Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Đánh giá thực trạng thị trường bảo hiểm nhân thọ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.24 KB, 21 trang )

1
Lời mở đầu
1. Lý do nghiên cứu
Con người luôn luôn là nhân tố quyết định tới sự phát triển của xã hội trên tất
cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…Đồng thời cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, con người ngày càng có nhiều nhu cầu và đòi hỏi được thỏa mãn.
Sự ra đời của thị trường bảo hiểm nhân thọ với hàng hóa là các sản phẩm bảo hiểm
nhân thọ cũng không nằm ngoài mục đích đáp ứng một cách đầy đủ và hoàn thiện
hơn nữa những nhu cầu ngày càng cao của con người. bảo hiểm nhân thọ đem lại
nhiều lợi ích cho xã hội vì bên cạnh ý nghĩa bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ còn được
xem là kênh huy động vốn hiệu quả để đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam…
Bảo hiểm nhân thọ ra đời từ rất sớm và đã trở nên quen thuộc đối với người
dân của các nước phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam loại hình bảo hiểm
này vẫn còn khá mới mẻ. Thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam chính thức ra
đời vào tháng 8/1996. Từ đó cho đến nay thị trường bảo hiểm Việt Nam đã và đang
phát triển với tốc độ tăng trưởng cao, quy mô thị trường ngày càng mở rộng, mạng
lưới hoạt động được triển khai hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Tuy nhiên, thị
trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam với một lượng dân số trên 90 triệu người là
một thị trường đầy tiềm năng nhưng mức độ khai thác thị trường còn rất nhỏ bé
chưa đáp ứng được nhu cầu về bảo hiểm nhân thọ của các tầng lớp dân cư trong xã
hội. Trên cơ sở đó, việc nghiên cứu phân tích và đánh giá những mặt được mất của
thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam là hết sức cần thiết có ý nghĩa cả về mặt
lý luận và thực tiễn. Do đó em chọn đề tài : “ Đánh giá thực trạng thị trường bảo
hiểm nhân thọ ở Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam trong thời gian qua.
- Nhận xét và đánh giá thực trạng thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu đánh giá thực trạng thị trường bảo hiểm nhân
thọ ở Việt Nam.
4. Nội dung nghiên cứu


Bài tiểu luận ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, được chia
thành 2 phần như sau:
Phần I: Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ.
Phần II: Thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.
2
Phần I. Lý luận chung về Bảo hiểm nhân thọ
1.1. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo
hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ
hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định
trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định),
còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, bảo
hiểm nhân thọ là quá trình bảo hiểm cho các rủi ro có liên quan đến sinh mạng,
cuộc sống và tuổi thọ của con người.
Theo Luật Kinh doanh Bảo hiểm của Việt Nam thì: “Bảo hiểm nhân thọ là loại
hình bảo hiểm cho cuộc sống của người được bảo hiểm, liên quan đến sự kiện sống
và chết của người được bảo hiểm.”
1.1.2. Sự ra đời của bảo hiểm nhân thọ
Hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1583, do công
dân Luân Đôn – Anh là ông William Gybbon tham gia. bảo hiểm nhân thọ có phôi
thai từ rất sớm, nhưng lại không có điều kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ
sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống
con người, nên bảo hiểm nhân thọ phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy
nhiên sau đó do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con người được cải
thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật nên
bảo hiểm đã có điều kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn:
Năm 1759 công ty bảo hiểm nhân thọ ra đời đầu tiên ở Philadenphia (Mỹ).
Năm 1762, công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable ở Anh được thành lập và bán
bảo hiểm nhân thọ cho mọi người dân.

