Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Một số giải pháp và định hướng xuất khẩu cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.05 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
A – Lời mở đầu
3
B – Nội dung
4
Phần 1. Lợi thế so sánh và tình hình xuất khẩu của Việt nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế
4
1. Lợi thế so sánh của VIệt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
4
1.1.Nguồn nhân lực

4
1.2. Tài nguyên thiên nhiên

5
1.3. Vị trí địa lí

6
2. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam
7
2.1. Tình hình xuất khẩu theo cơ cấu nhóm hàng trong 5 năm gần đây

7
2.2. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực

10
Phần 2. Những lợi ích và hạn chế khi xuất khẩu sản phẩm thô, sơ chế, gia công xuất
khẩu ở Việt Nam
15
1. Lợi ích của xuất khẩu sản phẩm thô, sơ chế, gia công sản xuất


15
2. Hạn chế của xuất khẩu sản phẩm thô, sơ chế, gia công sản xuất
17
1
3. Đánh giá nhận định : “ Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam cần được duy trì với các sản
phẩm thô, sơ chế và gia công xuất khẩu chiếm tỉ trọng cao ( khoảng 50%) nhằm phát
huy tối đa các lợi thế của quốc gia trong thương mại quốc tế”
19
Phần 3: Một số giải pháp và định hướng xuất khẩu cho Việt Nam
21
1.Vốn đầu tư
20
2. Nâng cao hiệu quả chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
21
3. Mở rộng thị trường xuất khẩu
24
4.Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
24
C- Kết luận
25
Danh mục tài liệu tham khảo
A- LỜI MỞ ĐẦU
Thương mại quốc tế có tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế. Nó có thể ảnh
hưởng (cả tích cực lẫn tiêu cực) đến tăng trưởng kinh tế, phân bổ thu nhập, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên cũng như quan hệ kinh tế chính trị ucả một nước với các nước
khác trên thế giới. Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động
đầu tiên của thương mại quốc tế, xuất khẩu có một vai trò đặc biệt quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như của toàn thế giới. Đối với nền
kinh tế mỗi quốc gia, xuất khẩu tạo nguồn vốn chính cho nhập khẩu, phục vụ cho công
2

cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia
đòi hỏi phải có 4 điều kiện: nhân lực, tài nguyên, vốn và kỹ thuật.
Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, trong giai
đoạn đầu phát triển, không đủ vốn và điều kiện để phát triển kĩ thuật, cho nên con
đường ngắn và dễ dàng nhất để tích lũy vốn, tạo động lực phát triển chính là xuất khẩu
sản phẩm thô, sơ chế và gia công xuất khẩu. Tuy nhiên, việc xuất khẩu trong thời gian
dài có thực sự giúp nền kinh tế phát triển hay không? Để trả lời cho câu hỏi này, nhóm
chúng tôi đã phân tích nhận định : “Một số giải pháp và định hướng xuất khẩu cho
Việt Nam”
Để phân tích nhận định này đúng hay sai, nhóm chúng tôi đã nêu ra bức tranh
tổng quan về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua, bên cạnh đó cũng
nêu ra những ưu điểm, nhược nhiểm của xuất khẩu sản phẩm thô, sơ chế. Từ đó đề
xuất định hướng xuất khẩu để hướng đến sự phát triển bền vững

B – NỘI DUNG
PHẦN I- LỢI THẾ SO SÁNH VÀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT
NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Lợi thế so sánh của Việt Nam
Ở nước ta khi đánh giá các nguồn lực sản xuất có lợi thế so sánh để phát triển
kinh tế đối ngoại, có 3 nguồn lực cơ bản: nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa
lý thuận lợi của đất nước. Theo Porter, đây cũng là nhân tố đầu tiên để xem xét một
quốc gia có lợi thế hay không, và lợi thế như thế nào so với các nước trên thế giới.
1.1.Nguồn nhân lực: Trong 90 triệu dân có khoảng 50% là lực lượng lao động.
Trung bình mỗi năm có khoảng trên 1 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động. Giá
3
lao động của người Việt Nam khá rẻ. Năm 2012, lương tháng trung bình của người
Việt Nam là 3,8 triệu đồng tương tứng ứng 181 đôla Mỹ. Con số này chỉ cao hơn so
với Lào (119), Campuchia (121) và Indonesia (174). Trong khi đó, mức lương này chỉ
bằng khoảng một nửa so với Thái Lan, chưa bằng một phần ba của Malaysia và chỉ
bằng khoảng một phần hai mươi của Singapore (hơn 3.500 đôla). Điều đó tạo ra lợi thế

cho Việt Nam khi tham gia vào phân công lao động quốc tế. Ngoài ra người Việt Nam
có truyền thống lao động cần cù, có tinh thần vượt khó và đoàn kết cao, thông minh
sáng tạo, có khả năng nắm bắt khoa học kỹ thuật hiện đại và ứng dụng nó, có khả năng
thích ứng với những tình huống phức tạp.
Để thấy rõ lợi thế về lao động của Việt Nam, ta so sánh tỷ lệ L/K (Lao động và
vốn) của Việt Nam với một số nước trong khu vực và biến động của tỷ lệ (L/K) qua
các năm.
Bảng 1: Tỷ lệ lao động trên vốn của một số nước
Năm 2000 2001 2002 2003
Việt Nam 1.200,21 1.179,81 1126,76 1.027,57
Thái Lan 276,78 298,47 275,56 246,61
Trung Quốc 684,76 633,28 593,30 538,88
Indonesia 636,86 690,84 582,62 481,57
Malaysia 105,99 110,25 104,16 99,26
Hàn Quốc 43,13 46,52 41,83 37,86
So sánh với các nước trong khu vực, kể cả các nước đang phát triển khác trong
khu vực thì Việt Nam có một lợi thế tương đối lớn về nguồn lao động. Theo lý thuyết
4
H – O thì cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sẽ tập trung vào những sản phẩm có hàm
lượng lao dộng cao như các mặt hàng nông sản, dệt may, giầy dép… Về lao động, Việt
Nam có nguồn lao động trẻ dồi dào, tuy nhiên lực lượng này lại chưa quen với lối lao
động công nghiệp, việc tiếp cận công nghệ mới còn hạn chế'. Do đó chất lượng lao
động không cao, thế nhưng tiền công lao động lại quá cao nếu tính theo năng suất.
1.2.Về tài nguyên thiên nhiên: ở nước ta đa dạng và phong phú bao gồm đất
đai, rừng biển, nguồn nước, khoáng sản đủ loại, khí hậu (sức gió, ánh nắng, lượng
mưa để có thể hình thành năng lượng tự nhiên) và tài nguyên du lịch. Có thể nói rằng
với một nguồn tài nguyên như thế đất nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi và tiềm
năng để phát huy lợi thế của mình so với một số nước NIEs, Đông A' (những nước có
thị trường xuất nhập khẩu lớn ở nước ta).
1.3.Vị trí địa lý: Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi, có chiều dài tiếp giáp với biển

