất lƣợng củ lạc và có thể lây nhiễm ở
trong đất rất lâu với điều kiện thuận lợi.
Nhƣng hiện nay ở Việt Nam vẫn chƣa có một báo cáo khoa học cụ thể nào về mức
độ gây hại của tuyến trùng trên cây lạc hay những loài tuyến trùng ký sinh gây hại
chính, đôi khi ngƣời nông dân vẫn bị nhầm lẫn bệnh do tuyến trùng gây ra có thể là do
nấm và vi khuẩn vì biểu hiện bệnh của chúng tƣơng đối giống nhau. Chính vì vậy, tôi
đã chọn đề tài “Nghiên cứu thành phần loài tuyến trùng ký sinh trên cây lạc ở tỉnh
Hưng Yên” nhằm bƣớc đầu xác định về thành phần loài tuyến trùng ký sinh trên lạc,
mô tả hình thái của một số loài tuyến trùng ký sinh quan trọng cũng nhƣ triệu chứng
bệnh gây ra trên cây lạc bởi chúng.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định thành phần loài tuyến trùng ký sinh gây hại trên cây lạc ở Hƣng Yên.
- Mô tả hình thái của các loài tuyến trùng ký sinh quan trọng.
- Triệu chứng bệnh gây ra bởi mật độ và số lƣợng của tuyến trùng ký sinh.
3. Ý nghĩa của đề tài
- Cung cấp thông tin về tuyến trùng gây hại trên cây lạc, cụ thể tại tỉnh Hƣng Yên.
- Đánh giá mức độ gây hại trên cây lạc của tuyến trùng, từ đó chúng ta có thể tìm
hiểu để đƣa ra các giải pháp phòng bệnh và hạn chế sự lây nhiễm của chúng.





12


Chƣơng 1 - TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu về tuyến trùng ký sinh cây lạc trên Thế giới và tại Việt
Nam
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về tuyến trùng ký sinh cây lạc trên Thế giới
Tuyến trùng ký sinh thực vật là nhóm tuyến trùng chủ yếu sống trong đất và có
qua hệ chặt chẽ với thực vật đang phát triển. Chúng sống và ký sinh ở tất cả các phần
của thực vật, bao gồm rễ, thân, lá và các hoa của thực vật đang phát triển. Do quá trình
sống và sinh sản trên hoặc trong cơ thể thực vật, tuyến trùng có thể gây ra nhiều biến
đổi theo chiều hƣớng bất lợi đối với thực vật-cây chủ nhƣ phá hủy mô thực vật, tạo
các vết thƣơng, các biến đổi về sinh lý…Ngoài tác hại trực tiếp trên, chúng còn có
mối quan hệ với các tác nhân gây bệnh khác, từ đó làm giảm khả năng miễn dịch của
thực vật [4].
Tuyến trùng thực vật gồm các loài tuyến trùng ở 4 bộ, khác nhau về cấu tạo hình
thái, giải phẫu và tính chất ký sinh ở thực vật. Bộ Tylenchida: bao gồm hầu hết các
loài tuyến trùng là đại diện cho các nhóm ký sinh ở các phần khác nhau của thực vât.
Bộ Aphelenchida: gồm một số loài tuyến trùng ký sinh ở các phần trên mặt đất của
cây nhƣ lá, hoa. Bộ Dorylaimida: gồm các loài họ Longidoridae là nhóm tuyến trùng
ngoại ký sinh thực vật, một số loài có khả năng mang truyền virus. Bộ Triplonchida:
gồm các loài của 2 họ Trichodoridae và Diphterophoridae là nhóm ngoại ký sinh thực
vật, nhiều loài có khả năng mang truyền virus. Trong đó bộ Tylenchida là nhóm tuyến
trùng ký sinh đông đảo nhất và có tầm quan trọng nhất trên phạm vi toàn thế giới [4].
Theo báo cáo tổng quan của các nhà nghiên cứu về tuyến trùng học, cho đến nay
đã xác định hàng trăm loài tuyến trùng ký sinh, gây thiệt hại trên cây lạc tại nhiều khu
vực khác nhau trên thế giới, trong đó phổ biến nhất là các loài hoặc nhóm loài sau:
Meloidogyne spp., Pratylenchus brachyurus, Belonolaimus longicaudatus,
Criconemella ornata, Aphelenchoides arachidis, Aphasmatylenchus straturatus,

