Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Các giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.64 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Để thúc đẩy phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và sự phát triển của các
doanh nghiệp Việt Nam nói riêng, nhà nước đã thực hiện rất nhiều các chính sách hỗ
trợ doanh nghiệp. Bên cạnh việc hỗ trợ phát triển của nhà nước, các doanh nghiệp Việt
Nam cũng dần dần tự tạo lập các cơ hội và vị thế của mình trên trường quốc tế.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần có
những chiến lược để đạt được hiệu quả hoạt động. Một trong những chiến lược nâng
tầm doanh nghiệp Việt Nam đó là việc thâm nhập thị trường nước ngoài. Có rất nhiều
phương thức giúp cho doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường quốc tế và gây
dựng được hình ảnh tại thị trường nước ngoài. Một trong những giải pháp đó là thực
hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có phải
là một giải pháp quan trọng nhất để tăng khả năng xâm nhập thị trường nước
ngoài của các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay hay không thì cần phải xem xét vấn
đề trên nhiều khía cạnh và tiến hành so sánh với việc thực hiện các phương thức khác.
Để đưa ra được nhận định trên là đúng hay sai, Nhóm thảo luận xin trình bày vấn
đề nội dung chính như sau:
I. Khái quát về các phương thức thâm nhập thị trường nước ngoài.
II. Xu thế đầu tư ra nước ngoài tại khu vực Đông Nam Á của Việt Nam
III. Các giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
1
NỘI DUNG CHÍNH
I. Khái quát về các phương thức thâm nhập thị trường nước ngoài
1. Các phương thức thâm nhập thị trường nước ngoài:
1. 1. Xuất khẩu:
– Xuất khẩu trực tiếp: Tìm kiếm nhà phân phối ở nước ngoài, bán sản phẩm cho
họ để họ phân phối tại nước đó.
– Xuất khẩu gián tiếp: Tìm kiếm công ty trong nước có khả năng phân phối ra
nước ngoài.
Ưu điểm: khai thác được tính kinh tế của vị trí, quy mô. Không phải lập nhà máy
tại nước ngoài nên tránh được nhiều rủi ro.
Nhược điểm: chi phí vận chuyển, các rào cản thuế quan, rủi ro khi ủy thác bán


sản phẩm cho người khác.
Theo số liệu báo cáo của Tổng cục Thống kê, tính chung cả năm 2014, kim
ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 150 tỷ USD, tăng 13,6% so với năm 2013, trong đó, khu
vực kinh tế trong nước đạt 48,4 tỷ USD, tăng 10,4%, mức tăng cao nhất từ năm 2012
và đóng góp 3,5 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đạt 101,6 tỷ USD (gồm cả dầu thô), tăng 15,2%, đóng góp 10,1 điểm phần trăm
và đạt 94,4 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng 16,7%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch
hàng hóa xuất khẩu năm 2014 tăng 9,1%. Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn
nhất của Việt Nam với kim ngạch ước tính đạt 28,5 tỷ USD, tăng 19,6% so với năm
2013, thị trường tiếp theo là EU với 27,9 tỷ USD, tăng 14,7%, Trung Quốc ước tính
đạt 14,8 tỷ USD, tăng 11,8 % , Nhật Bản đạt 14,7 tỷ USD, tăng 8%, Hàn Quốc đạt 7,8
tỷ USD, tăng 18,1% .
1.2. Cấp phép:
Là chủ sở hữu trí tuệ cho phép bên nhận phép được sử dụng các bằng sáng chế,
bí quyết thương mại của mình. 3 hình thức cấp phép đó là cấp phép thương hiệu, cấp
phép bản quyền và cấp phép bí quyết kinh doanh.
Rủi ro: khả năng bị mất kiểm soát đối với tài sản trí tuệ của mình nhưng ưu điểm
là không cần nhiều vốn.
1. 3. Nhượng quyền kinh doanh
Là một hình thức cấp phép trong đó bên nhận nhượng quyền sẽ trả tiền để được
quyền sử dụng tài sản vô hình của bên nhượng quyền. Hình thức này thường được áp
dụng khi chi phí để mở ra một cửa hàng quá cao.
Doanh nghiệp nhận nhượng quyền sẽ phải ký cược, phí hợp đồng và phí nhượng
quyền theo doanh số hoặc theo thời gian. Doanh nghiệp nhận nhượng quyền cũng phải
thực hiện theo đúng các ràng buộc liên quan tới sản phẩm/dịch vụ nếu không sẽ bị hủy
bỏ.
2
1. 4. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài:
+ Công ty liên doanh: Doanh nghiệp góp vốn với một Doanh nghiệp nước ngoài
và tiến hành sản xuất kinh doanh tại nước đó.

Ưu điểm: có thể tận dụng phát triển thị trường,phân tán một phần rủi ro. Nhược
điểm có thể bị mất quyền kiểm soát vào tay đối tác cũng như khó mở thêm các công ty
con sau này.
+ Thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: doanh nghiệp bỏ 100% vốn để
xây dựng doanh nghiệp và thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài.
Ưu điểm: tăng khả năng kiểm soát đối với doanh nghiệp, tận dụng ưu thế vị trí,
quy mô Nhược điểm: chi phí lớn và rủi ro cao.
Theo số liệu báo cáo của Tổng cục Thống kê, tổng vốn đăng ký đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong năm 2011 là 82 dự án với tổng
vốn đầu tư đăng ký là 2.531 tỷ USD, năm 2012 là 84 dự án với tổng vốn đầu tư đăng
ký là 1.545,7 tỷ USD, năm 2013 là 89 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 4.420 tỷ
USD. Trong đó, số vốn dự án đăng ký đầu tư với tổng vốn đầu tư chủ yếu sang các
nước Lào, Campuchia, Venezuela, Nga, Peru…
Như vậy, nếu xét về giá trị thu được từ các hoạt động có yếu tố quốc tế, phương
thức thâm nhập thị trường nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đem lại
giá trị lớn, đóng góp lớn trong sự phát triển của kinh tế Việt Nam thì xuất khẩu chiếm
ưu thế hơn so với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Mặt khác, các doanh nghiệp xuất
khẩu Việt Nam đã khai thác và tiếp cận được các thị trường Mỹ, EU, Trung Quốc… và
đem lại nguồn thu lớn. Trong khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Việt Nam lại tập trung chủ yếu sang các nước trong khu vực, đầu tư chủ yếu vào lĩn
vực viễn thông, năng lượng… Điều này cho thấy rằng, tính đến thời điểm này các
doanh nghiệp Việt Nam thông qua xuất khẩu có khả năng thâm nhập thị trường nước
ngoài cao hơn so với phương thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
2. Khái niệm về đầu tư
2.1. Đầu tư:
Có khá nhiều khái niệm về đầu tư được các nhà kinh tế học đưa ra. P.A.
Samuelson cho rằng, đầu tư là hoạt động tạo ra tư bản thực sự. Đầu tư có thể dưới
dạng vô hình như đầu tư cho giáo dục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nghiên
cứu phát minh. Theo ông, trong lĩnh vực tài chính, đầu tư có ý nghĩa hoàn toàn khác.
Còn theo Pierce Conso, đầu tư có thể xem xét theo cách tiếp cận khác nhau như theo