Đông, là
bao lơn nhìn ra Thái Bình Dương, có tuyến đường giao thông hàng hải, hàng
không từ Đông sang Tây với những vịnh, cảng quan trọng. Đường bộ, đường sông đã
nối 3 nước Đông Dương thành thế chiến lược kinh tế, quân sự thuận lợi. Điều này tạo
khả năng cho Việt Nam phát triển nhiều loại hình kinh tế khác nhau trong hoạt động
dịch vụ. Nhất là nước ta lại nằm trong khu vực phát triển kinh tế với tốc độ tăng GDP
từ 7-9%/năm trong vài ba thập kỷ trở lại đây
Đánh giá lợi thế so sánh của Việt Nam là các lợi thế tĩnh hay còn gọi các lợi thế
cấp thấp. Trong giao lưu kinh tế các nước thì các ngành sử dụng nhiều nguyên liệu, lao
động có lợi thế là chi phí sản xuất thấp, hàng hoá xuất khẩu sẽ có sức cạnh tranh trên
thị trường khu vực và quốc tế. Đồng thời sẽ hấp dẫn và thu hút nước ngoài trực tiếp
đầu tư (FDI) để sử dụng các nguồn lực đó. Song các lợi thế này không tồn tại lâu dài
do sự hạn chế của tài nguyên, lao động và sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Do vậy,
lợi thế này khó cạnh tranh nổi với những nước có lợi thế cấp cao (vốn, lao động, trình
độ khoa học kỹ thuật cao ) trong khu vực.
Thứ hai, so với các nước ASEAN, hoạt động thương mại và đầu tư của Việt Nam
vẫn ở trình độ thấp. Theo số' liệu thống kê năm 2007 của WTO, trong 50 nền kinh tế'
của thế' giới được đưa ra phân tích thì Việt Nam được xếp thứ 50 cuối danh sách. Đáng
chú ý là các nước ASEAN 4: Singapore, Malaisia, Thái Lan và Indonêsia lần lượt theo
thứ tự là 14,19, 25 và 32. Trong điều kiện tương đồng về cấu tạo tài nguyên thì lợi thế'
5
dựa trên điều kiện sản xuất cấp thấp sẽ nhỏ bé. Nếu chỉ dựa vào lợi thế' này thì thương
mại của Việt Nam trong ASEAN chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ và được coi là kém phát
triển. Nguyên nhân chính không phải ở chỗ có sự tương đồng về cấu tạo tài nguyên
gây ra mà là ở chỗ các điều kiện sản xuất vốn có của các quốc gia ASEAN hơn hẳn
Việt Nam.
Hiện tại lợi thế' so sánh cấp thấp (sản xuất ra sản phẩm sử dụng nhiều yếu tố' lao
động, giá trị gia tăng thấp) đang là một nhân tố' quan trọng hấp dẫn các nhà đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam. Nhưng nếu chỉ đơn thuần dựa vào lợi thế này thì Việt Nam
khó có khả năng thay đổi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghiệp ở mức độ

cao hơn. Hơn nữa, điều kiện tự do của AFTA, cùng với sự phát triển nhiều loại hình
công nghệ mới, sẽ hướng các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào những nước có các
điều kiện và lợi thế sản xuất cấp cao hơn (gọi là lợi thế động bao gồm vốn, công nghệ
cao, nhân công lành nghề, cơ sở hạ tầng hiện đại ). Trên cơ sở các hoạt động sản
xuất, các công ty xuyên quốc gia có thể tận dụng triệt để lợi thế và điều kiện sản xuất
của các quốc gia đã có, nhằm tạo ra các sản phẩm hoàn chỉnh, các linh kiện và chi tiết.
tại các quốc gia trong điều kiện tự do mậu dịch.
Thứ ba, giá cả của các loại hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra chủ yếu dựa trên
lợi thế' về điều kiện sản xuất cấp thấp (nguyên liệu thô, gia công và sơ chế) luôn rẻ
hơn so với các mặt hàng chế biến dựa trên lợi thế về các điều kiện sản xuất cấp cao
hơn (lao động được đào tạo, công nghệ trung bình thích hợp). Hiện tại Việt Nam đang
xuất khẩu dầu thô, gạo, khoáng sản. nếu không đi vào công nghệ hiện đại sử dụng lao
động dồi dào để sản xuất hàng xuất khẩu thì Việt Nam sẽ phải chịu thiệt thòi về giá
hàng xuất khẩu (giá trị gia tăng thấp). Thực tế đó đã được chứng minh qua nhiều năm.
Tuy nhiên những phân tích trên đây không có nghĩa là Việt Nam phải từ bỏ các
lợi thế so sánh cấp thấp, mà cần hiểu lợi thế' so sánh cấp thấp chỉ tồn tại trong một
thời gian ngắn. Về lâu dài, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm của Nhật Bản, NIES
mau chóng chuyển từ lợi thế' so sánh cấp thấp sang lợi thế so sánh cấp cao hơn (sản
xuất ra sản phẩm cần nhiều vốn, lao động phải được đào tạo, công nghệ trung bình và
cao, năng suất lao động cao và giá trị gia tăng trong sản phẩm lớn). Trong mô hình:
lợi thế so sánh trong trường hợp nhiều mặt hàng, thời kỳ đầu của quá trình công
nghiệp hoá Việt Nam chỉ có lợi thế' so sánh cấp thấp, biểu hiện sản xuất ở một số
nhóm hàng, mặt hàng sử dụng nhiều lao động và lợi thế về tài nguyên tự nhiên.
6
Nhưng với quá trình phát triển (công nghiệp hoá, hiện đại hoá), Việt Nam sẽ có một
bước chuyển rất căn bản: mở rộng lợi thế' so sánh ra nhiều mặt hàng, nhóm hàng có
giá trị cao. Muốn vậy phải kết hợp đồng thời nhiều yếu tố: vị trí địa lý thuận lợi, tài
nguyên thiên nhiên sẵn có và nguồn nhân lực phong phú, trong đó nguồn nhân lực là
một yếu tố' rấ't quan trọng cho việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
trong bối cảnh phát triển hiện nay, bởi nó tạo ra bước nhảy vọt về năng suất.

Nếu các lợi thế này không có khả năng tái sinh thì nó sẽ mất dần đi. Điều này thấy
rất rõ ở hai lợi thế mà Việt Nam đang có là tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động
dồi dào.
Mặc dầu Việt Nam được coi là một đất nước phong phú về các loại khoáng sản,
nhưng nếu tính theo mức đầu người thì không phải là nước giàu khoáng sản
Lợi thế so sánh của Việt Nam là các lợi thế tĩnh hay còn gọi các lợi thế cấp thấp
như
2. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam
2.1. Tình hình xuất khẩu theo cơ cấu nhóm hàng trong 5 năm gần đây
Tỷ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo hàng tiêu dùng, máy móc, thiết bị có hàm
lượng công nghệ cao và giá trị gia tăng cao hơn tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, sự dịch
chuyển cơ cấu diễn ra với tốc độ chậm. Trong khi đó, các sản phẩm công nghiệp chế
biến, chế tạo của Việt Nam thực ra vẫn chủ yếu là các sản phẩm chế biến hoặc gia
công sử dụng nhiều lao động giá rẻ, hàm lượng công nghệ thấp
Bảng 2: Trị giá hàng hóa xuất khẩu theo danh mục tiêu chuẩn ngoại thương
Đơn vị tính: 1000USD
Nhóm
2009 2010 2011 2012 2013
Trị giá Tỷ
trọn
g
(%)
Trị giá Tỷ
trọn
g
(%)
Trị giá Tỷ
trọn
g
(%)

Trị giá Tỷ
trọng
(%)
Trị giá Tỷ
trọn
g
(%)
Xuất khẩu
– (Tốc độ
tăng
trưởng%)
57096287

100.0

72236665
(26.5)
100
.
0 96905674
(34.15)
100
.
0
114529171
(18.19)
100.0 13203285
(15.28)
100.0
a

.
H
à
ng

t

h
ay

m
ới

s
ơ
22266023 39
.
0

25187456 34
.
9 33

736
732
34
.
8
35 200 859 30.7 33782570 25.5
9

7
c
h
ế

(
n

m

0-
4)

b
.

ơ
ng

t
hự
c,
t
hự
c

phẩm

v
à

động

v

t

s
ống
11514570 20
.
2

13432462 18
.
6 17442884 18
.
0
18812650 16.4 18561159 14.1
1.
Đồ
uống

v
à

t
huốc


237789 0

.
4 301342 0
.
4 357971 0
.
4
464 325 0.4 538141 0.4
2
.
N
V
L dạng
t

,

k
hông
dùng

để

ăn
,
t
rừ

nhiên

liệu

1928274 3
.
4 3373793 4
.
7 4716112 4
.
9
4254153 3.7 4742262 3.6
3
.

Nhiên

liệu
,
dầu

m


nh

n
v
à

N
V
L


liên
quan

8507050 14
.
9 7979685 11
.
0 11007857 11
.
4
11353145 9.9 9685224 7.3
4
.