13

Scutellonema cavenessi, Tylenchorhynchus brevilineatus và Ditylenchus destructor
[26].
Tuyến trùng sần rễ Meloidogyne spp.
Giống tuyến trùng sần rễ Meloidogyne có 3 loài ký sinh trên cây lạc là: M.
arenaria, M. javanica, M. hapla. Ba loài này đƣợc biết đến rộng rãi ở cả 3 vùng bắc,
trung và nam nƣớc Mỹ, Châu Phi, Ấn Độ, Châu Âu bao gồm cả Địa Trung Hải, Nhật
Bản, Úc và đảo Fiji. Các yếu tố sinh học và môi trƣờng thuận lợi có liên quan chặt chẽ
tới sự phân bố và tầm quan trọng của chúng, cụ thể tuyến trùng M. arenaria và
M. javanica thƣờng tập trung ở vùng ấm và nóng trên thế giới còn loài M. hapla thì
đƣợc tìm thấy ở vùng lạnh [13].
Theo báo cáo gần đây, loài M. arenari đặc biệt chiếm ƣu thế khi ký sinh trên cây
lạc ở vùng Alabama, Georgia, Texas và Arkansas và M. hapla có mức độ gây hại lớn
nhất tại các vùng Bắc Carolina, Virginia và Oklahoma [41]. Cả M. arenaria và
M. hapla đều đƣợc xác định là nguyên nhân gây hại cho cây lạc ở các bang Georgia,
Bắc Carolina và Oklahoma của Mỹ. Loài M. javanica cũng đƣợc tìm thấy tại một số
vùng trồng lạc ở bang Georgia [43].
Tại một số nơi khác trên thế giới, M. arenaria cũng đã đƣợc tìm thấy nhƣ ở
Zimbamwe (Martin, 1958), Isarel (Orion & Cohn, 1975), Ấn Độ (Sharma & cs., 1978;
Dhruj & Vaishnav, 1981; Sakhuja & Sethi, 1985c). Một báo cáo từ Senegal (Châu Phi)
cho biết đã tìm thấy 2 loài tuyến trùng sần rễ M. arenaria và M. javanica, nhƣng
chúng đều không gây hại nhiều trên cây lạc (Netscher, 1975). Trƣớc đó, Martin (1958)
là ngƣời đầu tiên nghiên cứu và thông báo về loài M. javanica ký sinh trên cây lạc ở
Zimbabwe [11].
Biểu hiện gây bệnh: Ấu trùng của Meloidogyne thƣờng xâm nhập gây hại đối với
rễ và củ lạc. Chúng đi vào phần đầu của rễ và làm hỏng cấu trúc mỏng manh của rễ
khi có một số lƣợng lớn đi vào diện tích giới hạn của rễ.
Minton (1963) đã nghiên cứu sự lây nhiễm và mô bệnh học của M. arenania trên
cây lạc. Chúng gây nhiễm vào rễ lạc với ấu trùng tuổi 2 của M. arenania thì sẽ phát

14

triển rất nhanh sau 2 ngày. Chỉ sau 8 ngày các tế bào phát triển lớn, đa nhân và mật độ
dày đặc. Các tế bào gần chỗ tuyến trùng xâm nhập bắt đầu phân chia nhanh chóng và
tăng về kích thƣớc rồi phình to ra dẫn đến mất tổ chức của mô mạch. Sự xuất hiện các
nốt sần ở rễ giống nhƣ các u mô nhỏ của tế bào có liên quan tới tuyến trùng bao bên
ngoài của trụ rễ, chúng đƣợc nhân rộng và phát triển ra ngoài vỏ. Các tế bào lân cận
của vỏ tế bào cũng đã bị phá hủy bởi sự nhân lên nhanh chóng của mật độ tuyến trùng
và các mô tế bào bắt đầu bị hoại tử, sự phát triển về chiều dài của rễ bị hạn chế bởi
những u nốt trên rễ, chức năng vận chuyển nƣớc và chất dinh dƣỡng của rễ cũng bị
phá hủy [26].
Tất cả sự thay đổi về cấu tạo giải phẫu bởi M. javanica trên các tế bào rễ cây lạc
chính là sự tăng nhanh và phình to ra của các tế bào mà kết quả là do sự hình thành
của các tế bào khổng lồ đa nhân ở vỏ và thân của rễ. Các nốt sần trên rễ và củ lạc do
M.arenaria và M. javanica thƣờng giống nhau và lớn hơn so với các nốt sần do
M. hapla [9,19]. Các nốt sần đƣợc tạo ra bởi M. arenaria và M. javanica có thể có
đƣờng kính lớn gấp vài lần so với các rễ bên cạnh, do đó nó ít mở rộng hơn so với các
rễ nhánh không bị nhiễm. Sakhuji và Sethi (1985) quan sát ở các rễ bị nhiễm bởi
M. javanica thì chúng tăng lên nhanh chóng từ 2 đến 5 lần so với các rễ bên cạnh ở tất
cả vị trí. Nốt sần tạo ra do Rhizobium trên rễ cây lạc có thể đƣợc chẩn đoán nhầm
giống nhƣ nốt sần do tuyến trùng gây ra nhƣng thực tế chúng lại rất khác nhau [32].
Machmer (1951) đã mô tả các triệu chứng trên cây lạc bị nhiễm bởi M. arenaria
nhƣ sau: sự sây sát xảy ra trên tất cả các phần dƣới của cây lạc kể cả vỏ lạc cũng xuất
hiện các nốt mụn. Thân củ lạc thƣờng rất nhiều nốt mụn và dễ dàng bị cắt đứt nếu củ
lạc bị nhiễm sớm từ đó sẽ ảnh hƣởng tới phôi thai hạt giống. Machmer cũng nói thêm
về quần thể thực vật cây lạc không biểu hiện bệnh dễ thấy cho đến khi chúng gần
đƣợc thu hoạch. Tại Trung Quốc, Zhang (1985) cũng đã thông báo cây lạc bị nhiễm
tuyến trùng M. arenariasau khoảng 40 ngày trồng thì lá cây lạc đã bắt đầu chuyển
màu vàng và cây bị còi cọc. Biểu hiện trên mặt đất của M. hapla (Taylor & Sasser,
1978) và M. javanica (Minton & cs., 1969b) tƣơng tự giống nhƣ của M. arenaria. Khi