quan điểm kinh tế, tài chính và kế toán. Theo cuốn “từ điển kinh tế”, đầu tư bao gồm
đầu tư tài chính và đầu tư tài sản vật chất. Đầu tư tài sản vật chất là hoạt động chi dùng
vốn vào việc mua sắm các tài sản vật chất như nhà xưởng, máy móc thiết bị (tài sản cố
định) và các tài sản tồn trữ (hàng tồn kho). Đầu tư tài sản vật chất tạo ra những tài sản
3
mới cho nền kinh tế, trong khi đầu tư tài chính chỉ thuần túy là việc chuyển quyền sở
hữu những tài sản hiện có từ chủ này sang chủ khác.
Có thể thấy khái niệm đầu tư được hiểu khá rộng. Theo nghĩa rộng, Đầu tư có
thể hiểu là sự hy sinh nguồn lực hiện tại để đạt được một hay tập hợp mục đích
(mục tiêu) của nhà đầu tư trong tương lai.
Theo nghĩa hẹp, Đầu tư là việc chi dùng vốn và các nguồn lực khác trong hiện
tại nhằm thu về một kết quả lớn hơn nguồn lực đã chi ra để đạt kết quả đó, duy trì
và tạo thêm những tài sản mới, năng lực mới cho nền kinh tế và cho chủ đầu tư
trong tương lai.
Theo quy định tại Luật Đầu tư: Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại
tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu
tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Có hai đặc trưng quan trọng để phân biệt một hoạt động được gọi là đầu tư hay
không, đó là: tính sinh lãi và độ rủi ro của công cuộc đầu tư. Thực vậy, người ta không
thể bỏ ra một lượng tài sản mà lại không dự tính thu được giá trị cao hơn giá trị ban
đầu. Tuy nhiên, nếu mọi hoạt động đầu tư nào cũng sinh lãi thì trong xã hội thì ai cũng
muốn trở thành nhà đầu tư. Chính hai thuộc tính này đã sàng lọc các nhà đầu tư và
thúc đẩy sản xuất – xã hội phát triển.
Qua hai đặc trưng trên cho thấy, rõ ràng mục đích của hoạt động đầu tư là lợi
nhuận. Vì thế, cần hiểu rằng bất kỳ sự chi phí nào về thời gian, sức lực và tiền bạc vào
một hoạt động nào đó mà không có mục đích thu lợi nhuận thì không thuộc về khái
niệm về đầu tư.
2.2. Đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài là sự dịch chuyển tài sản như vốn, công nghệ, kỹ năng
quản lý từ nước này sang nước khác để kinh doanh nhằm thu lợi nhuận cao trên

phạm vi toàn cầu.
Theo Luật Đầu tư quy định: Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn
bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành
hoạt động đầu tư.
Các hình thức đầu tư nước ngoài.
- Theo tính chất quản lý: Đầu tư trực tiếp (FDI-Foreign Direct Investment) và
đầu tư gián tiếp (PFI-Portfolio Foreign Investment).
+ Đầu tư trực tiếp là hình thức mà trong đó các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu
tư sang nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quá trình sử dụng và thu hồi số
vốn đầu tư bỏ ra.
+ Đầu tư gián tiếp thường do Chính phủ các nước, tổ chức quốc tế và các tổ
chức phi chính phủ của một nước cho một nước khác (thường là nước đang phát triển)
4
vay vốn dưới nhiều hình thức viện trợ hoàn lại và không hoàn lại. Theo loại hình này
bên nhận vốn có toàn quyền quyết định việc sử dụng vốn như thế nào để đạt được kết
quả cao nhất, còn bên cho vay hoặc viện trợ không chịu rủi ro và hiệu quả vốn vay.
Loại hình đầu tư này thường kèm theo điều kiện ràng buộc về kinh tế hay chính trị cho
nước nhận vốn. Do vậy hình thức đầu tư này không chiếm tỷ trọng lớn trong vốn đầu
tư quốc tế, nó thường chỉ dùng cho các nước đang phát triển có nhu cầu cấp thiết về
vốn.
- Theo chiến lược đầu tư: Đầu tư mới và Mua lại & Sát nhập
+ Đầu tư mới (Greenfield Investment): Là việc các chủ đầu tư thực hiện đầu tư
mới ở nước ngoài thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới. Đây là kênh đầu tư
truyền thống của FDI và cũng là kênh chủ yếu để các nhà đầu tư các nước phát triển
đầu tư vào nước đang phát triển.
+ Mua lại và sát nhập (Mergers and Accquistions): Là hình thức khi các chủ đầu
tư thông qua việc mua lại và sát nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài. Kênh
này chủ yếu ở các nước phát triển NICs (Các nước công nghiệp mới).
- Đầu tư theo chiều dọc và đầu tư theo chiều ngang.
+ Đầu tư theo chiều dọc (Vertical Intergration – Tích hợp dọc): Các nhà đầu tư đi

chuyên sâu vào một hoặc một vài mặt hàng. Ở các loại mặt hàng này các nhà đầu tư
sản xuất từ A đến Z. Đây là hình thức khi nhà đầu tư thực hiện đầu tư ra nước ngoài
với mục đích khai thác nguồn nhiên liệu tự nhiên và các yếu tố đầu vào rẻ (lao động,
đất đai,…). Ưu điểm: Lợi nhuận cao vì lấy được ở tất cả các khâu nhưng rủi ro cao, thị
trường không rộng.
+ Đầu tư theo chiều ngang (Horizontal Intergration – Tích hợp ngang): Nhà đầu
tư mở rộng và thôn tính thị trường nước ngoài cùng một loại sản phẩm có lợi thế cạnh
tranh ở nước ngoài, hình thức này thường dẫn đến độc quyền. Theo hình thức này, nhà
đầu tư tổ chức kinh doanh nhiều nhóm sản phẩm và hàng hóa trên phạm vi rộng. Hình
thức này có ưu điểm rủi ro thấp nhưng lợi nhuận không cao
3. Động lực đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam.
- Đầu tư ra nước ngoài là hoạt động có tiềm năng lớn trong việc giúp doanh
nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường, tránh những hàng rào bảo hộ thương mại của
nước nhận đầu tư, giúp doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với khoa học công nghệ cao,
đồng thời học hỏi những ứng dụng trong công nghệ thông tin, kinh nghiệm quản lý, từ
đó nâng cao năng lực của mình.
- Do sự khác biệt về nguồn lực để phục vụ cho hoạt động sản xuất của các quốc
gia như vốn, lao động, công nghệ… cũng như cách thức, cơ chế quản lý dẫn đến sự
khác nhau về sản phẩm, giá cả, lợi thế cạnh tranh, vấn đề chuyên môn hóa hay độc
quyền, thương hiệu…;
5
- Do sự thúc đẩy của việc thu được những lợi ích cho doanh nghiệp, các nhà đầu
tư khi tham gia góp vốn, đầu tư, tạo được những vị thế mới trên trường quốc tế của các
doanh nghiệp Việt Nam, khai thác được hiệu quả các yếu tố đầu vào, công nghệ, môi
trường kinh doanh được cải thiện.
- Do những nhiệm vụ về kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục thúc đẩy mối quan
hệ đầu tư giữa các quốc gia để đạt được những mục đích nhất định.
II. Tình hình đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á
1. Xu thế đầu tư
Bên cạnh thành công tại thị trường nội địa, nhiều doanh nghiệp đang giang rộng

đôi tay ra các thị trường ngoài biên giới đặc biệt tại khu vực Đông Nam Á. Đến hết
năm 2014, hoạt động đầu tư ra nước ngoài tại khu vực Đông Nam Á của các doanh
nghiệp Việt Nam bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan, khẳng định sự nỗ lực
và bản lĩnh của doanh nghiệp Việt, và mở ra một cánh cửa với nhiều hi vọng cho
những chiến lược kinh doanh mới. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, lập cơ sở
làm ăn tại nước ngoài tại khu vực Đông Nam Á sẽ giúp doanh nghiệp có điều kiện mở
rộng thị trường, đồng thời doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với khoa học công nghệ
cao, học hỏi những ứng dụng trong công nghệ thông tin, từ đó nâng dần năng lực cạnh
tranh.
- Hòa vào xu hướng hội nhập: Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chính
thức khởi động từ năm 1989, ở giai đoạn đầu của xu hướng được xem là những bước
thăm dò cơ hội. Những năm vừa qua, làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tại khu
vực Đông Nam Á của các doanh nghiệp Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ. Song, nếu
nói về số lượng và quy mô của dự án đầu tư ra nước ngoài phải nhắc đến giai đoạn
2006 - 2012. Các dự án tập trung chủ yếu vào lĩnh vực trồng cây công nghiệp, lĩnh vực
sản xuất điện, lĩnh vực viễn thông Dự kiến năm 2015, Việt Nam sẽ đầu tư 4 tỷ USD
vào Campuchia. Theo mục tiêu kế hoạch của Chính phủ 2 nước, phấn đấu đến năm
2020, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam vào Campuchia đạt 6 tỷ USD,
gấp 2 lần so với năm 2013. Trong đó, năm 2015 đạt từ 4 đến 4,2 tỷ USD. Riêng về
thương mại và du lịch sẽ tạo nhiều đột phá: Kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đến
năm 2020 đạt 6,5 tỷ USD, trong đó năm 2015 đạt 5 tỷ USD, gấp 1,9 lần so với năm
2013; Khách du lịch hai chiều Việt Nam - Campuchia tăng trưởng trên 30%/năm, đạt
2,5 triệu lượt vào năm 2020 và 1,6 triệu lượt vào năm 2015. Theo đánh giá của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, hoạt động đầu tư ra nước ngoài đã từng bước đi vào nề nếp, có một
số dự án đã bước đầu thành công và đã chuyển lợi nhuận về nước. Xu hướng đầu tư ra
nước ngoài tại khu vực Đông Nam Á đang có sự gia tăng đáng kể vào những địa bàn
phù hợp với định hướng đầu tư ra của Việt Nam, và vào những ngành, lĩnh vực chiến
lược Việt Nam có kinh nghiệm như thủy điện, trồng cây công nghiệp, viễn thông,
6
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài tại khu vực Đông Nam Á đã tạo ra việc làm cho hàng