Dầu
,

m
ỡ,
s
áp

động
,
t
hự
c

v


t
78340 0
.
1 100174 0
.
1 211908 0
.
2
316 586 0.3 255784 0.2
b
.
H
à
ng

c
h
ế
bi
ế
n

h
ay

đ
ã
t
inh


c
h
ế
(
nhó
m5
-
8)
34007635 59
.
6

47012475 65
.
1 63106055 65
.
1
79241573 69.2 98172368 74.3
5
5
.

Hóa

c
hấ
t
v
à


s
ản

phẩm
liên

quan
1270423 2
.
2 1881860 2
.
6 2875671 3
.
0
3749519 3.3 3831641 2.9
6
.

Hàng

c
hế
biến

c
hủ

y
ếu
phân


t
heo

loại
ngu
y
ên lieu

5226034 9
.
2 8485619 11
.
7 10874561 11
.
2
12203501 10.7 13844168 10.5
7
.


y


c,
phư
ơ
ng

t

iện
v
ận

t
ải

v
à
phụ

t
ùng
7398754 13
.
0

11476052 15
.
9 18834920 19
.
4
30 703 631 26.8 43 027
054
32.6
8
.

Hàng


c
hế
biến

k

c
20112424 35.2 25168944 34
.
8 30520
903
31
.
5
32 584 922 28.5 37 469
505
28.4
c
.
H
à
ng


a
k
hông

t
huộ

c
các

nhó
m
trê
n
822617 1.4

36734 0
.
1 62

887 0
.
1
86 739 0.1 77 913 0.06
Nhập
khẩu –
69948810
(–)
84838553
21.29
10674985
4
113780431
(6.59)
13205255
7
8

(Tốc độ
tăng
trưởng
%)
(25.83)
(16.06)
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu Tổng cục thống kê)
Theo bảng trên, trong những năm 2009 đến 2013, kim ngạch xuất khẩu luôn đạt
tăng trưởng dương, với tốc độ tăng trưởng khá cao. Trong những năm từ 2011 trở về
trước, khoảng cách giá trị kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ bé hơn so với kim ngạch nhập
khẩu rất nhiều, nhưng từ năm 2012 trờ lại đây, kim ngạch xuất khẩu đã xấp xỉ và có
phần nhỉnh hơn kim ngạch nhập khẩu. Song bên cạnh đó cũng thấy, kim ngạch xuất
khẩu vẫn phụ thuộc khá nhiều vào kim ngạch nhập khẩu, phần lớn các nguyên liệu đầu
vào đều được nhập khẩu và có độ trễ 1 năm
Nếu tính toán theo cách phân loại SITC, tỷ trọng nhóm hàng chế biến, tinh chế
gia tăng nhưng với tốc độ chậm. cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam có sự chuyển dịch từ
nhóm hàng thô sơ chế, giảm từ 39% (2009) xuống còn 25.59% (2013) sang hàng chế
biến hoặc đã tinh chế, tăng từ 59.6% lên 74.35% trong cùng thời kỳ. Tuy nhiên có thể
nói sự dịch chuyển tích cực này diễn ra rất chậm. Tỷ trọng hàng thô sơ chế vẫn còn rất
lớn, và hàng chế biến, tinh chế vẫn chưa phải là các sản phẩm có hàm lượng công nghệ
và giá trị gia tăng cao.
Trong nhóm sản phẩm thô hoặc mới sơ chế, thì cơ cấu xuất khẩu của chúng ta tập
trung vào nhóm hàng lương thực thực phẩm (SITC 0) và nhiên liệu (SITC 3) còn các
nhóm hàng khác chiếm tỷ trọng thấp hơn nhiều. Sự chuyển dịch trong các mặt hàng
không rõ rệt, SITC 3 có xu hướng giảm qua các năm còn SITC 4 có xu hướng tăng
nhẹ, từ 1.9 triệu USD năm 2009 đến 4,7 triệu USD năm 2013. Điều đáng lưu ý là
nhóm lương thực, thực phẩm và động vật sống là mặt hàng chủ lực của Việt Nam thì
lại có xu hướng chiếm tỷ trọng giảm dần, năm 2013, trị giá nhóm hàng này còn giảm
so với năm 2012.
Trong nhóm sản phẩm đã qua chế biến, tình trạng tương tự cũng diễn ra đối với

cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. Tỷ trọng của các nhóm hàng công nghiệp phân
loại theo nguyên liệu chủ yếu (SITC 6) cũng là ngành lợi thế nhưng tỷ trọng không
đều qua các năm, ngành máy móc, phương tiện vận tải (SITC 7) có sự bứt phá mạnh
trong thời gian này. Tính đến hết 2013 nhóm ngành này đã chiếm gần 1/3 trong tỷ
9
trọng các nhóm ngành xuất khẩu. Nhóm hàng chế biến khác (SITC 8) cũng giảm dần
tỷ trọng.
2.2. Một số sản phẩm xuất khẩu chủ lực:
Nông sản xuất khẩu: So với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu, như: hàng dệt
may, giầy da hay cơ khí, điện tử lắp ráp…, thì trong cùng một lượng kim ngạch xuất
khẩu thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng nông sản
rất thấp. Do đó, thu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu đang cao hơn
nhiều so với các ngành hàng xuất khẩu khác.
Có thể nói, đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo như Việt Nam, khi chưa có
đủ nguồn ngoại tệ để đầu tư xây dựng các nhà máy lớn, khu công nghiệp để sản xuất -
kinh doanh những mặt hàng tiêu tốn nhiều ngoại tệ, cũng như có những thương hiệu
mạnh đủ sức đứng vững trên thị trường thế giới
Ngành gia công xuất khẩu như giày da, máy tính, điện thoại,… là những
ngành sử dụng nhiều lao động vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Đây là một ưu thế
quan trọng giúp nước ta phải giải quyết thêm việc làm cho 1,4 triệu người bước vào
tuổi lao động mỗi năm. Hơn nữa, với việc giá nhân công Việt Nam vẫn còn rẻ hơn các
nước khác trong khu vực, thì trước mắt, đây cũng là một lợi thế so sánh cho ngành
này. Tất nhiên lợi thế này sẽ không tồn tại lâu do quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước giúp cho thu nhập của người dân dần cải thiện.
Như vậy, cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua chủ yếu phát triển
theo chiều rộng với các sản phảm thô, sơ chế và gia công xuất khẩu. Mặc dù chúng ta
xuất khẩu các thiết bị điện tử, công nghệ, các mặt hàng dệt, da dày nhưng phần lớn các
nguyên liệu đầu vào lại từ nguồn vốn FDI. Tăng trưởng xuất khẩu chủ yếu vẫn ở
những mặt hàng do khối FDI sản xuất, và là những mặt hàng dựa vào thâm dụng lao
động và gia công hơn là những mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Điều này là một thực

tế và Bộ Công thương đang yêu cầu các doanh nghiệp FDI phải tích cực thực hiện cam
kết trong giấy phép đầu tư, là tăng tỉ lệ nội địa hoá để tăng hàm lượng giá trị gia tăng
tại Việt Nam.
Khi hội nhập sâu với thế giới, để doanh nghiệp Việt Nam “chen chân” vào chuỗi
giá trị toàn cầu không đơn giản. Nhất là, một thời gian dài, chúng ta đã không có biện
pháp kiên quyết để các doanh nghiệp FDI đầu tư sản xuất linh - phụ kiện trong nước.
10
Khi các dòng thuế trở về 0% thì có khả năng các doanh nghiệp FDI sẽ chuyển từ sản
xuất sang thương mại, xem Việt Nam là thị trường tiêu thụ sản phẩm? - Khi gia nhập
WTO (năm 2007), Việt Nam đã mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, cho phép các
doanh nghiệp FDI đầu tư vào cả sản xuất và thương mại, đồng thời có chính sách ưu
đãi như miễn tiền thuê đất, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp Đổi lại, các doanh
nghiệp FDI phải cam kết đạt một tỉ lệ nội đia hóa nhất định trong hàm lượng sản phẩm
xuất khẩu. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp FDI không tuân thủ cam kết, điển hình là
trong các lĩnh vực lắp ráp máy tính, điện thoại, ôtô, thời gian tới cần đưa vào những
chế tài mạnh mẽ hơn để họ chấp hành cam kết này.
Bảng 3: Tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam
Nhóm
hàng
Giá trị hàng hóa - 100%
Thực hiện trong nước
Thực hiện ở nước
ngoài
Công
nghiệp
Gia công, lắp ráp, chế biến nguyên,
vật liệu đạt 20-30%
Do nhập khẩu nguyên,
vật liệu chiếm: 70-80%
Nông sản,