cây bị ảnh hƣởng thì tăng trƣởng và năng suất đều kém [44].
15






Hình 1.1. Triệu chứng bệnh trên cây lạc do loài Meloidogyne spp. gây ra
(theo D.W. Dickson, 1971)
Các chủng sinh học: Taylor & Sasser (1978) gợi ý chỉ nên dùng từ “chủng” cho
quần thể Meloidogyne bởi nó đã đƣợc chứng minh bằng rất nhiều thí nghiệm khác
nhau trên các cây chủ từ những loài bình thƣờng cho tới loài có liên quan và có vùng
phân bố địa lý lớn. Sasser & Nusbaum (1955) quan sát thấy rằng quần thể của
M. arenaria ở Bắc Carolina đã không nhiễm trên cây lạc ở Georgia và chúng rất khác
với quần thể ở Georgia và một số vùng khác. Dựa trên những lần kiểm tra về quần thể
16

M. arenaria, M. javanica, M. hapla đang ký sinh trên cây lạc từ các vùng tách biệt
nhau về địa lý trên thế giới, Sasser (1972), Taylor & Sasser (1978) và Eisenback &
cs.(1981) đã chia M. arenaria thành 2 chủng trong đó một chủng sinh sản đƣợc trên
cây lạc còn một chủng thì không. Chủng chủ yếu thuộc loài M. arenaria có sự phân
bố rộng rãi trên thế giới và hình thái của chúng rất khó phân biệt (Sasser, 1979a;
Osman & cs., 1985). Phản ứng của M. javanica và M. hapla trên các cây chủ khác
nhau tƣơng đối đồng đều, do đó các chủng khác nhau rất khó đƣợc phát hiện, mặc dù
cũng có một vài biến đổi trong quần thể của M. javanica đƣợc ghi nhận. Hầu hết quần
thể của M. javanica không sinh sản đƣợc trên cây lạc. M. javanica đã đƣợc báo cáo là
lây nhiễm trên cây lạc tại Zimbabwe và Malawi (Martin, 1958), Georgia, USA
(Minton & cs., 1969b) và Brazil (Lordello & Gerin, 1981) [10,32,33].
Sự tồn tại của tuyến trùng sần rễ và phương thức lan truyền: Orr & Newton (1971)

đã tìm thấy ấu trùng của Meloidogyne trong 28 chi thu đƣợc từ việc lấy mẫu cách 2m
dƣới đất ở khu vực phía Tây bang Texas. Nó đƣợc phân tán theo dòng chảy của nƣớc
và hoạt động tƣới tiêu cây trồng nhƣng phần lớn chúng đƣợc lan truyền rộng rãi do
hoạt động của con ngƣời. Chúng có thể đƣợc lây lan khi đào bới các cây lạc tƣơi, bao
gồm cả củ và rễ lạc, nhƣng nói chung chúng không tồn tại trong củ lạc có vỏ quá khô.
Nếu việc làm đất không kỹ và không đƣợc khô hoàn toàn thì đó có thể là nơi ẩn náu
cho trứng phát triển và ấu trùng sẽ đƣợc lây nhiễm trở lại vào cây chủ. Đất từ các khu
vực bị nhiễm bệnh có thể bị lây vào các khu vực khác khi chúng đƣợc đào xới bằng
các phƣơng tiện vận chuyển hoặc sự đi lại của vật nuôi, con ngƣời cũng có thể là
nguồn gốc cho trứng và ấu trùng phát triển.
Các yếu tố môi trường ảnh hướng tới hoạt động ký sinh của tuyến trùng: Nhiệt độ
đƣợc xem là yếu tố quan trọng ảnh hƣởng tới sự tồn tại và hoạt động ký sinh của
Meloidogyne và nhiệt độ thấp nhất và cao nhất cho sự tồn tại tƣơng ứng vào khoảng
từ 0
0
C- 5
0
C và 35
0
C- 40
0
C (Taylor & Sasser, 1978). Nói chung nhiệt độ tối ƣu cho sự
phát triển của trứng và ấu trùng là 10
0
C-15
0
C (Bergeson, 1959; Thomason & cs.,
1964). Nhiệt độ tối ƣu cho sự ấp trứng của M. hapla và M. javanica tƣơng đối từ
25
0