Ở Châu Á, công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868
công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai công ty khác
là Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến nay.
1.2. Bảo hiểm nhân thọ mang một số đặc điểm cơ bản sau
Hai đặc diểm quan cơ bản nhất của bảo hiểm nhân thọ
- Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm dài hạn: thời hạn bảo hiểm nhân
thọ thường từ 5 năm trở lên. Việc định phí phải căn cứ vào xác suất xảy ra tử vong
(thường được xác định theo giới tính).
3
- Hầu hết các loại hình bảo hiểm nhân thọ là sự kết hợp giữa bảo hiểm với
tiết kiệm hoặc đầu tư : Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa
bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ; bảo hiểm nhân thọ là loại hợp đồng
dài hạn, thực tế là mỗi người mua bảo hiểm nhân thọ sẽ định kỳ đóng một khoản
tiền nhỏ (gọi là phí bảo hiểm) cho công ty bảo hiểm, ngược lại công ty bảo hiểm có
trách nhiệm trả số tiền lớn (gọi là số tiền bảo hiểm) cho người hưởng quyền lợi bảo
hiểm như đã thỏa thuận từ trước khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Chính vì vậy
bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro. Và để tránh rủi ro
nhiều, các nhà hoạt động bảo hiểm luôn luôn áp dụng quy luật số lớn.
Ngoài ra ở một số nước phát triển như: Anh, Pháp, Đức , Nhà nước thường
tạo điều kiện thuận lợi cho bảo hiểm nhân thọ bằng cách có chính sách thuế ưu đãi
với mục đích là tạo ra cho các cá nhân cơ hội để tiết kiệm, tự mình lập nên quỹ hưu
trí, từ đó cho phép giảm bớt phần trợ cấp từ nhà nước; Mặt khác, còn đẩy mạnh
được quá trình tập trung vốn trong các công ty bảo hiểm để từ đó có vốn dài hạn
đầu tư cho nền kinh tế. Điều này thể hiện tính chất đầu tư trong bảo hiểm nhân thọ.
Ngoài ra bảo hiểm nhân thọ còn có thêm một số đặc trưng sau:
- Bảo hiểm nhân thọ là bảo hiểm con người: với đặc trưng cơ bản là tuổi thọ,
tính mạng, sức khỏe con người không xác định được giá trị và chỉ công ty bảo
hiểm nhân thọ mới được cung cấp.
- Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được nhiều mục đích rất khác nhau của người
tham gia bảo hiểm: Mỗi mục đích được thể hiện rõ trong từng loại hợp đồng bảo

hiểm; hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đôi khi còn có vai trò như một vật thế chấp để
vay vốn hoặc bảo hiểm nhân thọ tín dụng thường được bán cho cho các đối tượng
đi vay để họ mua xe hơi, đồ dùng gia đình hoặc dùng cho các mục đích cá nhân
khác,…Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau nên loại hình bảo hiểm
này có thị trường ngày càng rộng và được rất nhiều người quan tâm.
- Các loại hợp đồng trong bảo hiểm nhân thọ rất đa dạng và phức tạp: Mỗi
sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng có nhiều loại hợp đồng khác nhau, chẳng hạn
bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có các loại hợp đồng 5 năm, 10 năm; mỗi hợp đồng với
mỗi thời hạn khác nhau lại có sự khác nhau về số tiền bảo hiểm, phương thức đóng
phí, độ tuổi của người tham gia,…ngay cả trong một bản hợp đồng, mối quan hệ
giữa các bên cũng rất phức tạp, khác với các bản hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ,
trong mỗi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể có 4 bên tham gia (người bảo hiểm,
người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và người được thụ hưởng quyền lợi
bảo hiểm).
-> Bảo hiểm nhân thọ là loại hợp đồng với các điều khoản mẫu nên yêu cầu rất cao
về tính linh hoạt và tính minh bạch.
4
- Phí bảo hiểm nhân thọ chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, vì vậy
quá trình định phí khá phức tạp: Quá trình định phí rất phức tạp, đòi hỏi phải nắm
vững đặc trưng của mỗi loại sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích được chiều
hướng phát triển của mỗi sản phẩm trên thị trường nói chung.
- Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định: Ở các nước kinh tế phát triển bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển hàng
trăm năm nay, tuy nhiên có một số quốc gia trên thế giới đến nay vẫn chưa triển
khai được bảo hiểm nhân thọ mặc dù người ta nhận thức rất rõ vai trò và lợi ích của
bảo hiểm nhân thọ, lý do chủ yếu là chưa đảm bảo cơ sở về điều kiện kinh tế - xã
hội như: tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP, GDP/người, thu nhập của người dân, tỷ lệ
lạm phát, sức mua của đồng nội tệ, tỷ giá hối đoái, về quy mô dân số, tuổi thọ bình
quân, trình độ học vấn, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh…
Ngoài ra, môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng mạnh đến sự ra đời và thúc đẩy