khoáng sản
Sản xuất nông, lâm, thủy sản, khai
khoáng, nguyên vật liệu đạt 50%
Chế biến ở nước ngoài
50%
(Nguồn: tổng hợp)
Hơn nữa, Việt Nam cũng chưa chú trọng khai thác những lợi thế cạnh tranh khi
xây dựng các ngành công nghiệp, tạo nên mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành
chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn. Bởi vậy, chưa thể vươn tới một số khâu trong
chuỗi giá trị có ảnh hưởng chi phối đến phần giá trị gia tăng của các nhà sản xuất và
xuất khẩu Việt Nam. Do đó, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam thực tế đã không
đem lại sự gia tăng tương ứng trong thu nhập cho người sản xuất do sự rớt giá, hoặc
hàng sản xuất sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, lao động rẻ, hàng hóa có hàm
lượng công nghệ cao.
Đóng góp vào mức xuất khẩu của năm 2014, có 10 nhóm hàng chủ lực: điện
thoại các loại và linh kiện; hàng dệt may; điện tử, máy tính và linh kiện; giày dép;
hàng thủy sản; máy móc, thiết bị, dụng cụ; dầu thô; gỗ và sản phẩm gỗ; phương tiện
11
vận tải và phụ tùng; cà phê.
Chi tiết các mặt hàng và giá trị kim ngạch năm 2014 như sau:

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Nhìn vào 10 mặt hàng chủ lực đều thuộc diện chưa qua chế biến hoặc chỉ ở mức
độ chế biến nông.
• Điện, điện tử và thiết bị điện
Cho đến nay, các mặt hàng điện tử và thiết bị điện xuất khẩu vẫn chủ yếu là gia
côn, lắp ráp, phụ thuộc và nhập khẩu linh kiện và phụ tùng do thiếu công nghiệp phụ
trợ trong nước. Trong khi đó, ngành công nghiệp điện tử của các nước ASEAN bao
gồm Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia và Philippin đã phát triển sang giai
đoạn nghiên cứu, thiết kế sản phẩm, đầu tư công nghệ cao hướng tới sản xuất sản

phẩm có giá trị gia tăng cao, đáng chú ý là các đối thủ lớn của Việt Nam như Trung
Quốc và Thái Lan đang tích cực đẩy nhanh phát triển ngành công nghiệp phụ trợ thì
Việt Nam đang loay hoay chưa tìm ra hướng đi riêng.
• Dệt may
Xuất khẩu hàng dệt may tăng nhanh cả về số lượng và tỷ trọng. Tuy nhiên Việt
Nam vẫn chỉ cạnh tranh ở các sản phẩm may mặc từ bông và sợi tổng hợp cho phân
khúc thị trường cấp trung và cấp thấp. Số liệu năm 2012, có 3 mặt hàng xuất khẩu chủ
12
lực là áo jacket (22%), áo thụn (20%) và quần (16%). Các sản phẩm như áo sơ mi, váy,
quần áo trẻ em có giá trị xuất khẩu ở mức 6%. Các sản phẩm cao cấp như vest xuất
khẩu rất ít. Đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc bởi các sản phẩm
dệt may xuất khẩu của Việt Nam cũng là các sản phẩm xuất khẩu lớn của Trung Quốc.
Ngoài ra Việt Nam cũng đang phu thuộc rất nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu của
đối thủ cạnh tranh. Ngành dệt may Việt Nam đang ở vị trí đáy của chuỗi giá trị toàn
cầu với giá trị gia tăng tương đối thấp. Năng lực sản xuất ngành công nghiệp dệt may
nhìn chung còn kém phát triển. Về nguyên liệu đầu vào, sản lượng bông thấp dần, chỉ
đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu cho ngành bông sợi. Bên cạnh đó, hầu hết các loại vải
sản xuất trong nước có chất lượng thấp và được sử dụng trong sản xuất hàng may mặc
cho thị trường trong nước. Vì vậy, Việt Nam nhập khẩu khoảng 80% vải sử dụng trong
lĩnh vực may mặc, chủ yếu là từ khu vực châu Á để sản xuất hàng dệt may xuất khẩu.
Về quá trình sản xuất, giai đoạn tạo nhiều giá trị gia tăng nhất cho hàng hóa thì ở Việt
Nam, hầu hết các công ty chỉ liên quan đển với các hoạt động cốt lõi (cắt, may), chỉ có
môt lượng nhỏ các doanh nghiệp là tham gia tất cả các khâu. Khoảng 60% các nhà
máy tại Việt Nam trong ngành này là doanh nghiệp nước ngoài, trực tiếp tham gia
trong chuỗi cung ứng trong và ngoài nước của họ.
• Da giày:
Việt Nam hiện nay có khoảng 700 nhà máy da giày có quy mô khác nhau. Lực
lượng lao động sử dụng hầu như là lao động phổ thông, gia công, pha cắt nguyên liệu,
lắp ráp mũ giày, tiền chế đế giày và gò ráp để hoàn thiện. Ngành da giày phụ thuộc tới
60% vào nguyên liệu nhập khẩu, gần như 100% vào thiết kế sản phẩm, công nghệ,

thiết bị và phân phối sản phẩm từ nước ngoài .45% tổng số doanh nghiệp thuộc sở hữu
nhà nước chủ động và độc lập trong thiết kế sản phẩm, mua nguyên liệu, phân phối và
bán sản phẩm. Nhóm doanh nghiệp là các nhà máy gia công theo thiết kế của các
công ty nước ngoài chiếm 40%, một nửa các nhà máy loại này nhận nguyên vật liệu từ
công ty đặt hàng, trong khi nửa còn lại tự tìm nguyên liệu đầu vào. 10% tổng số doanh
nghiệp là tự sản xuất theo mẫu mã riêng, chủ động nguyên liệu và phân phối sản phẩm
nhưng không có thương hiệu cụ thể mà gần như nhái lại các thương hiệu nổi tiếng. Chỉ
5% số doanh nghiệp là có nhãn hiệu riêng, bán tại Việt Nam và các nước trong khu
vực.
13
• Thủy sản:
Tốc độ tăng trưởng trung bình xuất khẩu thủy sản khoảng 25%, Việt Nam hiện là
một trong năm nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, giữ vai trò chủ đạo cung cấp
nguồn thủy sản toàn cầu. Tuy nhiên mặt hàng thủy sản xuất khẩu chính lại tập trung
vào các sản phẩm sơ chế, đông lạnh mà trong đó chiếm tỷ trọng lớn nhất là cá phi lê
đông lạnh và giáp xác đông lạnh. Giá trị gia tăng hàng thủy sản xuất khẩu Việt Nam
còn thấp khi tham gia chuỗi cung ứng thủy sản toàn cầu do những hạn chế từ chuỗi sản
xuất cung ứng nội địa. Các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam chưa khép kín toàn bộ
quy trình nguồn nguyên liệu, gây thiếu hụt và ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nguyên
liệu thủy sản đặc biệt với hai ngành nuôi trồng thủy sản lớn nhất Việt Nam là tôm và
cá tra, cá basa. Thức ăn nuôi trồng vẫn phải nhập khẩu hoặc sản xuất trong nước
nhưng nhập khẩu nguyên liệu đầu vào tới hơn 50%. Thêm vào đó, chất lượng thủy sản
không đáp ứng yêu cầu nước nhập khẩu.
• Café:
Việt Nam là nước xuất khẩu café lớn thứ hai trên thế giới. Theo số liệu năm
2011, Việt Nam chiếm 15,94% sản lượng café xuất khẩu toàn thế giới, sau Brazil và
theo sau bởi Đức. Xét về trị giá hàng xuất khẩu thì Việt Nam chỉ chiếm 7.09% thế giới
sau Brazil, Đức, Colombia do các nước đều xuất khẩu loại cà phê chất lượng cao
Arabica, đã qua chế biến trong khi Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sản phẩm cà phê hạt
sơ chế, chất lượng thấp.