nghìn lao động Việt Nam và hàng vạn lao động của nước tiếp nhận đầu tư. Trải qua
từng năm với những bước đi cẩn thận nhưng tính đa dạng của hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài tại khu vực Đông Nam Á cũng thể hiện khá rõ nét về thị trường đầu
tư đa dạng, về ngành nghề, về quy mô, hình thức đầu tư, về các thành phần kinh tế và
loại hình doanh nghiệp tham gia đầu tư. Việc xúc tiến đầu tư ra nước ngoài bắt đầu có
sự chuyển hướng. Bên cạnh mục tiêu kết nối, tìm kiếm cơ hội đầu tư ở nước ngoài,
còn có mục tiêu hỗ trợ, thúc đẩy triển khai có hiệu quả các dự án đã có, định hướng dự
án đầu tư mới vào ngành, lĩnh vực, địa bàn thuận lợi, có lợi ích gắn với nền kinh tế
trong nước.
- Phát huy tối đa những lợi thế: Theo định hướng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
sẽ có cơ chế đặc thù đối với hoạt động đầu tư sang các nước lân cận và Việt Nam có
nhiều lợi thế đẩy mạnh hoạt động, khai thác thị trường như Lào, Campuchia. Những
năm qua, Campuchia và Lào là một trong những địa điểm đầu tư được các doanh
nghiệp Việt Nam chú ý bởi thuận lợi về mặt địa lý sẽ bổ trợ tích cực cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh ở trong nước. Hãng Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) đã
góp 49% vốn thành lập Hãng hàng không quốc gia Campuchia. Cùng đó, BIDV đã
góp vốn thành lập Công ty cổ phần Đầu tư và phát triển IDCC với vốn điều lệ 100
triệu USD thành lập Ngân hàng Đầu tư phát triển Campuchia (BIDC). Đồng thời
IDCC sẽ thành lập Công ty cổ phần Bảo hiểm Việt Nam - Campuchia (CIV), trong đó
IDCC nắm giữ 90% vốn điều lệ. Công ty Viễn thông Quân đội (Viettel) đầu tư 27 triệu
USD tại Campuchia để khai thác mạng viễn thông di động. Theo số liệu của Cục Đầu
tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Việt Nam đã có 222 dự án được cấp phép đầu
tư tại Lào với tổng vốn đăng kí đầu tư là 3,8 tỷ USD. Còn, như số liệu của Hội đồng
Phát triển Campuchia, doanh ngiệp Việt Nam đã đầu tư trên 1,5 tỷ USD vào
Campuchia trong tổng vốn 50 tỷ USD FDI của 2.000 dự án đã được Campuchia cấp
phép. Tập đoàn cao su Việt Nam (VRG) đang đầu tư trồng cao su tại Lào và
Campuchia. Từ năm 2007, tập đoàn bắt đầu tiến hành khảo sát và hướng tới trồng
100.000 ha cao su ở hai nước này. Ông Huỳnh Trung Trực, Phó tổng giám đốc VRG
cho biết, đến nay tập đoàn đang có 19 doanh nghiệp hoạt động tại Campuchia. Năm
2012, VRG đã trồng được 70.000 ha cao su và trồng mới 25.000 ha. Đến năm 2014

trồng đạt 100.000 ha. Tổng mức đầu tư các dự án trồng cao su ở nước ngoài là 1 tỷ
USD. Hiện nay, Myanmar là thị trường đang được nhiều doanh nghiệp Việt Nam chú
ý. Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai là nhà đầu tư Việt Nam đầu tiên đầu tư vào lĩnh vực
khách sạn và du lịch mà cũng là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất (chiếm 26%) trong
tổng vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực khách sạn du lịch và trung tâm thương mại
tại Myanmar. Ngày 18/12/2012, HAGL đã kí kết hợp đồng Xây dựng-Kinh doanh-
7
Chuyển giao (BOT) và Hợp đồng thuê đất với Tổng cục Khách sạn du lịch Myanmar.
Dự án có tổng diện tích 8 hecta, tọa lạc ngay trung tâm Cố đô Yangon, thành phố lớn
nhất Myanmar với tổng mức đầu tư khoảng 300 triệu USD. Thời gian hoàn thành dự
án từ 6 đến 7 năm nữa. Theo kế hoạch, dự án sẽ được chia thành 2 giai đoạn. Giai
đoạn 1, từ năm 2013 – 2015, xây dựng trung tâm thương mại, tòa nhà văn phòng cho
thuê 1 và khách sạn 5 sao. Giai đoạn 2 sẽ làm từ 2016 - 2018, gồm khu căn hộ cho
thuê và tòa nhà văn phòng cho thuê 2.
2. Mục tiêu đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam
Xét theo khía cạnh kinh doanh, mục tiêu của đầu tư là lợi nhuận. Tuy nhiên,
trong tổng thể nền kinh tế, ngoài mục tiêu kinh tế còn có những mục tiêu về chính trị
và xã hội… mà các Doanh nghiệp chính là cầu nối mật thiết để thực hiện được các
mục tiêu đó.
Thứ nhất, chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước
Một nước thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu
vốn thường có năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển
dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
Thứ hai, chu kỳ sản phẩm
Sản phẩm mới đầu được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được
xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới
làm nhu cầu trên thị trường nội địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất
để thay thế sản phẩm nhập khấu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thuật của
nước ngoài. Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước bão
hoà, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện. Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn

đến sự hình thành FDI.
Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai
đoạn chuẩn hoá trong chu kỳ phát triển của mình cũng là lúc thị trường sản phẩm này
có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh tranh
giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết định cắt
giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các n.hà cung cấp chuyên sản xuất sản phẩm
sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn.
Thứ ba, lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia
Stephen H. Hymes (1960, công bố năm 1976), John H. Dunning (1981), Rugman
A.A (1987) và một số người khác cho rằng các công ty đa quốc gia có những lợi thế
đặc thù ( chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi
phí ở nước ngoài nên họ sẵn sang đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm
đầu tư, những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện ( lao động, đất đai,
chính trị ) cho phép họ phát huy các lợi thế đặc thù nói trên.
8
Thứ tư, tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại
song phương. Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản
có thặng dư thương mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song
phương. Đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ
sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ và Châu Âu, để giảm xuất khẩu các sản
phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó
xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ và Châu Âu.
Thứ năm, khai thác chuyên gia và công nghệ
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn nhằm mục đích khai thác chuyên gia và công
nghệ ở nước nhận đầu tư.
Thứ sáu, tiếp cận nguồn tài nguyên
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn giúp tiếp cận với nguồn tài nguyên đặc biệt là
các nguồn tài nguyên ít có ở các nước đi đầu tư.
3. Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam

Thời gian qua, đã có nhiều doanh nghiệp, cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài
nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, kinh doanh thương mại xuất
nhập khẩu, tìm kiếm nguồn tài nguyên (đất đai, khoáng sản). Thủ tướng đã phê duyệt
Quyết định 236/QĐ-TTg về thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài với mục tiêu thúc đẩy hơn
nữa hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động tại Việt Nam
ra nước ngoài nhằm chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện mục tiêu
này, công tác xúc tiến đầu tư đóng một vai trò quan trọng.
Năm 2014, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mà cụ thể là Cục Đầu tư nước ngoài đăng ký
8 hoạt động xúc tiến đầu tư, trong đó có 4 đoàn công tác tại các thị trường quan trọng
và tiềm năng để khảo sát cơ hội đầu tư (tại Myanmar) và hỗ trợ thúc đẩy triển khai dự
án đã có (tại Lào và Campuchia). Các hoạt động khác bao gồm: tổ chức Hội nghị
XTĐT Việt Nam – Lào theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, xây dựng chiến lược
đầu tư sang Lào, rà soát toàn bộ các dự án đầu tư ra nước ngoài và xuất bản sách về
chính sách pháp luật liên quan đến đầu tư ra nước ngoài. Đây là các hoạt động đã được
tiến hành đều đặn từ 03 năm trở lại đây và cần thiết duy trì để đáp ứng nhu cầu thúc
đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài đi vào hiệu quả, đặc biệt theo Chỉ thị 26/CT-TTg
ngày 23/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh hoạt động đầu tư sang
Lào và Campuchia.
3.1. Đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường Lào
Theo thông tin chưa đầy đủ, hiện có khoảng 150 doanh nghiệp Việt Nam đang
hoạt động tại Lào dưới các hình thức công ty liên doanh, văn phòng đại diện, cửa
hàng, siêu thị với số vốn đăng ký hơn 5 tỷ USD.
9
Tính đến nay, đã có trên 423 dự án của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang thị
trường Lào, với tổng số vốn đăng ký hơn 5 tỷ USD. Lào là một trong những địa chỉ
sớm nhất tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam. Các
doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trong hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế của Lào
như nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, viễn thông, thuỷ điện, chế biến gỗ,
khai khoáng, thương mại, khách sạn-nhà hàng, ngân hàng Những doanh nghiệp tiên
phong trong lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài chủ yếu là những công ty Nhà nước, thực

hiện đầu tư dưới hình thức Liên doanh và hoạt động theo các chương trình hợp tác đầu
tư giữa hai nhà nước Việt Nam và Lào. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư trong thời kỳ này
khá nhỏ lẻ và cầm chừng. Sau năm 1994, hoạt động đầu tư trực tiếp sang Lào của
doanh nghiệp Việt Nam vẫn dậm chân tại chỗ, từ năm 1995 đến năm 1997, không một
dự án nào đầu tư sang Lào được thực hiện thêm. Đến năm 1998, hoạt động này mới
hồi sinh trở lại, đánh dấu bằng sự kiện Công ty hợp tác kinh tế Quân khu 4, thuộc Bộ
Quốc phòng đầu tư 1,5 triệu USD sang Lào để thực hiện dự án xây dựng nhà cửa, cầu,
đường, công trình thuỷ lợi và các công trình kết cấu hạ tầng khác. Bước sang năm
1999, Nghị định 22/1999 về đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài
được ban hành, điều này thể hiện sự công nhận về mặt luật pháp đối với lợi ích của các
dự án đầu tư ra nước ngoài. Trong năm này, số lượng dự án đầu tư ra nước ngoài tăng
vọt lên tới 5 dự án, với tổng số vốn đầu tư lên tới hơn 4 triệu USD, đặc biệt đã xuất
hiện dự án đầu tư của doanh nghiệp tư nhân bên cạnh dự án đầu tư của các doanh
nghiệp nhà nước. Đó là dự án đầu tư kinh doanh tân dược, dụng cụ y tế, hoá chất của
Công ty TNHH Dược phẩm Đông Dương với tổng số vốn đầu tư là 150.000 USD.
Liên tiếp từ năm 1998 cho tới nay, năm nào cũng có doanh nghiệp Việt Nam đầu tư
sang Lào.
Ví dụ điển hình trong việc khái thác thị trường Lào của các doanh nghiệp Việt
Nam là công ty cổ phần Đầu tư Quốc tế (Viettel Global) là doanh nghiệp viễn thông đi
đầu trong việc đầu tư sang Lào và đạt được nhiều thành công. Viettel Global hoạt động
theo Giấy phép kinh doanh số 0103020282 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà
Nội cấp lần đầu ngày 24/10/2007. Cổ đông sáng lập lớn nhất là Tổng Công ty Viễn
thông Quân đội (51%). Ngày 07/02/2008, Viettel Global chính thức nhận giấy phép
đầu tư ra nước ngoài của Chính phủ Việt Nam để thực hiện dự án tại Lào. Ngày
21/02/2008, doanh nghiệp nhận giấy phép đầu tư và thành lập công ty Star Telecom tại
Đường Nongbone, phường Phonesay, quận Saysettha, thành phố Vientiane, CHDCND
Lào. Hình thức đầu tư là liên doanh với công ty Laos Asia Telecom (LAT), trực thuộc
Bộ Quốc phòng Lào theo cơ cấu vốn góp Viettel Global đóng góp 49% (vốn bằng thiết
bị trong thời gian 1 năm kể từ khi thành lập liên doanh; LAT góp 51% vốn bằng giá trị
10

tài sản và mạng lưới hiện có (sau khi được định giá lại) ngay sau khi liên doanh được
thành lập.
Tổng mức đầu tư của dự án là 83,7 triệu USD (tương đương 844.478 triệu Kíp
Lào, 1.344.086.067.109,8 VND), bao gồm: (1) Thiết bị mạng và truyền dẫn đầu tư
mới: 61,34 triệu USD, trong đó Viettel đóng góp 15,9 triệu USD; (2) Tài sản thiết bị
của LAT chuyển sang: 16,55 triệu USD. Chỉ sau hai năm hoạt động tại thị trường Lào,
Unitel đã đứng đầu về số lượng thuê bao phát triển mới, lũy kế hệ thống đạt trên 1,6
triệu thuê bao, tăng từ 35% vào cuối năm 2010 lên 42% vào cuối năm 2011, dẫn đầu
về thị phần di động tại Lào. Riêng mạng 2G và 3G đã có 500 trạm, đã phủ được 100%
trung tâm huyện. Nhằm phát triển mạng lưới, Công ty đã triển khai thêm được
3500km cáp quang, phủ khắp 17 tỉnh, thành trên đất nước Lào. Công ty cũng đã phối
hợp với Viettel Vietnam và Viettel Cambodia hoàn thành xây dựng mạng đường trục
Việt Nam - Lào - Campuchia sử dụng công nghệ ghép kênh quang theo bước sóng
(DWDM) với tổng dung lượng 400Gb/s kết nối với nhiều cửa khẩu tạo thuận lợi cho
việc phát triển kinh tế và cho người dân trong khu vực. Tính đến tháng 7/2012, Unitel
đã triển khai được mạng truyền dẫn cáp quang lớn nhất tại Lào với 17.000 km, phủ
sóng khắp các tỉnh, thành, kể cả các vùng biên giới xa xôi. Unitel đã đầu tư, xây dựng
hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật sâu rộng với 2.500 trạm phát sóng 2G và 3G, phủ
sóng 100% số huyện và 95% dân số Lào. Nếu như thời điểm năm 2008, công ty chỉ có
4 cửa hàng và 20 đại lý, thì nay đã có hệ thống phân phối tới từng bản, làng với 143
cửa hàng, 15.000 đại lý, điểm bán, với hàng nghìn nhân viên bán hàng trực tiếp trên
toàn quốc. Unitel trở thành mạng viễn thông lớn nhất tại Lào cả về khách hàng, vùng
phủ sóng và doanh thu. Số thuê bao của Unitel cũng phát triển nhanh và đầy ấn tượng,
từ 266 nghìn thuê bao (năm 2009) lên 1,7 triệu thuê bao vào tháng 07/2012. Nỗ lực
đầu tư đó khiến Unitel bỏ xa ba nhà mạng còn lại vốn đã hoạt động tại Lào từ 10-15
năm trước. Năm 2011, Unitel đạt doanh thu gần 900 tỷ Kíp (tương đương 110 triệu
USD), gấp 11 lần so với năm 2009, đóng góp cho nhân sách nhà nước Lào gần 220 tỷ
Kíp (khoảng 27,4 tỷ USD). Năm 2012 doanh thu ước tính đạt 158 triệu USD, lợi
nhuận sau thuế 45 triệu USD và nộp ngân sách cho Nhà nước khoảng 43 triệu USD.
Tổ chức viễn thông thế giới Terrapinn (Úc) bình chọn Unitel là một trong 5 nhà khai