sự phát triển của bảo hiểm nhân thọ. Thường thì luật kinh doanh bảo hiểm, các văn
bản, quy định có tính pháp quy phải được ra đời trước khi ngành bảo hiểm phát
triển.
1.3. Các nguyên tắc của bảo hiểm nhân thọ
- Quyền lợi bảo hiểm: Nếu quyền lợi bảo hiểm không tồn tại khi đơn bảo hiểm
được phát hành, đơn bảo hiểm sẽ không có hiệu lực. Việc chi trả quyền lợi bảo
hiểm được thực hiện theo phương thức hóa trên cơ sở thỏa thuận giữa 2 bên.
Những mối quan hệ trong quyền lợi bảo hiểm là những người có quan hệ huyết
thống; ràng buộc hôn nhân; người cho vay và người đi vay; người sử dụng lao động
và người lao động.
- Trả tiền khoán: khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, khoản chi trả của bảo hiểm
được xác định dựa vào số tiền bảo hiểm và sự kiện bảo hiểm.
- Quyền lợi độc lập: quyền lợi giữa các hợp đồng bảo hiểm độc lập với nhau.
Người được bảo hiểm có thể được bảo hiểm bởi nhiều hoạt động bảo hiểm khác
nhau.
1.4. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ
Trong thực tế, có 3 loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản:
- Bảo hiểm trong trường hợp tử vong;
- Bảo hiểm trong trường hợp sống;
- Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
1.4.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong
Đây là loại hình phổ biến nhất trong bảo hiểm nhân thọ và được chia thành 2
nhóm
a. Bảo hiểm tử kỳ (bảo hiểm tạm thời hay bảo hiểm sinh mạng có thời hạn):
- Bảo hiểm tử kỳ cung cấp sự bảo vệ trong một thời gian chỉ định.
5
- Quyền lợi bảo hiểm chỉ được trả khi người được bảo hiểm tử vong trong thời
hạn bảo hiểm và đơn bảo hiểm có hiệu lực khi người bảo hiểm tử vong.
Đặc điểm
+ Thời hạn bảo hiểm xác định.

+ Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời.
+ Mức phí bảo hiểm thấp vì không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được
bảo hiểm.
+ Bảo hiểm tử kỳ chỉ cung cấp sự bảo vệ.
Mục đích
+ Đảm bảo các chi phí mai táng chôn cất
+ Bảo trợ cho gia đình và người thân trong một thời gian ngắn.
+ Thanh toán các khoản nợ nần về những khoản vay hoặc thế chấp của người
được bảo hiểm.
Bảo hiểm tử kỳ còn được đa dạng hóa thành các loại hình sau:
- Bảo hiểm tử kỳ cố định: có mức phí bảo hiểm và STBH cố định, không thay
đổi trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng.
- Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục: cho phép chủ hợp đồng chuyển đổi sang loại
hình bảo hiểm khác mà không phải cung cấp bằng chứng về việc có thể bảo hiểm.
- Bảo hiểm tử kỳ giảm dần: số tiền bảo hiểm được điều chỉnh giảm theo thời
hạn bảo hiểm.
- Bảo hiểm tử kỳ tăng dần: số tiền bảo hiểm được điều chỉnh tăng theo thời hạn
bảo hiểm.
- Bảo hiểm thu nhập hộ gia đình: chi trả thu nhập hàng tháng cho người sống
phụ thuộc nếu người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn bảo hiểm.
- Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện: việc thanh toán trợ cấp chỉ được thực hiện khi
người được bảo hiểm bị chết đồng thời người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được
chỉ định trong hợp đồng phải còn sống.
b. Bảo hiểm nhân thọ trọn đời (bảo hiểm trường sinh)
Bảo hiểm trọn đời cung cấp sự bảo vệ trọn đời cho người được bảo hiểm hoặc
sống đến 99 tuổi.
Các sản phẩm bảo hiểm trọn đời cung cấp sự bảo vệ đến khi người được bảo
hiểm tử vong và có yếu tố tiết kiệm đi kèm.
Đặc điểm
+ Số tiền bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết.