Trong chuỗi giá trị cà phê toàn cầu, Việt Nam chỉ tham gia vào giai đoạn đầu tiên
trong chuỗi, ở quá trình sản xuất, khâu trồng trọt, thu sản phẩm thô qua sơ chế rồi xuất
khẩu. Hạt cà phê thu mua và sơ chế sấy khô chủ yếu sử dụng quy trình và công nghệ
trong nước với chất lượng thấp, khai thác nhân công giá rẻ nên chất lượng nhân công
chưa cao, không có kỹ năng và kiến thức để phân loại cà phê, nâng cao chất lượng sản
phẩm. Thiếu sự hợp tác giữa các nhà máy với nông dân, thiếu vốn đầu tư dẫn tới hạn
chế trong việc thu mua, chế biến, kém hiệu quả hợp tác giữa người chế biến và nông
dân.
PHẦN 2: Những lợi ích và hạn chế của Việt Nam khi lựa chọn xuất khẩu sản
phẩm thô, sơ chế và gia công xuất khẩu
14
1.Lợi ích của xuất khẩu sản phẩm thô, sơ chế và gia công xuất khẩu
1.1.Tăng cường sử dụng các nhân tố sản xuất
Xuất khẩu sản phẩm thô thúc đẩy nền kinh tế sử dụng nhiều yếu tố sản xuất sẵn
có và sử dụng những yếu tố đó hiệu quả hơn. Ví dụ một quốc gia có nhiều đất đai
nhưng thiếu vốn, nếu tất cả các yếu tố sản xuất đều được sử dụng tối đa thì việc phân
bổ lại các nguồn lực để sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng đòi hỏi phải sử dung
nhiều đất khi sản xuất và nhập khẩu những sản phẩm công nghiệp, quốc gia này có thể
tiêu dùng cả 2 loại sản phẩm nhiều hơn và gia tăng giá trị kinh tế cho mình. Trao đổi
thương mại thúc đẩy nền kinh tế huy động đất đai, lao động và vốn nhàn rỗi vào quá
trình sản xuất, do đó có thể sản xuất các mặt hàng để xuất khẩu nhiều hơn, và có thể
nhập khẩu nhiều hơn.
1.2.Bên cạnh đó, còn giúp nền kinh tế tăng cường khả năng huy động các
nhân tố sản xuất.
Việc mở rộng xuất khẩu sản phẩm thô có thể dẫn tới tích lũy các nhân tố sản xuất
khác đặc biệt là vốn và lao động có tay nghề cao. Tăng cường dựa vào sản phẩm thô
có thể giúp gia tăng đầu tư nước ngoài, tiết kiệm trong nước, lao động và nhân lực chất
lượng cao nhằm bổ sung có các nhân tố sản xuất cố định, đất đai và tài nguyên thiên
nhiên. Khi các cơ hội sinh lời từ các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới hay tài nguyên
thiên nhiên trở nên rõ ràng, đầu tư nước ngoài sẽ chảy vào trong nước, đầu tiên là để

khai thác lợi thế so sánh và cuối cùng là đầu tư vào các lĩnh vực khác của đất nước.
Thực tế này đã được chứng minh ở nhiều nước trên thế giới. Việc xuất hiện các dây
chuyền sản xuất hàng xuất khẩu mới còn mở ra nhiều cơ hội đầu tư sinh lời mà nếu chỉ
sử dụng vốn nước ngoài sẽ không hoàn toàn đáp ứng được, cả trong lĩnh vực xuất
khẩu lẫn các ngành công nghiệp có liên quan khác. Những cơ hội này làm gia tăng khả
năng tiết kiệm trong nước, do đó thúc đẩy việc tăng cung vốn cũng như gia tăng đầu tư
vào nền kinh tế. Ít nhất thì một phần trong khoản thu nhập có được từ việc xuất khẩu
hàng sơ chế cũng sẽ được giữ lại dưới dạng tiết kiệm và khoản vay này có thể được sử
dụng để đầu tư vào các cơ hội đầu tư mới.
1.3.Phát huy các mối liên kết trong nền kinh tế
Xuất khẩu sản phẩm thô cũng tác động đến các lĩnh vực khác có liên quan thông
qua các mối liên kết kinh tế như liên kết các ngành (quan hệ xuôi, ngược), liên kết tiêu
dùng, cải thiện cơ sở hạ tầng và tăng doanh thu cho ngân sách nhà nước…thúc đẩy quá
15
trình tăng trưởng theo chiều rộng. Việc tăng trưởng của một ngành (ví dụ ngành dệt) sẽ
kích thích quá trình sản xuất trong nước đối với các ngành sản xuất cung cấp các yếu
tố đầu vào cho ngành đó ( ví dụ bông, sợi, thuốc nhuộm). Liên kết ngược này đặc biệt
phát huy tác dụng khi ngành sử dụng nguyên liệu có quy mô lớn để ngành cung cấp có
thể tận dụng hiệu quả kinh tế theo quy mô, từ đó cắt giảm chi phí, nâng cao sức cạnh
tranh của thị trường nội địa cũng như xuất khẩu. Bên cạnh đó, mở rộng sản xuất hàng
sơ chế cũng có thể kích thích các mối liên kết xuôi bằng cách cung cấp các mặt hàng
sơ chế với chi phí thấp làm nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp khác. Khi
xuất khẩu nhiều mặt hàng sơ chế mang lại nguồn thu nhập cao hơn thì sẽ khiến cho
nhu cầu nhiều mặt hàng tiêu dùng tăng lên. Xuất khẩu sản phẩm thô cũng giúp hình
thành đội ngũ lao động có tay nghề cao. Những mối quan hệ qua lại trên góp phần tạo
động lực tăng trưởng kinh tế
2. Hạn chế của việc xuất khẩu sản phẩm thô, sơ chế và gia công sản xuất
Mặc dù xuất khẩu sản phẩm thô mang lại một số những lợi ích như trên nhưng
trong dài hạn, nếu tiếp tục duy trì xuất khẩu sản phẩm thô, sơ chế, gia công sản xuất
thì Việt Nam nói riêng cũng như các nước đang phát triển nói chung sẽ không thể phát