thác viễn thông xuất sắc của khu vực châu Á.
3.2. Đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường Campuchia
Theo ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư Việt Nam sang
Campuchia, đến hết năm 2013, tổng số vốn đầu tư đăng ký của Việt Nam vào
Campuchia đạt trên 3 tỷ USD với 127 dự án, gấp gần 6 lần về tổng vốn đầu tư và trên
3 lần về số lượng dự án so với trước năm 2010, xếp thứ 5 trong số các nhà đầu tư nước
ngoài tại Campuchia.
11
Các dự án được triển khai đồng bộ trên các lĩnh vực trọng yếu, qua đó gia tăng
tính chất quan trọng của hợp tác kinh tế, nhiều dự án lớn có tác động thúc đẩy phát
triển kinh tế-xã hội Campuchia như nông, lâm nghiệp, năng lượng, tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm, viễn thông…
Nhiều dự án lớn đã và đang được triển khai như dự án trồng cây cao su của
Hoàng Anh Gia Lai, dự án thành lập Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Campuchia, liên
doanh hàng không Campuchia – Việt Nam, viễn thông Metfone, Nhà máy sản xuất
phân bón Năm Sao Campuchia, dự án Nhà máy sản xuất phức hợp đường, ethanol và
Nhiệt điện tại tỉnh Kratie, Campuchia…
Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam–Campuchia tăng trưởng tốt nhất
trong thời gian qua, năm 2012, kim ngạch thương mại hai chiều hai nước đạt trên 3,2
tỷ USD. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Campuchia là xăng dầu, sắt
thép, hàng dệt may, máy móc nông nghiệp, hóa chất, phân bón Việt Nam nhập khẩu
chủ yếu từ Campuchia là mủ cao su, gỗ và các sản phẩm từ gỗ, nguyên liệu thuốc lá
Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Campuchia trong số hơn 140 quốc gia
và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại với Campuchia.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư tại Campuchia cũng tích cực
tham gia các chương trình an sinh xã hội, tiếp tục góp phần nâng cao đời sống cho
nhân dân Campuchia và tạo dựng hình ảnh doanh nghiệp có trách nhiệm với cộng
đồng. Tổng số tiền thực hiện cho chương trình an sinh xã hội trong thời gian qua đạt
trên 35 triệu USD.
3.3. Đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam tại Thị trường Malaysia:

Mặc dù trong số những thị trường Đông Nam Á có sự góp mặt của các doanh
nghiệp Việt Nam, Malaysia là địa điểm đầu tư mới mẻ nhất, bên cạnh Indonesia, song
đất nước này đã chứng tỏ sự hấp dẫn của mình đối với các doanh nghiệp của chúng ta.
Dự án đầu tiên trên đất Malaysia là vào năm 2003 trong lĩnh vực công nghiệp dầu khí
với số vốn đầu tư 6.8 triệu USD. Từ đó cho đến nay, năm nào Malaysia cũng nhận
được vốn đầu tư từ các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó Tổng công ty dầu khí Việt
Nam tăng vốn vào năm 2005 để tiếp tục thực hiện dự án thăm dò, khai thác dầu khí.
Các dự án còn lại là trong lĩnh vực giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Đây cũng
chính là thế mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, phần nào do các dự án này có thời gian đầu tư tương đối dài (trên 20
năm, trừ dự án đầu tiên) và là những dự án đòi hỏi trình độ công nghệ và kỹ thuật cao,
cho nên, trong những năm đầu tiên, vốn đầu tư thực hiện dự án còn khá thấp. Cho đến
cuối năm 2006, các dự án này mới triển khai được 300 nghìn USD, chỉ chiếm 1,6%
tổng số vốn đầu tư.
12
Thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Malaysia trong hai tháng đầu năm 2013
đạt 1,466 tỷ USD, trong đó xuất khẩu từ Việt Nam sang Malaysia đạt 781,7 triệu USD,
và Việt Nam nhập khẩu từ Malaysia 685,07 triệu USD. Theo đó, Việt Nam xuất siêu
96,6 triệu USD sang Malaysia. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang
Malaysia trong 2 tháng đầu năm là dầu thô, máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện,
điện thoại và linh kiện, cao su. Đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu là mặt hàng dầu thô,
đạt 256,9 triệu USD, tiếp đến là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt tổng giá
trị gần 164 triệu USD.
Về đầu tư sang Malaysia, hiện Việt Nam đang có 9 dự án đầu tư tại Malaysia với
tổng số vốn đăng ký đầu tư là 412,9 triệu USD.
3.4. Đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường Indonesia:
Cùng với Malaysia, Indonesia là thị trường được Tổng Công ty Dầu khí Việt
Nam nhắm tới nhằm mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Ra quân đồng
loạt cả trên 2 thị trường này vào năm 2010, song cho đến nay, do tính chất bất ổn của
thị trường Indonesia nên hầu như dự án đầu tư của công ty không triển khai thêm được

bước nào. Và từ năm 2010 cho đến nay, cũng chỉ mới có 2 dự án đầu tư của Tổng
Công ty Dầu khí Việt Nam đầu tư vào Indonesia với tổng số vốn là 9.4 triệu USD
trong thời gian 5 năm, và 2 dự án này cũng đang trong tình trạng dậm chân tại chỗ, có
nguy cơ phá sản. Indonesia thực chất cũng là một thị trường khá hấp dẫn. Tuy nhiên,
môi trường đầu tư ở đây thường xuyên bất ổn nên gây ra tâm lý e ngại cho các nhà đầu
tư nói chung chứ không riêng gì doanh nghiệp Việt Nam.
3.5. Đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường Thái Lan:
Trước khi đặt chân tới Malaysia và Indonesia thì các doanh nghiệp Việt Nam đã
ghé qua vùng đất Thái Lan. Dường như các doanh nghiệp của chúng ta chưa mặn mà
với đất nước tươi đẹp này. Cho đến nay, chỉ có 2 dự án đầu tư trực tiếp của doanh
nghiệp Việt Nam được thực hiện trên đất Thái. Đó là các dự án sản xuất và kinh doanh
dầu nhờn vào năm 2000, và dự án thiết kế và cung cấp các phần mềm tin học vào năm
2001. Quy mô vốn của 2 dự án này khá nhỏ, trung bình khoảng 150 nghìn USD.
4. Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài
Thời gian qua, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam gia
tăng mạnh mẽ cùng với sự quan tâm của các cấp, các ngành. Mặt được của hoạt động
này là tạo sự quan tâm của doanh nghiệp đối với các cơ hội đầu tư ra nước ngoài,
khuyến khích doanh nghiệp tìm kiếm các dự án đầu tư phù hợp, cung cấp thông tin cần
thiết để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình nghiên cứu thị trường đầu tư và
đặc biệt là thể hiện cam kết của chính phủ trong việc hỗ trợ doanh nghiệp trong quá
trình triển khai dự án tại nước ngoài thông qua quan hệ hợp tác với chính phủ nước
13
ngoài; các thỏa thuận, cam kết với chính phủ, địa phương nước sở tại. Tại các thị
trường Lào, Campuchia, nhiều hội nghị xúc tiến đầu tư cấp nhà nước với sự tham dự
của Thủ tướng chính phủ hai nước đã được tổ chức từ năm 2009 đến nay đã góp phần
gia tăng quy mô số lượng dự án, vốn đầu tư sang hai địa bàn này. Nhiều dự án, thỏa
thuận hợp tác đầu tư đã được ký kết triển khai sau các hội nghị này.
Tuy nhiên, công tác xúc tiến đầu tư ra nước ngoài hiện nay còn tồn tại một số
vấn đề: nhiều hoạt động tổ chức dồn dập, quy mô lớn gây lãng phí, chưa có hiệu quả