+ Thời hạn bảo hiểm không xác định.
+ Phí bảo hiểm có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và không thay đổi trong
suốt quá trình bảo hiểm.
6
+ Phí bảo hiểm cao hơn so với phí bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, vì rủi ro
chết chắc chắn xảy ra nên số tiền bảo hiểm chắc chắn phải chi trả.
+ Bảo hiểm nhân thọ trọn đời là loại hình bảo hiểm dài hạn, phí đóng định kỳ
và không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm.
+ Các sản phẩm bảo hiểm trọn đời cung cấp sự bảo vệ đến khi người được bảo
hiểm tử vong và có yếu tố tiết kiệm đi kèm
Mục đích
+ Đảm bảo các chi phí mai táng chôn cất.
+ Bảo đảm thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình.
+ Giữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau.
Các loại hợp đồng của bảo hiểm nhân thọ trọn đời:
+ Bảo hiểm nhân thọ trọn đời phi lợi nhuận: mức phí và số tiền bảo hiểm cố
định suốt cuộc đời. Vì vậy, khi thanh toán số tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng
không có khoản lợi nhuận được chia.
+ Bảo hiểm nhân thọ trọn đời có tham gia chia lợi nhuận: giống với Bảo hiểm
nhân thọ trọn đời phi lợi nhuận nhưng khi thanh toán số tiền bảo hiểm cho người
thụ hưởng quyền lợi, họ được chia một phần lợi nhuận như đã thỏa thuận trong hợp
đồng.
+ Bảo hiểm nhân thọ trọn đời đóng phí liên tục: yêu cầu người bảo hiểm phải
đóng phí liên tục cho tới khi chết.
+ Bảo hiểm nhân thọ trọn đời phí đóng một lần: người bảo hiểm chỉ đóng phí
một lần khi ký kết hợp đồng, còn người bảo hiểm phải đảm bảo chi trả bất cứ lúc
nào khi cái chết của người được bảo hiểm xuất hiện.
+ Bảo hiểm nhân thọ trọn đời quy định số lần đóng phí bảo hiểm: không đòi hỏi
người được bảo hiểm phải đóng phí liên tục hay 1 lần mà quy định rõ số năm đóng
phí bảo hiểm. Phù hợp với những người sau khi nghỉ hưu, thu nhập thấp…

1.4.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống còn (bảo hiểm sinh kỳ)
Người bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn trong một khoảng
thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm
Đặc điểm:
+ Trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định hoặc cho
đến khi chết.
+ Phí bảo hiểm đóng 1 lần.
+ Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian không xác định.
Mục đích:
+ Đảm bảo thu nhập cố định sau khi về hưu hay tuổi cao sức yếu.
+ Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi tuổi già.
+ Bảo trợ mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời.
7
Loại hình bảo hiểm này rất phù hợp với những người khi về hưu hoặc những
người không được hưởng tiền trợ cấp hưu trí từ bảo hiểm xã hội đến độ tuổi tương
ứng với tuổi về hưu đăng ký tham gia, để được hưởng những khoản trợ cấp định kỳ
hàng tháng.
1.4.3. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp
Bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống.
Yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen nhau.
Đặc điểm
+ Số tiền bảo hiểm được trả khi hết hạn hợp đồng hoặc người được bảo hiểm bị
tử vong trong thời hạn bảo hiểm, tùy thuộc sự kiện nào đến trước.
+ Thời hạn bảo hiểm xác định.
+ Phí bảo hiểm thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo
hiểm.
+ Hợp đồng bảo hiểm có giá trị tiền mặt hoặc giá trị hoàn lại.
+ Hợp đồng bảo hiểm có thể cam kết chia lãi hoặc không chia lãi.
Mục đích:
+ Đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình và người thân.

+ Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ.
+ Dùng làm vật thế chấp vay vốn hoặc khởi nghiệp kinh doanh…
1.4.4. Các sản phẩm bảo hiểm bổ sung
Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân, nhà bảo hiểm còn đưa ra các sản
phẩm bảo hiểm bổ sung sau:
+ Sản phẩm không phải nộp phí ( từ bỏ thu phí )
+ Trợ cấp mất khả năng lao động.
+ Bảo hiểm bệnh tật hiểm nghèo.
+ Lựa chọn bảo hiểm gia tăng.
+ Bảo hiểm thương tật bộ phận.
+ Bảo hiểm chi phí y tế.
Các sản phẩm bảo hiểm khác :
+ Bảo hiểm nhân thọ nhóm.
+ Bảo hiểm sức khỏe nhóm.
+ Bảo hiểm sức khỏe cá nhân.
Phần II. Thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam
2.1. Sự hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam
Bảo hiểm là một nhu cầu tất yếu khách quan của con người và ra đời từ rất lâu
trên thế giới. Tuy nhiên ở Việt Nam, bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói
8
riêng ra đời tương đối muộn. Sự ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm gắn liền
với những sự kiện lịch sử của đất nước.
- Giai đoạn trước năm 1996
Từ năm 1963 Bộ Tài chính đã tiến hành nghiên cứu, xúc tiến thành lập Công
ty bảo hiểm Việt Nam với sự cộng tác của công ty bảo hiểm nhân dân Trung Hoa.
Ngày 17/12/1964 bằng Quyết định số 179/CP của hội đồng Chính phủ, theo đề
nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính, công ty bảo hiểm Việt Nam, tên giao dịch là Bảo
Việt được thành lập và chính thức khai trương hoạt động ngày 15/01/1965 với số
Vốn điều lệ là 10 triệu đồng Việt Nam (tương đương 2 triệu USD vào thời điểm
đó), dưới sự quản lý trực tiếp của Bộ Tài chính.