triển bền vững
2.1.Cung sản phẩm thô không ổn định
Cung sản phẩm thô phụ thuộc vào 2 ngành cơ bản: công nghiệp khai khoáng và
nông nghiệp có đặc điểm là sản xuất trong môi trường tự nhiên do đó kết quản của quá
trình sản xuất chịu tác động rất lớn của biến động thời tiết, dẫn tới sự bất ổn định trong
sản xuất, ảnh hưởng tới nguồn cung sản phẩm thô
2.2.Cầu sản phẩm thô tăng rất chậm, thậm chí có xu hướng giảm
Cầu đối với các loại lương thực thiết yếu tăng chậm hơn so với thu nhập. Bởi
vậy, khi thu nhập của các nước nhập khẩu lương thực tiếp tục tăng, tỉ lệ thu nhập chi
tiêu cho lương thực vẫn giảm dần. Thêm vào đó, tốc độ tăng dân số của các nước phát
triển hiện nay ở mức rất thấp vì vậy việc mở rộng xuất khẩu từ nguồn này rất ít hi
vọng. Bên cạnh đó, việc thay đổi công nghệ trong sản xuất cũng có tác động tới tiêu
dùng nguyên vật liệu thô. Công nghê, may móc mới được cải tiến giúp quá trình sản
xuất giảm mức tiêu hao nguyên liệu và công nghệ mới cũng cho phép thay thế nguyên
liệu thô bằng các nguyên liệu tổng hợp. Vì vậy việc duy trì tỉ trọng xuất khẩu sản
16
phẩm thô, sơ chế không thể thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế.
2.3.Giá tương đối của các sản phẩm thô trong trao đổi thương mại có xu
hướng giảm.
Trong dài hạn, giá các sản phẩm thô trên thị trường quốc tế sẽ giảm so với giá
các mặt hàng chế biến ( theo nghiên cứu của nhà kinh tế học Achentina, Raul Prebisch
và Hans Singer thuộc trường đại học Sussex). Vì phần lớn các nước đang phát triển
xuất khẩu sản phẩm thô và nhập khẩu hàng chế biến nên sự dịch chuyển giá tương đối
giữa hai nhóm sản phẩm này có nghĩa là về lâu dài các nước đang phát triển sẽ phải
sản xuất nhiều sản phẩm thô hơn để có thể nhập khẩu một lượng sản phẩm chế biến
như cũ. Giá tương đối giảm, cộng với việc nhu cầu đối với sản phẩm thô tăng chậm có
nghĩa là các nước phụ thuộc nhiều vào sản xuất sản phẩm thô sẽ có nguy cơ tụt hậu
trong quá trình phát triển.
2.4.Thu nhập từ xuất khẩu sản phẩm thô không ổn định
Khi cung cầu và giá cả sản phẩm thô biến động tất yếu dẫn tới mức thu nhập biến

động. Tuy nhiên nguồn gốc sâu xa của sự bất ổn định là do cung hàng xuất khẩu thô
( vì sản lượng không ổn định nên các cơ sở nhập khẩu phải tìm cách chống lại sự mất
ổn định này) nhưng sự biến động của cung lại ảnh hưởng tới thu nhập ít hơn sự biến
động của cầu. Đối với các nước phát triển, nơi nhập khẩu đại bộ phận sản phẩm thô,
độ co giãn của cầu theo giá là thấp, đặc biệt với nông sản xuất khẩu. Ngược lại, đối với
các nước đang phát triển, độ co giãn này lại rất cao.
2.5.Xuất khẩu nhiều sản phẩm thô, sơ chế hay gia công xuất khẩu sẽ làm
ảnh hưởng tới việc xây dựng hình ảnh, thương hiệu của Việt Nam.
Theo số liệu thống kê của Cục Sở hữu công nghiệp (Bộ Khoa học và Công
nghệ), trong hơn 90.000 thương hiệu hàng hóa các loại được đăng ký bảo hộ tại Việt
Nam, mới có khoảng 15% là của các doanh nghiệp trong nước và có đến hơn 80%
hàng nông sản của ta được bán ra thị trường thế giới thông qua các thương hiệu nước
ngoài. Tương tự, tại thị trường trong nước cũng có khoảng 80% sản phẩm nông sản
được tiêu thụ mà không hề có nhãn hiệu. Chính vì chưa có tên tuổi nên nhiều loại nông
sản cạnh tranh rất kém khi ra thị trường lớn và nhanh chóng bị doanh nghiệp nước
ngoài thâu tóm.Trên thị trường quốc tế, Việt Nam đang xuất khẩu mạnh các mặt hàng
nông sản, thực phẩm chế biến, giày dép, quần áo, thủ công mỹ nghệ, thủy hải sản… và
chất lượng của các mặt hàng này ngày cũng càng tăng. Tuy nhiên, tới 90% hàng Việt
17
Nam phải vào thị trường thế giới thông qua trung gian dưới dạng thô, hoặc gia công
cho các thương hiệu nổi tiếng nước ngoài. Do đó, người tiêu dùng nước ngoài vẫn còn
chưa có khái niệm về hàng hóa mang thiệu hiệu Việt Nam. Đây là một sự yếu kém
thua thiệt lớn của hàng xuất khẩu Việt Nam ra thị trường nước ngoài
2.6. Các sản phẩm thô khai thác từ thiên nhiên ( khoáng sản) ảnh hưởng đến
vấn đề phát triển bền vững, ảnh hưởng đến môi trường
Việc cấp phép khai thác cho các doanh nghiệp một cách dễ dãi dẫn đến sự lãng
phí nghiệm trọng. Điều đáng nói ở đây là sự cấp phép dễ dãi, mà một số chuyên gia
kinh tế cho là do nhóm lợi ích chi phối, cộng với sự “dễ dãi” cả về công nghệ khai
thác, làm cho tài nguyên bị thất thoát rất lớn.Tiếp đến, việc các cơ quan quản lý nhà
nước ngó lơ cho các doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản thô, thay vì lấy nguồn tài

nguyên khoáng sản làm “mồi” để thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến,
khiến cho Việt Nam mất dần cơ hội để phát triển những ngành công nghiệp quan
trọng, những lĩnh vực phụ trợ có sức lan tỏa lớn. Đây mới là thiệt hại đáng kể cho nền
kinh tế.Hơn nữa, việc mở đường cho khai thác tài nguyên mà không gắn với phát triển
công nghiệp chế biến còn đẩy nhanh tốc độ “chảy máu tài nguyên”. Khi các ngành
công nghiệp nội địa phát triển thì tài nguyên cũng không còn. Công nghiệp chế biến gỗ
là một ví dụ điển hình.Đáng ngại hơn, việc phát triển kinh tế dựa chủ yếu vào việc
khai thác và xuất khẩu tài nguyên thô còn làm triệt tiêu động lực phát triển khoa học
công nghệ.
3. Đánh giá nhận định: “Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam…”
Từ những đánh giá về lợi thế và hạn chế của việc xuất khẩu sản phẩm thô, sơ
chế, gia công ở phần trên, thì nhận định “Cơ cấu hàn xuất khẩu của Việt Nam cần được
duy trì với các sản phẩm thô, sơ chế và gia công xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao,
(khoảng 50%) nhằm phát huy tối đa lợi thế của quốc gia trong thương mại quốc tế” là
một nhận định sai. Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng,
việc xuất khẩu những sản phẩm thô, sơ chế, gia công trong giai đoạn đầu của quá trình
phát triển là điều cần thiết để tạo động lực và nền tảng phát triển khi đất nước đang
thiếu vốn, công nghệ và lao động chất lượng cao. Tuy nhiên trong dài hạn nếu vẫn tiếp
tục duy trì tỉ trọng xuất khẩu của sản phẩm thô, sơ chế, gia công ở mức cao (khoảng
50%) thì sẽ khiến cho nền kinh tế trì trệ, không tạo được động lực để phát triển và cho
dù có tạo được sự tăng trưởng thì đó cũng không phải là tăng trưởng bền vững. Chúng
18
ta phải có biện pháp chuyển dịch cơ cấu theo hướng giảm dần tỷ trọng các sản phầm
sử dụng nhiều lao động và tài nguyên thiên nhiên sẵn có bởi càng theo thời gian,
những lợi thế hiện tại chưa chắc đã là vĩnh viễn, tài nguyên thiên nhiên sẽ dần cạn kiệt,
nguồn nhân công giá rẻ vốn là ưu thế của Việt Nam, nhưng cơ cấu dân số vàng của
Việt Nam dự báo chỉ đến năm 2040, khi đó những lợi thế về nhân lao động sẽ mất đi,
nếu Việt Nam không tự nâng cao trình độ lao động, chuyển dịch kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, giảm sức lao động, không tự chủ phát triển các ngành công nghệ cao
thì sẽ phụ thuộc rất nhiều vào thị trường thế giới. Một khi các nhà đầu tư rút khỏi thị