tương xứng (chủ yếu là các hội nghị xúc tiến đầu tư), các hoạt động hỗ trợ thiết thực
cho doanh nghiệp, khảo sát thị trường kết nối đầu tư còn ít, chưa được quan tâm đúng
mức; các tài liệu hướng dẫn, giới thiệu cơ hội đầu tư còn ít, chưa cập nhật, nhân sự và
cơ quan đầu mối tập trung vào hoạt động xúc tiến, hỗ trợ đầu tư còn thiếu.
4.1. Về phía doanh nghiệp:
- Vốn đầu tư thực hiện từ các dự án đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam khá
thấp. Những nguyên nhân chính là do khả năng tài chính của các doanh nghiệp Việt
Nam còn khá hạn chế, trong khi việc vay ngoại tệ để đầu tư ra nước ngoài gặp rất
nhiều khó khăn.
- Các dự án đầu tư sang thị trường các nước Đông Nam Á mới chủ yếu để phục
vụ cho việc tiêu dùng ở thị trường nội địa, tỷ lệ xuất khẩu thông qua dự án chưa nhiều.
- Nhiều doanh nghiệp VN chưa đầu tư ra nước ngoài, và việc ĐTRNN còn đem
lại nguồn thu Ngân sách ít cũng có nhiều nguyên nhân: Nhiều doanh nghiệp khi đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài đã áp dụng biện pháp lấy dự án nuôi dự án, tức là sau khi có lợi
nhuận sẽ không chuyển về nước mà tái đầu tư tại chỗ. Hơn nữa, nếu chuyển lợi nhuận
về nước, trong trường hợp DN muốn tăng vốn để mở rộng đầu tư thì lại gặp rất nhiều
khó khăn từ việc xin chuyển ngoại tệ ra nước ngoài.
4.2. Về phía nước tiếp nhận đầu tư:
Môi trường đầu tư ở nước tiếp nhận vốn cũng làm cho việc đầu tư trực tiếp của
các doanh nghiệp Việt Nam dường như chưa có hiệu quả. Điều này thể hiện ở các yếu
tố như:
- Sự bất ổn định về chính trị khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam ngần ngại
không muốn bỏ vốn đầu tư hoặc đầu tư nhưng không thực hiện được. Hệ thống luật
pháp ở các nước Đông Nam Á được coi là “không minh bạch” do tệ nạn quan liêu,
tham nhũng từ lâu đã bám rễ sâu trong bộ máy nhà nước. Đây là một trong những
nguyên nhân chính khiến cho nhiều nhà đầu tư các nước, không riêng gì nhà đầu tư
Việt Nam, ngần ngại trong việc bỏ vốn đầu tư.
- Nước tiếp nhận đầu tư có nhiều quy định khắt khe mà doanh nghiệp Việt Nam
không đáp ứng được. Chẳng hạn như doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang Singapore
14

trong các lĩnh vực như hàng nghề thủ công mỹ nghệ muốn đưa các nghệ nhân ở Việt
Nam sang để làm việc thì gặp rất nhiều khó khăn.
- Tại một số quốc gia vẫn tồn tại sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong
nước và doanh nghiệp nước ngoài.
- Tỷ giá hối đoái ở nước tiếp nhận đầu tư không ổn định.
4.3. Về phía Nhà nước Việt Nam:
- Các thủ tục cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài còn phức tạp.
- Công tác quản lý dự án đầu tư ra nước ngoài sau khi cấp phép còn gặp nhiều
khó khăn do các doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo theo quy định
của pháp luật.
- Trong nước hiện chưa có được những đánh giá khảo sát tại chỗ về hiệu quả thị
trường làm cơ sở thông tin cho doanh nghiệp, còn ở nước ngoài, mối liên hệ giữa nhà
đầu tư với cơ quan ngoại giao, thương vụ còn lỏng lẻo nên khi có vụ việc tranh chấp
xảy ra, các doanh nghiệp ít tranh thủ được tối đa sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Hiện nay, mặc dù đã có cơ chế cho vay ngoại hối tại các ngân hàng được phép
để phục vụ hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, song bản
thân ngân hàng thương mại không có điều kiện quản lý nguồn vốn vay mà doanh
nghiệp đem ra nước ngoài đầu tư khi họ không có văn phòng đại diện ở quốc gia mà
doanh nghiệp đầu tư. Thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài và chuyển lợi nhuận về Việt
Nam cũng rất phức tạp.
- Hiện tại, Nhà nước chưa cho phép các ngân hàng, công ty bảo hiểm thực hiện
việc ĐTRNN. Để phục vụ cho hoạt động ĐTRNN, các DNVN phải mở tài khoản tại
các ngân hàng tại nước ngoài, dẫn tới ngân hàng trong nước thì không kiểm soát được
nguồn ngoại tệ ở nước ngoài, DNVN thì lại có thể gặp các khó khăn trong giao dịch về
tài chính và vốn.
- Hiện nay, Việt Nam chưa ký các Hiệp định tự do đi lại với các nước trong khu
vực Đông Nam Á (ngoại trừ khi sang Lào, công dân Việt Nam không cần phải xin cấp
visa). Trong khi đó, doanh nghiệp khi muốn ĐTRNN lại phải đi lại thường xuyên giữa
Việt Nam và nước tiếp nhận đầu tư. Mỗi lần như vậy lại phải xin làm thủ tục cấp thị
thực. Điều này cũng gây tốn kém chi phí và mất thời gian cho doanh nghiệp.

Tất cả những hạn chế nêu trên, cho dù là do phía doanh nghiệp, do phía Nhà
nước Việt Nam hay nước tiếp nhận vốn đầu tư thì cũng đều gây ra nhiều khó khăn cho
hoạt động đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài nói chung và
sang các nước Đông Nam Á nói riêng. Doanh nghiệp Việt Nam, do vậy, cũng bị bó
hẹp hoạt động của mình. Để khuyến khích cho hoạt động này, đòi hỏi không chỉ có nỗ
lực của riêng doanh nghiệp mà còn cần có sự phối hợp của Nhà nước Việt Nam thông
15
qua việc ban hành các quy định, chính sách thông thoáng hơn trong lĩnh vực đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài.
5. Khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt
Nam
5.1. Về công nghệ:
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) về chuyển giao công nghệ, nếu tính đến
năm 2005 chỉ số ứng dụng công nghệ của nước ta chỉ đứng thứ 92/117, chỉ số đổi mới
công nghệ có cao hơn nhưng vẫn thấp hơn Thái-lan 42 bậc, tỷ lệ sử dụng công nghệ
cao thấp, chỉ vào khoảng 20% trong khi các nước trong khu vực như Phi-li-pin là 29%,
Ma-lai-xi-a 51%, Xin-ga-po 73%. Theo cơ quan tình báo kinh tế (EIU), chỉ số sẵn
sàng điện tử của Việt Nam xếp thứ 61/65 quốc gia được điều tra, kém Ma-lai-xi-a 30
bậc và kém Xin-ga-po đến 54 bậc. Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu năm
2014 được Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) công bố ngày 3.9, Trình độ công nghệ của
Việt Nam xếp hạng 99/144 nước. Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật đã và đang tạo
ra các sản phẩm thấp và không ổn định, làm hạn chế khả năng cạnh tranh bằng giá (khi
giá thành các sản phẩm trong nước thường cao hơn các sản phẩm nhập khẩu từ 20 đến
40%). Ðây là hệ quả việc sử dụng các công nghệ tụt hậu từ hai, ba thế hệ, chưa làm
chủ được công nghệ nguồn, chậm đổi mới công nghệ. Một trong những yếu tố quan
trọng cho đổi mới công nghệ là nguồn nhân lực khoa học và công nghệ. Theo các số
liệu điều tra gần đây cho thấy nguồn lực quan trọng này chỉ chiếm 7,24% lực lượng
lao động, trong đó có 71,9% trình độ đại học, 26,9% cao đẳng, 0,9% thạc sĩ, trình độ
tiến sĩ là 0,14% và phân bố không đều, ngoài ra còn nhiều bất hợp lý khác trong các
doanh nghiệp. Nhiều DN sử dụng thiết bị, máy móc lạc hậu. Tốc độ phát triển của