C-30
0
C (Birdge& Wallace, 1965). Nhiệt độ để trứng nở của M. javanica vào
17

khoảng 30
0
C, cao hơn so với M. hapla. Milne & Du Plessis (1964) đã nhận thấy rằng
chu kỳ sống của M. javanica là 56 ngày tại nhiệt độ 14,3
0
C và 21 ngày ở nhiệt độ
26,1
0
C [11,12,34].
Độ ẩm đất là yếu tố cần thiết để duy trì mọi hoạt động sống của Meloidogyne.
Trong đất ẩm khoảng từ 40-60% thì ấu trùng có thể hoạt động và di chuyển trong đất
qua lớp màng nƣớc.Trong đất khô chúng trở nên kém hoạt động và có thể bị chết (Van
Gundy, 1985). Trong đất ẩm, quá trình trứng nở có thể bị ức chế và ấu trùng di chuyển
chậm do thiếu oxy. Baxter và Blake (1969) đã nhận thấy rằng tất cả các hoạt động của
M. javanica sẽ tăng lên nếu nồng độ của oxy tăng từ 0,2 tới 21% và kết luận rằng môi
trƣờng cung cấp thuận lợi đó là khi đất ẩm thoát nƣớc nhanh và nồng độ oxy tăng trên
10%. Zhang (1985) báo cáo rằng M. arenaria ít nghiêm trọng hơn trong các khu vực
thấp nhƣng có các mạch nƣớc cao hơn so với khu vực thoát nƣớc tốt. Mặc dù vậy
M. arenaria ít gây nguy hiểm trên cây lạc trong các ruộng bị ngập hơn so với các
ruộng không bị ngập lụt.
Trong các nghiên cứu phòng trừ mức độ phụ thuộc vào nhiệt độ, Vrain (1978) đã
tìm thấy mức độ lây nhiễm của M. incognita và M. hapla thấp hơn sau khi tiếp xúc
với các nhiệt độ khác nhau từ 20
0
C tới -8

0
C trong đất có độ ẩm bão hòa hơn khi tiếp
xúc với các nhiệt độ trong đất có độ ẩm cao hơn ở 51cm. Trong số những loài
Meloidogyne đang tồn tại, trứng nở và sinh sản đƣợc trên phạm vi pH rộng. Nếu độ
pH trong đất thuận lợi cho sự phát triển của cây thì tuyến trùng sẽ hoạt động rất mạnh
(Wallace, 1971). Zhang (1985) cho rằng việc bổ sung để làm thay đổi thành phần các
chất hữu cơ trong đất có thể làm giảm mức độ sinh sản của M. arenaria [44].
Tổ hợp gây bệnh: Garcia và Mitchell (1975a) đã quan sát mức độ phức tạp trong
tỷ lệ bệnh thối quả lạc khi Pythium myriotylum kết hợp với Fusarium solani hoặc
M.arenaria hoặc sự kết hợp của các tác nhân gây bệnh khác. Garcia và Mitchell
(1975b) cũng thông báo sự kết hợp giữa nấm P. myriotylum và tuyến trùng M.
arenaria làm cho tỷ lệ cây bị đổ ngang nhiều hơn so với các tác nhân gây bệnh riêng
biệt. Khi cho nhiễm vào cây lạc từ 2g-4g sợi nấm F. solani cùng với 1000-2000 M.
18

arenaria sẽ làm cây héo sớm hơn so với khi tiêm một mình F. solani (Patel &
cs.,1985). Kết quả nghiên cứu 2 năm trong chậu đất cho thấy sự hiện diện của
M.arenaria không có ảnh hƣởng đến tỷ lệ nhiễm Aspergillus flavus trong hạt lạc
(Minton & Jackson, 1967). Thí nghiệm của Minton & cs.(1969a) cũng cho thấy lệ
nhiễm của A. flavus lớn hơn trong hạt giống của cây khi chủng đồng thời cả A. flavus
và M. hapla so với cây chỉ cho nhiễm A. flavus [31].
Tầm quan trọng và mức độ thiệt hại về mặt kinh tế: Thông tin về tầm quan trọng
kinh tế của Meloidogyne ký sinh trên cây lạc không có sẵn ở một số khu vực trên thế
giới. Ƣớc tính năng suất thiệt hại do một loài tuyến trùng gây ra thƣờng tƣơng đối khó
khăn vì thiệt hại năng suất không phải do một loài tạo ra mà thƣờng là sự kết hợp của
nhiều loài đồng thời gây ra [13].Ở Georgia, Motsinger & cs. (1976) đã tìm thấy 9,7%
của 12 khu vực khảo sát đã bị tàn phá bởi M. arenaria hoặc M. hapla. Trong 11 vùng
ở Alabama, Ingram và Rodriguez-Kabana (1980) đã tìm thấy 41,4% các vùng khảo
sát bị tàn phá bởi các loài Meloidogyne.
Thiệt hại trong các khu vực bị tàn phá có thể vƣợt quá 50%, tuy nhiên thiệt hại