Ở miền Nam, vào những năm 1970, công ty bảo hiểm nhân thọ Hưng Việt ra
đời. Công ty bảo hiểm này triển khai được một số sản phẩm bảo hiểm như: bảo
hiểm nhân thọ trọn đời, bảo hiểm tử kỳ thời hạn 5 năm, 10 năm, 20 năm. Nhưng
công ty hoạt động chưa được bao lâu, sau khi thống nhất đất nước thì công ty tuyên
bố giải thể .
Năm1976, Bộ trưởng Bộ Kinh tế tài chính Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra quyết định số 21/QĐ-BKT thành lập công ty bảo
hiểm, tái bảo hiểm Việt Nam (viết tắt là BAVINA).
Năm 1977, Bộ trưởng Bộ tài chính ra quyết định số 61/TCQĐ/TCCB về việc
sát nhập BAVINA thành chi nhánh của Bảo Việt tại thành phố Hồ Chí Minh. Như
vậy, kể từ đây, Bảo Việt chính thức có mạng lưới hoạt động tại các tỉnh miền Nam.
Năm 1990, Bộ Tài chính cho phép công ty Bảo Việt triển khai “Bảo hiểm sinh
mạng con người thời hạn 1 năm”. Đây là loại hình bảo hiểm nhân thọ đơn giản
nhất và có nhiều đặc điểm tương đồng với bảo hiểm con người phi nhân thọ.
Ngày 20/3/1996, Bộ Tài Chính đã chính thức quyết định cho phép Bảo Việt
triển khai 2 sản phẩm: Bảo hiểm hỗn hợp nhân thọ và Bảo hiểm an sinh giáo
dục. Tháng 8/1996, Bảo Việt đã bán những sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra
thị trường, đánh dấu sự khởi đầu cho chặng đường phát triển đầy hứa hẹn của bảo
hiểm nhân thọ ở Việt Nam.
- Giai đoạn từ 1996 - đến nay
Bảo hiểm nhân thọ Việt Nam ra đời và phát triển đến nay đã được 10 năm, từ
chỗ chỉ có Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất kinh doanh bảo hiểm nhân
thọ, cho đến nay thị trường bảo hiểm nhân thọ đã phát triển sôi động và hấp dẫn rất
nhiều các công ty bảo hiểm nước ngoài vào đầu tư và kinh doanh.
Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam được mở cửa từ tháng 6/1999, công
ty BHNT nước ngoài đầu tiên gia nhập thị trường là Chinfon-Manulife, liên doanh
giữa Tập đoàn Taiwanese Chinfon và công ty bảo hiểm nhân thọ Canadian
9
Manulife. Sau đó có nhiều công ty bảo hiểm nhân thọ lớn trên thế giới tham gia vào
thị trường. Tính đến hết năm 2014, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam có các

công ty bảo hiểm nhân thọ sau:
Số
thứ
tự
Tên công ty Năm
thành lập
Vốn điều lệ
đã góp (tỷ
đồng)
1 Tổng công ty Bảo Việt Nhân thọ (Bảo Việt
Nhân thọ)
2004 2.000
2 Công ty TNHH bảo hiểm nhân
thọ Prudential Việt Nam (Prudential)
1999 1.136
3 Công ty TNHH Manulife (Việt Nam)
(Manulife)
1999 800
4 Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọAIA (Việt
Nam) (AIA) 2000 1.264
2000 1.264
5 Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọAce (Ace
Life)
2005 911
6 Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ Prévoir
Việt Nam (Prévoir)
2005 800
7 Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ Dai-ichi
Việt Nam (Dai-ichi)
2007 1.141