ngành công nghiệp và xây dựng Việt Nam so với thế giới thì vẫn còn quá chậm, đặc
biệt về mặt công nghệ. Theo Bộ KH&CN, phần lớn các DN nước ta (chủ yếu là các
doanh nghiệp dân doanh) đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của
thế giới từ 2-3 thế hệ; có 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ
những năm 1960 -1970; 75% số thiết bị đã hết khấu hao; 50% thiết bị là đồ tân trang…
Nhóm ngành sử dụng công nghệ cao mới đạt khoảng 20%, trong khi đó ở Singapore là
73%, Malaysia là 51% và Thái Lan là 31% (tiêu chí để đạt trình độ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là trên 60%). Cũng theo Bộ KH&CN, ngoài các DN do nước ngoài đầu
tư, chỉ có 30% DN trong nước được coi là có trang thiết bị vào loại tương đối tiên tiến,
nhưng tốc độ đổi mới thiết bị công nghệ còn khiêm tốn. Việc chuyển giao công nghệ ở
Việt Nam chủ yếu được tiến hành thông qua nhập khẩu công nghệ. Hầu hết các DN
tiến hành đổi mới công nghệ một cách thụ động, mang tính tình huống, do nhu cầu
khách quan nảy sinh trong quá trình sản xuất mà không có kế hoạch dài hạn về đổi
mới công nghệ.
16
5.2. Về vốn:
Đối với Việt Nam hiện nay, vốn cho hoạt động doanh nghiệp vẫn chủ yếu dựa
vào nguồn vốn vay ngân hàng. Trước khi thị trường chứng khoán và thị trường trái
phiếu phát triển, vốn cho doanh nghiệp cho sản xuất kinh doanh chủ yếu là vốn vay
ngân hàng. Doanh nghiệp nào vay vốn ngân hàng ít thì lợi nhuận cao hơn doanh
nghiệp vay vốn ngân hàng nhiều. Nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp Việt còn hạn
hẹp, trong khi nhiều công cụ và hình thức huy động vốn trong nền kinh tế thị trường
chưa được doanh nghiệp sử dụng triệt để và hiệu quả.
5. 3. Uy tín và thương hiệu:
Tại thị trường EU, Việt Nam là nhà xuất khẩu lớn thứ ba về hải sản, thứ tư về cà
phê và là nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, tiêu, điều nhưng gần như hầu hết các
sản phẩm xuất khẩu sang thị trường này không có tên và thương hiệu Việt Nam. Riêng
sản phẩm chè, Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu và có 110 nước biết đến.
Thế nhưng Hiệp hội chè lại cho biết, giá chè Việt Nam chỉ bằng ½ giá chè bình quân
trên thế giới, 98% lượng chè xuất khẩu ở dạng nguyên liệu thô.

Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nguyên liệu thô, chưa qua chế
biến, chưa đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ dẫn đến giá trị gia tăng cho hoạt động
xuất khẩu còn thấp.
III. Các giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
1. Về phía nhà nước
* Cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ và thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của Việt
Nam
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý, chính sách về đầu tư ra nước
ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi và định hướng cho các doanh nhân và doanh
nghiệp đầu tư ra nước ngoài an toàn và hiệu quả.
- Cải tiến thủ tục hành chính đối với đầu tư ra nước ngoài theo hướng đơn giản
thuận tiện, mở rộng hơn nữa diện các dự án thuộc diện đăng ký, giảm bớt sự can thiệp
bằng các biện pháp hành chính ngay cả đối với các dự án sử dụng vốn nhà nước, tăng
quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp.
- Quy định đồng bộ các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ đầu tư ra nước ngoài
một cách cụ thể, trong đó đặc biệt chú trọng các biện pháp hỗ trợ về cung cấp thông tin
môi trường, cơ hội đầu tư nước sở tại, bảo hộ quyền lợi của doanh nghiệp đầu tư ra
nước ngoài trong quá trình kinh doanh ở nước ngoài.
- Nghiên cứu phân cấp quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài phù hợp với tình
hình phát triển chung của Việt Nam và thế giới.
- Xây dựng chiến lược đầu tư dài hạn: chiến lược cho 1 số ngành lĩnh vực cần
được xây dựng đồng bộ, lâu dài, có chính sách hỗ trợ khuyến khích doanh nghiệp
17
- Đánh giá rút kinh nghiệm từ các bài học của các nước đã thực hiện, học hỏi
cách thức quản lý và đầu tư của các nước phát triển
- Các cơ quan đại diện VN tại các nước sở tại cần có các hoat động tích cực trong
tham gia quản lý và hỗ trợ DN;
- Thực hiện chế độ báo cáo của các dự án đầu tư ra nước ngoài kịp thời,đầy đủ,
đảm bảo cung cấp đủ các thông tin cho các nhà đầu tư
- Tăng cường xúc tiến thương mại, đặc biệt vs các nước có chung lãnh thổ biên

giới. Thành lập các hiệp hội đầu tư ra nước ngoài; cung cấp thông tin quản lý, thông
tin thị trường cho các DN
* Về cung cấp, hỗ trợ thông tin hỗ trợ đầu tư ra nước ngoài cho các doanh
nghiệp Việt Nam
Bộ Kế hoạch và đầu tư chủ trì phối hợp các bộ ngành liên quan tổ chức thu thập
thông tin kịp thời định kỳ công bố cho DN để hỗ trợ DN nắm bắt được tình hình sản
xuất kinh doanh của các nước sẽ tiến hành đầu tư; tổng hợp và cung cấp các thông tin
về:
- Chính sách liên quan đến đầu tư, hoat động sản xuất kinh doanh của DN các
nước đầu tư
- Các tiềm năng và cơ hội đầu tư trong ngành, lĩnh vực của nước sở tại
- Các dự án đã được chính phủ hai nước thỏa thuận, có hiệp định đc ký kết
- Các dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài của nước sở tại
* Các hỗ trợ, ưu đãi khuyến khích doanh nghiệp thực hiện đầu tư ra nước
ngoài
- Nhà nước có chính sách hỗ trợ nguồn vốn đầu tư đối với các dự án quan trọng
có tác động tới phát triển kinh tế VN như sx điện nhập khẩu về VN, khai thác khoáng
sản thay thế nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước: các ngân hàng thương mại hỗ trợ
vè vay vốn, chính phủ hỗ trợ bằng cách góp vốn cùng doanh nghiệp
- Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp;
- Thực hiện hiệp định song phương – đa phương: hiệp định khuyến khích và bảo
hộ đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế 2 lần;
- Đào tạo lao động có tay nghề cao, có chính sách về lao động hợp lý phù hợp, hỗ
trợ các chương trình đào tạo lao động của doanh nghiệp;
2. Về phía doanh nghiệp
- Doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh, nắm bắt các chính sách tại
nước sở tại, lựa chọn ngành, lĩnh vực đầu tư phù hợp;
- Tăng năng lực quản lý tích lũy nguồn lực, sử dụng hiệu quả nguồn vốn và lao
động;
18