thƣờng phân bố không đều và tổn thất trung bình có thể ít hơn 50%. Gần đây, thiệt hại
ƣớc tính do M. arenaria trong rễ chính của cây lạc tại những vùng sản xuất dao động
từ 0,5% ở Oklahoma tới 5,4% ở Alabama. Thiệt hại do M. hapla dao động từ 0,3% ở
Georgia tới 4,7% ở Bắc Carolina. Sasser (1979b) đã chỉ ra rằng ƣớc tính thiệt hại sản
xuất do Meloidogyne ở phía tây Châu Phi và Đông nam Châu Á là 15% [26].
M. arenaria đƣợc chỉ ra là nguyên nhân chính gây bệnh ở cây lạc tại Trung Quốc
(Zhang,1985). M. arenaria xuất hiện lần đầu tiên ở phía bắc của khu vực trồng cây lạc
còn M. hapla ở khu phía Nam. Điều tra cho thấy rằng khoảng 61% trong số diện tích
6200 ha trồng cây lạc đã bị nhiễm M. arenaria (Zhang, 1985).Trong các thí nghiệm
về tiêu diệt tuyến trùng, sản lƣợng thƣờng tƣơng quan với số lƣợng ấu trùng
Meloidogyne có trong đất. Phân tích hồi quy dữ liệu từ 16 thí nghiệm ở cây lạc trên
vùng Alabama chỉ ra rằng sản lƣợng xấu có liên quan tới số lƣợng của ấu trùng
M.arenaria trong đất xác định khi gần thu hoạch.
19

Các biện pháp phòng trừ: Sự phòng trừ Meloidogyne có thể là cần thiết đối với
một số khu vực đem lại lợi nhuận từ việc trồng cây lạc nhƣng ở một số khu vực khác
thì không. Do đó trên mỗi khu vực nên có các đánh giá dựa trên mức độ gây hại của
tuyến tùng theo các thời điểm, các loại cây trồng khác phát triển luân canh với cây lạc,
mức độ số lƣợng tuyến trùng hiện tại. Dựa vào các khảo sát, Motsinger & cs. (1976)
đã nhận thấy rằng chỉ có 26,6% diện tích trồng cây lạc ở Georgia là đáp ứng đƣợc các
quy trình trong việc hạn chế số lƣợng tuyến trùng. Tuy nhiên những điều trên không
hoàn toàn giải thích đúng cho các biện pháp bởi nó còn phụ thuộc sự luân canh và chế
độ canh tác ở những khu trồng cây lạc. Ngăn chặn sự phát triển của tuyến trùng là một
vấn đề đem lại kinh tế hơn là việc quản lý sự phát triển của chúng.
Loài tuyến trùng nội ký sinh rễ lạc Pratylenchus brachyurus
P. brachyurus là loài gây hại chính trên cây lạc. Chúng thƣờng tập trung ở các
vùng ấm trên thế giới (Loof, 1964). Steiner (1949) đã báo cáo lần đầu tiên về sự xuất
hiện của P. brachyurus ở Alabama, Mỹ vào năm 1942. Và hiện nay chúng lây nhiễm
hầu hết các vùng trồng cây lạc trên nƣớc Mỹ và một số nơi khác trên thế giới bao gồm

Ai Cập (Oteifa, 1962), Aus tralia (Colbran, 1968) và Zimbabwe (Anon, 1973). Ngoài
ra, P. coffee cũng gây hại trên cây lạc tại Ấn Độ (Chabra & Mahajan, 1976).
Triệu chứng gây hại: P. brachyurus là tuyến trùng nội ký sinh trong rễ, củ và vỏ
lạc. Steiner (1945) & Boyle (1954) đã mô tả thấy rõ sự lây nhiễm của chúng trong vỏ
lạc. Good & cs. đã chỉ ra P. brachyurus ký sinh trong rễ và củ giống nhƣ ký sinh trong
vỏ củ lạc trƣởng thành, nhƣng số lƣợng ký sinh trong vỏ nhiều hơn vì ở đó có các nốt
hoại tử tối màu. Vài trăm tuyến trùng P. brachyurus có thể xâm chiếm tạo ra một tổn
thƣơng duy nhất và lây nhiễm ở tất cả các giai đoạn phát triển. Khi chúng lây nhiễm
đƣợc vào rễ thì số lƣợng sẽ tăng lên nhanh chóng, kết quả làm cho cây héo vàng và
ảnh hƣởng tới năng suất cây lạc [20].
Trong thí nghiệm đƣợc tiến hành với đất vô trùng và sau đó lây nhiễm
P. brachyurus vào thì Boswell (1968) đã phát hiện ra rằng tuyến trùng đã trui qua vỏ
có màu vàng nhạt mỏng manh đến màu nâu bên trong vỏ để xuất hiện trong hạt. Tổn
20

thƣơng đặc trƣng trên mô vỏ là các lỗ nhỏ màu đen và gần chỗ tổn thƣơng thì màu sắc
các mô nhạt dần hơn so với phần trung tâm. Kiểm tra chặt chẽ màu sắc của các tổn
thƣơng thì thấy rằng nguyên nhân chủ yếu là do hoại tử nhu mô. Mức độ tổn thƣơng
gây ra bởi tuyến trùng không rõ ràng nhƣ mức độ tổn thƣơng đƣợc gây ra khi
Rhizotonia solani có mặt. Tổn thƣơng bị gây ra bởi 2 sinh vật trên đƣợc mô tả khá đơn
giản vì chỉ xuất hiện các đốm màu nâu chuyển thành màu đen bên trong các khu vực
hoại tử. Các tổn thƣơng có một giới hạn nhất định mặc dù hình dạng của chúng có thể
không ổn định. Tổn thƣơng bị nhiễm cả P. brachyurus và R. solani thì khi kiểm tra
bằng kính hiển vi cho thấy sự hiện diện của hạch nấm. Boswell (1968) đã mô tả các
triệu chứng của P. brachyurus gây thiệt hại trên vỏ củ lạc có sự khác nhau đôi chút
trong các vùng. Get & cs. (1958) đã phân biệt đƣợc sự tổn thƣơng trên vỏ trƣởng
thành có màu nâu tím với các tổn thƣơng gây ra bởi vi sinh vật đất thƣờng có màu tối
hơn và thƣờng không phai dần vào các mô khỏe mạnh xung quanh cũng nhƣ không
phân hủy vi sinh vật.