8 Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ Cathay
Việt Nam (Cathay life)
2007 2.008
9 Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ Great
Eastern Việt Nam (Great Eastern)
2007 1.030
10 Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọHàn Quốc
(Việt Nam) (Hanwha)
2008 1.891
11 Công ty TNHH Bảo hiểm nhân
thọVietcombank - Cardif (VCLI)
2008 600
12 Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ Fubon 2010 800
10
(Việt Nam) (Fubon life)
13 Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọGenerali
(Việt Nam) (Generali)
2011 1.174
14 Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọVietinbank
- Aviva (Vietinbank - Aviva)
2011 800
15 Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ PVI -
Sunlife (PVI Sunlife)
2013 1.100
16 Công ty cổ phần Bảo hiểm nhân thọ Phú Hưng
(Phú Hưng life)
2013 633
17 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ BIDV
Metlife (BIDV Metlife) 2014 1.000
2014 1.000

Đến nay, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam có 17 công ty trong đó, có 4
công ty có vốn nhà nước, 13 công ty có vốn đầu tư nước ngoài.
Sự tham gia của các tổ chức bảo hiểm nước ngoài cũng đã và sẽ nâng cao lòng
tin của các nhà đầu tư quốc tế về khả năng đáp ứng các nhu cầu về bảo hiểm nhân
thọ, giúp các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm hơn về cam kết mở cửa và tin tưởng
vào môi trường đầu tư lành mạnh ở Việt Nam. Ngoài ra, góp phần nâng cao năng
lực của thị trường bảo hiểm, thiết lập thêm một kênh thu hút Vốn trong dân. Có thể
nói thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đang từng bước hội nhập với thị trường
bảo hiểm nhân thọ khu vực và trên thế giới.
2.2 Đặc trưng cơ bản của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam
- Trên thị trường bảo hiểm nhân thọ cung và cầu luôn biến động.
+ Cung trên thị trường bảo hiểm nhân thọ chính là các sản phẩm bảo hiểm do
các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường cung cấp để phục vụ và đáp ứng các
nhu cầu đa dạng của khách hàng bảo hiểm.
+ Cầu của trường bảo hiểm nhân thọ chính là nhu cầu bảo hiểm của dân cư, của
các tổ chức xã hội, của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
+ Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ luôn được cải tiến, hoàn thiện và đổi mới nhằm
đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng của thị trường.
+ Nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì các tổ chức kinh tế - xã hội cũng
phát triển theo, đời sống vật chất, tinh thần của dân cư được cải thiện…do đó nhu
cầu đa dạng về dịch vụ bảo hiểm cũng tăng lên.
11
- Giá cả của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đa dạng và phụ thuộc vào nhiều yếu
tố.
+ Trên thị trường bảo hiểm, giá cả của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ chính là phí
bảo hiểm. Phí bảo hiểm được xác định trên cơ sở số tiền bảo hiểm, số năm của hợp
đồng, tuổi của người tham gia bảo hiểm, lãi suất kỹ thuật mà các doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ dùng để tính phí bảo hiểm.
- Cạnh tranh và liên kết luôn diễn ra trên thị trường bảo hiểm nói chung và thị
trường bảo hiểm nhân thọ nói riêng.