- Lập kế hoạch lựa chọn dự án khả thi cao, nghiên cứu thị trường đầu tư, chính
sách, các tập quán, các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, vệ sinh thực
phẩm…;
- Nghiên cứu và nắm chắc các quy định về phí, thuế quan, quy định về thanh
toán, quy định xuất nhập khẩu tại các nước sở tại để tránh tranh chấp, kiện tụng khi có
bất đồng;
- Nâng cao trình độ công nghệ và kinh nghiệm quản lý, nâng cao năng lực tích
lũy vốn, quản lý chi phí đầu tư, tạo các mối quan hệ thân thiết giữa các doanh nghiệp
tại nước sở tại để tận dụng thế và lực cho chính DN Việt Nam.
- Nghiên cứu và xây dựng chiến lược về nguồn lực lao động nhằm lựa chọn
nguồn lực lao động trong nước hay nước ngoài để phù hợp và thu được hiệu quả cao.
+ Tăng cường khả năng cạnh tranh trong nước tạo đà đầu tư ra nước ngoài : Các
doanh nghiệp cần phải thực hiện tốt quá trình chiếm lĩnh vững chắc thị phần trong
nước rồi mới thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Với nền kinh tế thị trường hiện nay thì
thị trường nước ta được xem như mô hình thu nhỏ của hoạt động kinh tế quốc tế
+ Xây dựng chiến lược marketing nước ngoài để đầu tư hiệu quả. Đầu tư ra nước
ngoài là hình thức xâm nhập thì trường ở bậc cao, thực hiện thăm dò thị trường qua
hình thức xuất khẩu sản phẩm, marketing sản phẩm tại thị trường nhằm quen với sản
phẩm của mình…
19
KẾT LUẬN
Tổng hợp những nội dung nêu trên, ta thấy được rằng đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là một trong những giải pháp xâm nhập thị trường nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, xu thế đầu tư ra
nước ngoài đang phát triển mạnh mẽ không chỉ ở các quốc gia phát triển mà ngay tại
các nước đang phát triển. Đó là một cách thức củng cố vị trí của các doanh nghiệp Việt
Nam trên trường quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh, khả năng kinh doanh của các
doanh nghiệp Việt Nam, góp phần xây dựng hình ảnh của Việt Nam nói chung và
chính doanh nghiệp nói riêng tại các nước bạn.
Tuy nhiên, doanh nghiệp chịu sự điều tiết của nhiều yếu tố chi phối khi thực hiện

đầu tư ra nước ngoài. Do đó, doanh nghiệp với những mục tiêu khác nhau bao gồm
mục tiêu kinh tế, mục tiêu chính trị, mục tiêu xã hội, mục tiêu văn hóa… , do sự điều
tiết của nhà nước, do hiệu quả kinh tế mang lại thông qua các số liệu thống kê mà hiện
nay ở Việt Nam, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không được coi là một giải pháp quan
trọng nhất để tăng khả năng xâm nhập thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp
Việt Nam.
Để đầu tư ra nước ngoài trở thành một giải pháp quan trọng trong việc xâm nhập
thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp cần tự nâng cao năng lực về vốn, công nghệ,
uy tín, thương hiệu… nhà nước cần mở rộng, hỗ trợ chính sách cho các doanh nghiêp
đầu tư vốn ra nước ngoài.
20
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG CHÍNH 2
I. Khái quát về các phương thức thâm nhập thị trường nước ngoài 2
1. Các phương thức thâm nhập thị trường nước ngoài: 2
2. Khái niệm về đầu tư 3
2.2. Đầu tư nước ngoài 4
Các hình thức đầu tư nước ngoài 4
- Theo tính chất quản lý: Đầu tư trực tiếp (FDI-Foreign Direct Investment) và đầu tư gián
tiếp (PFI-Portfolio Foreign Investment) 4
+ Đầu tư trực tiếp là hình thức mà trong đó các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư sang
nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quá trình sử dụng và thu hồi số vốn đầu tư
bỏ ra 4
+ Đầu tư gián tiếp thường do Chính phủ các nước, tổ chức quốc tế và các tổ chức phi
chính phủ của một nước cho một nước khác (thường là nước đang phát triển) vay vốn
dưới nhiều hình thức viện trợ hoàn lại và không hoàn lại. Theo loại hình này bên nhận
vốn có toàn quyền quyết định việc sử dụng vốn như thế nào để đạt được kết quả cao
nhất, còn bên cho vay hoặc viện trợ không chịu rủi ro và hiệu quả vốn vay. Loại hình đầu
tư này thường kèm theo điều kiện ràng buộc về kinh tế hay chính trị cho nước nhận vốn.

Do vậy hình thức đầu tư này không chiếm tỷ trọng lớn trong vốn đầu tư quốc tế, nó
thường chỉ dùng cho các nước đang phát triển có nhu cầu cấp thiết về vốn 4
- Theo chiến lược đầu tư: Đầu tư mới và Mua lại & Sát nhập 5
- Đầu tư theo chiều dọc và đầu tư theo chiều ngang 5
3. Động lực đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam 5
II. Tình hình đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á 6
1. Xu thế đầu tư 6
2. Mục tiêu đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam 8
3. Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam 9
Thời gian qua, đã có nhiều doanh nghiệp, cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài nhằm
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, kinh doanh thương mại xuất nhập khẩu,
tìm kiếm nguồn tài nguyên (đất đai, khoáng sản). Thủ tướng đã phê duyệt Quyết định
236/QĐ-TTg về thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài với mục tiêu thúc đẩy hơn nữa hoạt động
đầu tư của các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động tại Việt Nam ra nước ngoài
nhằm chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện mục tiêu này, công tác xúc
tiến đầu tư đóng một vai trò quan trọng 9
Năm 2014, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mà cụ thể là Cục Đầu tư nước ngoài đăng ký 8 hoạt
động xúc tiến đầu tư, trong đó có 4 đoàn công tác tại các thị trường quan trọng và tiềm
năng để khảo sát cơ hội đầu tư (tại Myanmar) và hỗ trợ thúc đẩy triển khai dự án đã có
(tại Lào và Campuchia). Các hoạt động khác bao gồm: tổ chức Hội nghị XTĐT Việt
Nam – Lào theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, xây dựng chiến lược đầu tư sang Lào,
rà soát toàn bộ các dự án đầu tư ra nước ngoài và xuất bản sách về chính sách pháp luật
liên quan đến đầu tư ra nước ngoài. Đây là các hoạt động đã được tiến hành đều đặn từ
03 năm trở lại đây và cần thiết duy trì để đáp ứng nhu cầu thúc đẩy hoạt động đầu tư ra
nước ngoài đi vào hiệu quả, đặc biệt theo Chỉ thị 26/CT-TTg ngày 23/12/2013 của Thủ
tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh hoạt động đầu tư sang Lào và Campuchia. 9
4. Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 13
5. Khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam 16
III. Các giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam 17
1. Về phía nhà nước 17

21
2. Về phía doanh nghiệp 18
22
Bảng phân công nhiệm vụ Nhóm
(Nội dung: bình luận về đầu tư ra nước ngoài - một trong những giải pháp quan trọng nhất để tăng khả năng xâm nhập thị
trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam)
Nội dung công việc Phân công người thực hiện
Phần 1 Slide + bài luận tổng hợp Ngôn Thị Mai Hương
Phần 2 Đề cương tổng quát
I Khái quát các phương thức xâm nhập thị trường Ngôn Thị Mai Hương
I Khái quát nguyên nhân, vai trò, khái niệm đầu tư
Lê Thị Hà An
Vũ Nhật Ninh
II.1 Xu thế đầu tư quốc tế hiện nay, hiệu quả
Vi Anh Đức
Đoàn Xuân Huy
II.5
Đánh giá khả năng xâm nhập thị trường nước ngoài của DN
Việt
Vi Anh Đức
Đoàn Xuân Huy
II.2 Mục tiêu của nhà đầu tư VN khi đầu tư ra nước ngoài
Đào Đình Giang
Dương Thế Việt
II.3,4
Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam và những khó
khăn gặp phải
Đào Đình Giang
Dương Thế Việt
III Giải pháp để đầu tư hiệu quả Nguyễn Thị Lan Phương

3 Thuyết trình Ngôn Thị Mai Hương
23

×