Hình 1.2. Tổn thƣơng trên củ lạc do P. brachyurus gây ra (theo T.E. Boswell, 1968)
Hình thức tồn tại và cách lây nhiễm: P. brachyurus rất dễ lây nhiễm vào rễ và củ
lạc bởi nó có thể chịu đƣợc nhiệt độ và độ ẩm ở mức thấp nhất, điển hình nó có thể tồn
tại ở Đông nam Mỹ trong những mô chết thực vật của mùa đông. Ở phía nam Châu
Phi, Keon (1967) đã nghiên cứu với khoai tây và ngô thì thấy rằng vào cuối mùa đông
21

có khoảng 66,1% P. brachyurus đƣợc tìm thấy trong các chất hữu cơ của đất mặc dù
các chất hữu cơ chỉ chiếm 0,29% của đất. Boswell (1968) đã tái sinh P. brachyurus từ
vỏ lạc và lƣu trữ ở 24
0
C trong khoảng 3, 6 và 28 tháng. P. brachyurus là tuyến trùng
ký sinh đa thực nên có thể tồn tại qua mùa đông trong rễ của nhiều loại cây trồng và
cỏ dại [22,40].
P. brachyurus có thể đƣợc lây nhiễm bằng nhiều cách giống nhƣ Meloidogyne. Vì
đây là một ký sinh trùng di chuyển và chúng có thể tấn công vào bất cứ cây trồng nào
trong đất. Chúng có thể dễ dàng di chuyển trong rễ và các bộ phận của cây trong đất.
Nói chung, phƣơng pháp lây lan chủ yếu là do hoạt động của con ngƣời có liên quan
đến vận chuyển các cây trong đất cũng nhƣ cách làm đất.Vỏ lạc đƣợc sử dụng nhƣ lớp
phủ và đất giống nhƣ một môi trƣờng chứa tuyến trùng sống. Ngoài ra, dòng chảy của
mạch nƣớc ngầm cũng nhƣ nƣớc tƣới tiêu là một nguyên nhân dẫn đến lây lan tuyến
trùng trong đất [23].
Yếu tố môi trường ảnh hưởng tới việc ký sinh của tuyến trùng: Sự phân bố và ký
sinh của P. brachyurus có liên quan tới nhiệt độ và thƣờng cƣ trú ở những nơi nóng
lên của thế giới (Loof, 1964). Boswell (1968) đã nghiên cứu đƣợc mức độ sinh sản tối
ƣu của tuyến trùng trong rễ và vỏ củ lạc ở nhiệt độ thích hợp là 26
0
C. Loại đất cũng có
thể ảnh hƣởng đến ký sinh của P. brachyurus trên cây lạc. Độ ẩm của đất cũng ảnh
hƣởng tới khả năng sinh sản của P. brachyurus trên cây lạc (Good & Stansell, 1965).

Biện pháp phòng trừ: Thiệt hại năng suất do P. brachyurus gây ra trên cây lạc là
tƣơng đối nhỏ so với số lƣợng các khu vực bị nhiễm. Do đó, việc phòng trừ tuyến
trùng này trên cây lạc đã không đƣợc tiến hành rộng rãi, ngoại trừ trong một số lĩnh
vực bị nhiễm nghiêm trọng và gây thiệt hại nặng với cây trồng [20].
Biện pháp canh tác: Nói chung, luân canh cây trồng để phòng trừ P. brachyurus
trên cây lạc không có hiệu quả vì tuyến trùng có khả năng ký sinh rộng rãi trên các
loại cây trồng và cỏ dại. Và cũng bởi vì có rất ít cây có thể luân canh đƣợc với cây lạc
mà không bị nhiễm tuyến trùng. Good & cs.(1954) đã tìm thấy rằng số lƣợng của
P. brachyurus trong cây ngô lớn hơn so với cây lạc khi trồng xen canh ngô với lạc.
22