trường nội địa thì không chỉ xuất khẩu Việt Nam suy giảm mà ngay cả tăng trường
kinh tế cũng bị đe dọa.
Thực tế đã cho thấy rất nhiều nước trên thế giới lấy xuất khẩu sản phẩm thô, sơ
chế, gia công làm động lực để phát triển kinh tế trong giai đoạn đầu. Từ đó tích lũy
nguồn vốn, tập trung phát triển công nghệ cũng như nhân lực chất lượng cao, dần
chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, tăng tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm chế biến,
giam tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm thô, sơ chế, gia công. Việt Nam cũng đã có những
chuyển biến tích cực trong xuất khẩu hàng hóa giai đoạn 2011-2014. Xuất khẩu hàng
hóa đạt nhịp độ tăng bình quân trên 19,4%/năm, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra
(mục tiêu đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lân thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam và
mục tiêu tại Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kì 2011-2020, điịnh hướng đến
năm 2013 là 12%/năm), kim ngạch tăng từ 96,9 tỉ USD năm 2011 lên 147 tỉ USD năm
2014. Đặc biệt trong các năm 2011-2013, mặc dù cầu trên thị trường thế giới giảm do
tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng kim ngạch
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vẫn tăng 22,3%/năm, nhanh hơn 4 lần tốc độ tăng
GDP
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, giảm hàm
lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp. Tỉ
trọng nhóm hàng nông sản, thủy sản giảm từ 20,4% năm 2011 xuống còn khoảng 14%
năm 2014. Tỉ trọng nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản giảm từ 11,6% năm 2011 xuống
còn khoảng 6,2% năm 2014. Tỉ trọng nhóm hàng công nghiệp chế biến tăng mạnh từ
61,2% năm 2011 lên 74,1% năm 2014
Quy mô các mặt hàng xuất khẩu được mở rộng, tập trung cho các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực. Số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỉ USD trở lên đã tăng qua
19
các năm, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 2014,
có khoảng 24 mặt hàng dạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD, chiếm khoảng 86%
tổng kim ngạch xuất khẩu.
PHẦN 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG XUẤT KHẨU
Từ những hạn chế đưa ra cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong

những năm qua có thể đưa ra một số giải pháp sau
1.Vốn đầu tư: đầu tư xây dưng cơ bản, đặt biệt vốn FDI có chọn lọc đi kèm
chuyển giao công nghệ. Khẩn trương xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
đồng bộ và tương đối hiện đại như cảng biển, đường bộ, đường sắt, sân bay để đáp ứng
và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, tạo thuận lợi cho thu hút FDI. Nâng cấp và xây
dựng mới hệ thống cấp nước ở các đô thị, các khu công nghiệp, đảm bảo nhu cầu nước
sạch cho sản xuất, kinh doanh và nhu cầu sinh hoạt của dân cư. Hiện đại hóa thông tin
liên lạc, xây dựng đồng bộ với mạng lưới thông tin quốc gia, hòa nhập với cộng đồng
quốc tế và khu vực; đáp ứng nhu cầu thông tin cho sản xuất và đời sống. Đặc biệt, cần
đẩy mạnh đồng thời cả liên kết các doanh nghiệp trong nước trong việc tạo dựng mối
quan hệ giữa các ngành, vùng để xây dựng các khu công nghiệp phụ trợ, các vùng
nguyên liệu cho doanh nghiệp FDI và liên kết với các công ty đa quốc gia để sản xuất
và xuất khẩu ra thị trường thế giới). Trong đó, cần hướng tới chiến lược quan hệ với
các tập đoàn kinh tế nước ngoài nắm giữ công nghệ gốc và đạt mục tiêu và lộ trình tiếp
nhận công nghệ trong FDI. Trên lý thuyết, để tăng năng suất, thúc đẩy thương mại hóa,
tạo hiệu quả cao hơn thì các nhóm hàng nên có sự liên kết, gần gũi như thủy sản với
nông sản và thực phẩm chế biến, nội thất với vật liệu xây dựng, thiết bị y tế với dược
phẩm, hóa chất với xăng dầu, chất dẻo Tuy nhiên, các ngành xuất khẩu có thế mạnh
của Việt Nam thì ở cách nhau rất xa trên bản đồ nhóm hàng thủy sản, nội thất, giày
da nên không hình thành được tác động lan tỏa giữa các doanh nghiệp xuất khẩu và
không tạo được hiệu ứng “tràn ngập” trên thị trường quốc tế.
2. Nâng cao hiệu quả chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu:
Thứ nhất, chuyển đổi mô hình xuất khẩu
Từ bối cảnh suy thoái kinh tế hiện nay, đã xuất hiện nhiều quan điểm cho rằng,
cần chuyển định hướng phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu sang thay thế nhập khẩu
20
và phát triển thị trường nội địa. Thực tế tại nhiều nước trên thế giới đã thành công
thông qua các biện pháp: tăng cường bảo hộ thị trường trong nước, kích cầu tiêu dùng
nội địa. Điển hình là Trung Quốc.
Tuy nhiên, đối với Việt Nam, hiện nay, khi thị trường trong nước chưa phát triển,

cần tranh thủ nguồn lực bên ngoài, nhất là FDI, để nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Phát triển xuất khẩu là con đường nhanh nhất để Việt Nam thâm nhập sâu hơn
vào chuỗi giá trị toàn cầu, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Do vậy, nhu cầu
phải nhanh chóng thay đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu ngày càng trở nên cấp bách.
Những năm qua, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dựa vào khai thác
lợi thế so sánh sẵn có về tài nguyên và lao động rẻ. Lợi thế nói trên hiện tại và một vài
năm tới vẫn đang còn phát huy tác dụng. Nhưng, cũng dễ dàng nhận thấy rằng, nguồn
tài nguyên ngày càng cạn kiệt. Những hạn chế mang tính cơ cấu về lợi thế tự nhiên,
như: khả năng khai thác, đánh bắt, nuôi trồng sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu trong dài hạn. Đó là chưa kể đến những tác động tiêu cực đến môi trường được
xem như một hạn chế cản trở tăng trưởng xuất khẩu.
Cùng với đó, lợi thế lao động rẻ cũng ngày càng giảm dần khi chênh lệch tiền
lương lao động ở Việt Nam với các nước giảm dần và nhu cầu cao trên thị trường thế
giới về những hàng hóa có hàm lượng công nghệ, khoa học ngày càng cao. Do đó, dựa
vào mô hình tăng trưởng theo chiều rộng trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh sẵn có,
xuất khẩu Việt Nam khó có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng ở mức cao trong thời
gian tới.
Việc xây dựng mô hình tăng trưởng mới cần phải hướng theo chiều sâu, dựa vào
việc khai thác lợi thế cạnh tranh động để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả
xuất khẩu trên cơ sở đẩy mạnh cải cách thể chế, sử dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại và đồng bộ.
Chuyển từ phát triển xuất khẩu theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, từ
việc dựa chủ yếu vào lợi thế so sánh sẵn có (tĩnh) sang lợi thế cạnh tranh “động”
không những là nhân tố quyết định chất lượng tăng trưởng xuất khẩu, mà còn duy trì
được tốc độ tăng trưởng cao, nâng cao hiệu quả kinh tế, cũng như khả năng cạnh tranh
của hàng hóa xuất khẩu, phù hợp với xu hướng biến đổi của thị trường. Nhờ đó, hạn
chế được rủi ro khi thị trường thế giới có những biến động bất lợi. Chuyển nền kinh tế
21
từ khai thác và sử dụng tài nguyên dưới dạng thô sang chế biến tinh xảo hơn, nâng cao
giá trị gia tăng từ mỗi một đơn vị tài nguyên được khai thác.

Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu
Đối với nhóm hàng nguyên liệu và khoáng sản: Giảm khối lượng xuất khẩu
khoáng sản thô, chuyển dần sang xuất khẩu sản phẩm chế biến, tận dụng cơ hội thuận
lợi về thị trường và giá cả để tăng giá trị nhóm hàng nhiên liệu và khai khoáng.
Nhóm hàng nông lâm, thủy sản: Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới
để gia tăng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản; hướng mạnh vào
phát triển sản phẩm sạch, giá trị gia tăng cao, có sức cạnh tranh và vượt được rào cản
thương mại mới ngày càng tinh vi của các nước nhập khẩu.
Đối với nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo và thủ công mỹ nghệ: Khai thác,
sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu đa dạng, nguồn lao động dồi dào để phát triển
công nghiệp chế biến và chế tạo sản phẩm thủ công mỹ nghệ có tỷ lệ giá trị trong nước
và giá trị gia tăng cao để phục vụ xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch và hiệu quả xuất
khẩu, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
- Thứ ba, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu
Hàng hóa Việt Nam, đặc biệt là hàng nông sản, dệt may khi tham gia xuất khẩu
vẫn bị xếp vào nhóm hàng gia công, sơ chế hoặc nghiên liệu thô, tức là giá trị thấp,
nên mặc dù khối lượng xuất khẩu lớn, nhưng giá trị gia tăng không nhiều, dẫn đến giá
trị xuất khẩu không cao. Trong khi đó, không ít mặt hàng xuất khẩu thô từ Việt Nam
đưa các hãng phân phối lớn tiếp tục đóng gói, nhập khẩu lại thị trường Việt Nam với
thương hiệu ngoại. Bởi vậy, để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng xuất khẩu Việt Nam,
Nhà nước nên tập trung cho việc cung cấp thông tin và thực hiện chiến lược xây dựng
thương hiệu đối với những mặt hàng Việt Nam đã xuất khẩu và được thị trường thế
giới chấp nhận, như: gạo, cà phê, thủ công mỹ nghệ…; từng bước thiết lập hệ thống
phân phối tại các nước và khu vực trên thế giới để mang lại giá trị xuất khẩu cao.
Đồng thời, các nhà sản xuất nỗ lực tiến hành nâng cấp các khâu để từng bước
chuyển từ nhà sản xuất gia công, không tên tuổi thành nhà sản xuất có thương hiệu
riêng, cạnh tranh trên thị trường toàn cầu bằng chất lượng và tạo ra giá trị gia tăng cao
hơn cho mình. Đặc biệt, nhà sản xuất phải biết gắn mình với thị trường tiêu thụ cuối
cùng; cần học cách không chỉ làm thế nào để tổ chức mạng lưới sản xuất, mà còn phải
22

học cả cách tiếp thị sản phẩm, tham gia vào dây chuyền phân phối và đáp ứng các điều
kiện về giao hàng và tài chính. Hơn nữa, quá trình nâng cấp này không chỉ diễn ra ở
từng doanh nghiệp riêng lẻ, mà còn phải được tiến hành ở cấp độ ngành, mạng lưới
giữa những doanh nghiệp cung ứng và khách hàng, cũng như trong toàn nền kinh tế.
- Đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ với ngành du lịch – ngành công nghiệp không khói
Ngành du lịch không chỉ đem lại GDP cho đất nước, tạo công ăn việc làm mà còn là
phương thức hữu hiệu để quảng bá hình ảnh của đất nước, con người Việt Nam. Tuy
nhiên trong những năm qua ngành du lịch mới chỉ phát triển chủ yếu với các loại hình
du lịch thiên nhiên, chưa có sự đầu tư từ hạ tầng cơ sở, trang thiết bị đến con người…
khai thác quá mức, không có sự quản lý, hướng dẫn đã xâm hại nghiêm trọng đến nguồn
tài nguyên thiên nhiên gây tác động ngược lại với môi trường du lịch và làm mất dần
những giá trị văn hoá truyền thống. Để phát triển du lịch sinh thái mang tính bền vững,
việc phối hợp giữa các cấp, các ngành trong khai thác, quản lý là hết sức cần thiết. Phải
có những qui chế khai thác, hướng dẫn và kiểm tra sát sao đối với những điểm du lịch
chuẩn bị xây dựng, cụ thể hóa trong việc qui hoạch, quản lý điểm du lịch sinh thái và
luôn gắn lợi ích của cộng đồng với phát triển du lịch; qui hoạch có phân vùng chức
năng trên địa bàn du lịch trọng điểm nhằm xác định cụ thể các khu vực, điểm cần bảo vệ
nguyên vẹn, khu vực quy hoạch dự trữ đất đai, các khu vực cần phục hồi. Tháng
12/2014, chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 92-NQ/CP về một số giải pháp đẩy
mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới.
3. Mở rộng thị trường xuất khẩu
Về cơ cấu thị trường xuất khẩu, củng cố và mở rộng vững chắc thị phần của hàng
Việt Nam tại thị trường EU, Bắc Mỹ; tạo bước đột phá mở rộng thị trường xuất khẩu
tại Liên bang Nga và Đông Âu, Mỹ La Tinh, Tây Á, Nam Á và châu Phi. Bên cạnh đó,
tiếp tục coi thị trường châu Á - Thái Bình Dương (Trung Quốc, Indonesia…) là thị
trường xuất khẩu trọng điểm trong 10 năm tới. Xuất khẩu sang các quốc gia và vùng
lãnh thổ này, Việt Nam sẽ tận dụng được lợi thế về khoảng cách địa lý và nhiều nét
tương đồng về văn hóa. Điều này sẽ mang lại một số thuận lợi trong việc tiếp cận và
mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời vẫn bảo đảm duy trì thị trường trong nước.
4. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

23
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một '' tài nguyên đặc biệt '', một
nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển
Nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các
nguồn lực.
- Gắn chặt hơn nữa sự gắn bó giữa các doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo trở
thành một nhu cầu bức bách cho sự phát triển của cả nhà trường và doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp nên có chiến lược phát triển nhân lực của mình và đặt hàng cụ thể cho
các cơ sở đào tạo. Trong sự gắn bó này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên
gia đào tạo, trường đại học, và doanh nghiệp trong thiết kế và quản lý chương trình
đào tạo.
- Các công ty cần xây dựng chiến lược phát triển của mình, tạo cơ sở để xác định
đúng nhu cầu nhân lực, từ đó phát triển chiến lược đào tạo và phát triển nhân lực đáp
ứng nhu cầu chiến lược của công ty:
• Chiến lược đào tạo và phát triển nhân lực cần đặt trong tổng thể chiến
lược nguồn nhân lực của doanh nghiệp: Thu hút, hấp dẫn, động viên, đánh giá, đào tạo
và phát triển, và phát triển sự nghiệp.
• Chiến lược đào tạo và phát triển nhân lực cần chuyển chú trọng từ đào tạo, huấn
luyện (training) sang việc chú trọng vào việc học tập (learning) thường xuyên liên tục
của người lao động.
• Bên cạnh các kỹ năng kỹ thuật, cần chú trọng phát triển các năng lực của người
lao động hiện đại: Giải quyết vấn đề sáng tạo, truyền đạt, đàm phán, quản lý xung đột,
làm việc đồng đội, học tập liên tục, thích ứng
• Đổi mới các hoạt động quản lý việc thực hiện nhiệm vụ qua đó khuyến
khích áp dụng những điều học được vào công việc, tạo môi trường thuận lợi để áp
dụng những điều đã học vào công việc.
C –KẾT LUẬN
Từ bức tranh xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua, cũng như những phân
tích về lợi thế, hạn chế của xuất khẩu sản phẩm thô, sơ chế, hàng gia công, chúng tôi
khẳng định nhận định trên là một nhận định sai. Những lợi ích từ việc xuất khẩu sản

phẩm thô, sơ chế , hàng gia công mang lại là không thể phủ nhận, nhưng nếu cứ tiếp
24
tục duy trì tỉ trọng xuất khẩu mặt hàng này khoảng 50% thì sẽ mang lại những hậu quả
nặng nề cho nền kinh tế. Chính vì vậy, Việt Nam cần giảm tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm
thô, sơ chế, gia công và tăng tỉ trọng các mặt hàng với hàm lượng công nghệ cao, xây
dựng kế hoạch, phương hướng xuất khẩu đúng đắn để đẩy nhanh quá trình phát triển
trong thời gian tới.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kinh tế quốc tế - NXB Kinh tế quốc dân
2. Giáo trình Kinh tế phát triển – NXB Kinh tế quốc dân
3. Website Tổng cục thống kê
4. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội hàng năm
25

×