Ngoài ra, ông còn quan sát thấy rằng nếu thu hoạch lạc kịp thời sẽ loại bỏ
P. brachyurus so với các vùng thu hoạch trễ, do đó tuyến trùng sót lại trong đất ít và sẽ
không lây nhiễm các vụ tiếp theo. Boswell (1968) cũng cho thấy thu hoạch kịp thời
gia tăng năng suất và giá trị của cây lạc so với thu hoạch trễ. Good & Stansell (1965)
cho thấy cây lạc bị nhiễm P. brachyurus trên đất không đƣợc tƣới tiêu sẽ có năng suất
cao hơn so với cây lạc đƣợc tƣới đầy đủ, mặc dù số lƣợng tuyến trùng trên cây lạc
đƣợc tƣới tiêu lớn hơn gấp 10 lần so với cây lạc khô.
Giống kháng: Không một giống cây lạc nào có thể kháng với P. brachyurus.
Minton & cs. (1970) đã xác định 6 giống lạc bị nhiễm bệnh giống nhau với
P. brachyurus, nhƣng các triệu chứng tổn thƣơng không dễ thấy. Smith & cs. (1978)
đã giới thiệu đƣợc 2 giống kháng là PI 290606 và PI 295233. Starr (1984) sau đó công
nhận những phát hiện của họ và giới thiệu bổ sung thêm cây kháng là PI 365553.
Biện pháp hóa học: Sự phá hoại nghiêm trọng của P. brachyurus có thể làm giảm
năng suất nhiều cũng nhƣ vài trăm kg mỗi ha. Những nơi xảy ra phá hoại nghiêm
trọng thì điều trị bằng phƣơng pháp hóa học là hiệu quả nhất. Phòng trừ loài tuyến
trùng Meloidogyne cũng phòng trừ luôn cả P. brachyurus [26,39].
Loài tuyến trùng ngoại ký sinh rễ lạc Belonolaimus longicaudatus
Đây là tuyến trùng dạng chích hút, B. longicaudatus, chúng tồn tại trong đất cát
dọc theo đồng bằng ven biển Đại Tây Dƣơng từ Connecticut và New Jersey tới

Florida và Westward Texas, Oklahoma, Arkansas, Kansas và ở Mỹ. B. longicaudatus
ký sinh trên cây lạc ở hầu hết các quốc gia sản xuất cây lạc, thiệt hại ƣớc tính đã đƣợc
báo cáo ở Virginia, Bắc Carolina và Oklahoma (Anon, 1987). Cooper & cs. (1959)
báo cáo rằng B. longicaudatus đã đƣợc tìm thấy ở 16 nƣớc trồng cây lạc thuộc phía
bắc Carolina và trong đó có 8 nƣớc sản xuất cây lạc chủ yếu. Ở Virginia, B.
longicaudatus là một vấn đề hết sức nghiêm trọng vì trong vòng chƣa đầy 5% của khu
vực trồng cây lạc đã bị nhiễm [12,13,15].
Triệu chứng: B. longicaudatus ký sinh bên ngoài, dọc theo hai bên của rễ mọng
nƣớc cũng nhƣ trên vỏ hạt non. Tổn thƣơng hoại tử nhỏ có thể đƣợc quan sát thấy trên
23

rễ, củ (Owens, 1951). Esser (1976) thấy rằng khi bị nhiễm tuyến trùng thì gốc rễ sẽ bị
sƣng và uốn ngƣợc lên trên. Nếu nhiễm nặng có thể gây ra rễ cong queo và chỉ có rễ
cái còn lại (Owens, 1951). Biểu hiện trên mặt đất thƣờng thấy cây bị còi cọc và úa
vàng. Tăng trƣởng cây lạc có thể không đồng đều trong khu vực bị nhiễm chủ yếu.
Năng suất và chất lƣợng của cây lạc có thể giảm nghiêm trọng [18].


Hình 1.3. Hệ thống rễ cây lạc bị giảm đáng kể do loài tuyến trùng B. longicaudatus
ký sinh gây ra (theo J.N. Sasser, 1960)
Phương thức tồn tại: Sự phân bố hạn chế của B. longicaudatus có thể do một số
hạn chế sinh học và môi trƣờng ảnh hƣởng đến sự phát tán của chúng. Kết quả nghiên
cứu cho thấy rằng kết cấu của đất, nhiệt độ đất và độ ẩm của đất là rất quan trọng
trong quá trình sinh sản của tuyến trùng. B. longicaudatus có thể dễ dàng tồn tại trong
môi trƣờng mới với điều kiện thuận lợi. Nó có thể di chuyển sang một địa điểm khác
bằng phƣơng pháp vận chuyển đất nhƣ các thiết bị nông nghiệp, chân động vật, nƣớc
và cấy ghép mà đất đã bị nhiễm tuyến trùng [16].
Các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến việc ký sinh: Sự phân bố hạn chế của
B. longicaudatus cho thấy rằng các yêu cầu về mặt sinh thái của nó có thể rất cụ thể.
Thames (1959) mặc nhiên công nhận rằng với kết cấu đất tốt thì sẽ gia tăng mức độ di

chuyển và sinh sản của nó. Miller (1972a) đã tìm thấy B. longicaudatus trong đất
24

trồng cây lạc ở Virginia nơi đất có hàm lƣợng cát 84-94%. Nhiệt độ và độ ẩm đất cũng
ảnh hƣởng đến sự sinh sản và sự sống còn của B. longigcaudatus. Nhiệt độ sinh sản
thuận lợi nhất là ở 25
0
C-30
0
C (Robbins & Barker, 1974) giống với kết quả thu đƣợc
của Perry (1965). Perry quan sát thấy rằng nhiệt độ lớn nhất cho sinh sản của B.
longicaudatus là ở 29,4
0
C, thấp nhất là 26,7
0
C và sinh sản sẽ giảm khi ở nhiệt độ
35
0
C. Boyd & Perry (1969) kết luận rằng tuyến trùng này hoặc là chết hoặc di cƣ
xuống đất cách mặt đất khoảng 2,5cm khi nhiệt độ là 39,5
0
C hoặc cao hơn. Robbins
và Barker (1974) đƣợc tìm thấy độ ẩm đất tối ƣu cho sinh sản là 7% [24,25,44].
Tầm quan trọng kinh tế và mức độ thiệt hại: Thiệt hại kinh tế cho cây lạc ở Mỹ do
B. longicaudatus là không lớn mặc dù có thiệt hại nghiêm trọng tuyến trùng này gây
ra. Thiệt hại do tuyến trùng này đã đƣợc báo cáo ở Bắc Carolina (0,30%), Oklahoma
(0,25%) và Virginia (0,50%) (Anon, 1987). Sản xuất nông nghiệp đã đƣợc gia tăng
lên đến 400% ở Bắc Carolina (Cooper & cs., 1959) khi xử lý đƣợc tuyến trùng này ký
sinh. Trong đó mật độ số lƣợng trung bình của B. longicaudatus là khoảng 50 trong
473cm

3
đất. Cũng ở Bắc Carolina, Sasser & cs. (1960) thấy đƣợc sự gia tăng năng
suất trên cây lạc là 109% trong đất khi số lƣợng dao động khoảng 135-205 trong mỗi
473cm
3
.
Biện pháp phòng trừ: Không giống với giống cây lạc thƣơng mại thì chúng có khả
năng chống B. longicaudatus. Với tuyến trùng này chỉ có khả năng ký chủ trên một
vài cây trồng nhƣ ngũ cốc nhỏ, thuốc lá (Nicotiana tabacum L.) và dƣa hấu (Citrullus
vulgaris).Việc trồng luân canh cây lạc với các cây trồng khác đã làm giảm số lƣợng
tuyến trùng này. Việc sử dụng các phƣơng pháp tiêu diệt truyến trùng là phƣơng tiện
chủ yếu để phòng trừ chúng. Bằng việc áp dụng 2 phƣơng pháp xông khói và không
xông khói đã làm gia tăng năng suất của cây lạc [9,10].
Loài tuyến trùng ngoại ký sinh rễ cây lạc Criconemella ornata
Tuyến trùng C. ornata có dạng vòng, chúng đƣợc tìm thấy lần đầu tiên trên cây
lạc ở Georgia (Boyle, 1950; Machmer, 1953).Và hiện giờ chúng đƣợc tìm thấy với tỷ
lệ lớn ở các vùng sản xuất lạc của Mỹ.Tuyến trùng Criconemella đã đƣợc tìm thấy ở
25

Burkina Faso (Germani & Dhery, 1974), Ai Cập (Ibrahim & El-Saedy, 1976) [21].

Hình 1.4. Con cái và trứng của loài tuyến trùng C. ornata (theo Minton & Bell.,1969)
Triệu chứng: Machmer (1953) đã mô tả cây lạc bị úa vàng ngày càng tăng ở
Georgia trong đất bị nhiễm khuẩn mạnh với một loài Criconemella mà ông gọi là
bệnh "úa vàng lạc". Mặc dù ông không xác định loài nhƣng nó có thể là C. ornata.
Barker & cs.(1982) thông báo cây lạc trồng trong nhà kính cũng có hiện tƣợng úa
vàng và rễ, củ, vỏ củ của cây lạc bị nhiễm khuẩn mạnh với C. ornata đã đổi từ màu
vàng sang màu nâu với tổn thƣơng lớn hơn. Tổn thƣơng nhỏ thƣờng không thấy rõ,
nhƣng với tổn thƣơng lớn thì thƣờng mở rộng sâu vào mô khiến nhiều rễ và rễ cái bị
chết, dẫn đến giảm số lƣợng rễ của cây. Từ đó, sản lƣợng cây lạc từ các khu vực bị

nhiễm tuyến trùng đã giảm khoảng một nửa [27].
Phương thức tồn tại phổ biến: Các thông tin liên quan đến các yếu tố ảnh hƣởng
đến sự sống còn của C. ornata thƣờng rất ít và bị hạn chế. Một số thí nghiệm đã đƣợc
thực hiện để tìm ra loại đất thích hợp cho thấy chúng thích hợp với loại đất nhẹ
(Barker, 1974) và số lƣợng sẽ giảm nhanh chóng nếu đất nghèo dinh dƣỡng. Sự phát
tán của C. ornata thƣờng xảy ra chủ yếu khi vận chuyển đất trên thiết bị nông nghiệp,
chân của động vật, trong nƣớc và trong đất bám vào cây [28].
Yếu tố môi trường ảnh hưởng đến tuyến trùng ký sinh: Các yếu tố môi trƣờng ảnh
hƣởng đến việc ký sinh trên cây lạc của C. ornata đã nhận đƣợc rất ít sự chú ý. Barker

×