+ Trên thị trường bảo hiểm sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm để
tranh giành khách hàng, thu lợi nhuận cũng diễn ra liên tục, gay go và quyết liệt,
bởi vì sản phẩm bảo hiểm là không có bảo hộ bản quyền và dễ bắt chước.
+ Trên thị trường bảo hiểm, cùng với sự cạnh tranh là sự liên kết giữa các
doanh nghiệp bảo hiểm. Cạnh tranh càng mạnh thì liên kết càng phát triển. Liên kết
thường diễn ra giữa các doanh nghiệp bảo hiểm lớn, giữa các doanh nghiệp nhỏ với
các doanh nghiệp lớn. Liên kết là xu hướng tất yếu của hội nhập và toàn cầu hoá.
- Thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ luôn thay đổi.
+ Thị phần bảo hiểm nhân thọ là tỷ lệ phần trăm của mỗi doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ chiếm lĩnh trên thị trường.
+ Trên thị trường bảo hiểm nhân thọ, thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm
luôn thay đổi do số lượng các doanh nghiệp tham gia vào thị trường bảo hiểm thay
đổi, do chiến lược kinh doanh thay đổi, như: chiến lược marketing, chiến lược sản
phẩm, chiến lược giá cả để giữ vững thị phần và giành giật thị phần của các doanh
nghiệp khác hoặc mở rộng thị phần bằng việc tung ra thị trường những sản phẩm
mới.
* Ngoài những đặc trưng chung giống các thị trường khác đã đề cập trên đây,
thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam còn có những đặc trưng riêng như sau:
- Thị trường bảo hiểm nhân thọ chịu sự tác động trực tiếp của những điều kiện
kinh tế - xã hội, trình độ dân trí và mức sống của các tầng lớp dân cư.
+ Ở những nước có nền kinh tế phát triển, nhu cầu bảo hiểm nói chung và bảo
hiểm nhân thọ nói riêng thường rất cao. Trái lại, ở các nước kém phát triển nhu cầu
bảo hiểm nhân thọ ở những nước này rất thấp và thị trường bảo hiểm nhân thọ
không phát triển.
- Thị trường bảo hiểm nhân thọ có dung lượng khách hàng rất lớn.
+ Khách hàng của thị trường bảo hiểm nhân thọ phải kể đến đó là: người được
bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm
con người tuỳ theo nhu cầu và khả năng tài chính, một người có thể tham gia nhiều
loại sản phẩm bảo hiểm nhân thọ khác nhau, thậm chí một loại sản phẩm họ có thể
12

ký kết nhiều hợp đồng ở nhiều công ty bảo hiểm nhân thọ cùng một lúc và như vậy
dung lượng khách hàng của thị trường bảo hiểm nhân thọ là rất lớn.
- Thị trường bảo hiểm nhân thọ là thị trường dịch vụ tài chính.
+ Thị trường bảo hiểm nhân thọ là thị trường dịch vụ tài chính, nên thị trường
bảo hiểm nhân thọ còn chịu sự kiểm tra và giám sát rất chặt chẽ của Nhà nước. Nhà
nước không những quyết định sản phẩm bảo hiểm nhân thọ được phép kinh doanh
trên thị trường, mà còn kiểm tra, giám sát rất chặt chẽ việc trích lập dự phòng phí
bảo hiểm nhân thọ, quản lý số hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo
hiểm.
- Thị trường bảo hiểm nhân thọ việt nam là kênh huy động vốn, đầu tư sinh lời.
Bên cạnh những sản phẩm bảo hiểm truyền thống, bảo hiểm nhân thọ còn có loại
hình bảo hiểm liên kết đầu tư. Loại hình bảo hiểm này cho phép người tham gia bảo
hiểm : đáp ứng nhu cầu đầu tư, tiếp cận với các danh mục đầu tư đa dạng hóa, tiếp
cận với các dịch vụ quản lý đầu tư chuyên nghiệp. Cho đến nay thị trường bảo hiểm
nhân thọ đã phát triển sôi động và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát
triển rất mạnh mẽ, số công ty có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 75% thị phần cả
nước.

2.3. Thực trạng thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay
2.3.1 Quy mô và tốc độ phát triển
Trong những năm qua, thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm
nhân thọ nói riêng có sự gia tăng mạnh mẽ về quy mô: tăng số lượng các doanh
nghiệp bảo hiểm, doanh thu phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và số lượng hợp đồng
bảo hiểm.
Nếu như trước năm 1993, ở nước ta chỉ có Bảo Việt độc quyền kinh doanh,
hoạt động dưới hình thức bao cấp thì tính đến năm 2014 có 61 doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong đó có 17
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Bảng 1: Số lượng các công ty bảo hiểm theo loại hình doanh nghiệp năm 2014
Loại hình doanh

nghiệp/hình thức
pháp lý
TNHH
1
thành
viên
TNHH 2
thành
viên trở
lên
Cổ phần Chi
nhánh
doanh
nghiệp
bảo hiểm
phi nhân
thọ nước
Tổng
cộng
13
ngoài tại
Việt Nam
Phi nhân thọ 9 4 16 1 30
Nhân thọ 11 5 1 0 17
Tái bảo hiểm 0 0 2 0 2
Môi giới bảo hiểm 3 2 7 0 12
Tổng cộng 23 11 26 1 61
Trong những năm qua doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ luôn đạt được tốc độ tăng
trưởng cao.
Bảng 2: Doanh thu phí bảo hiểm của thị trường BHNT giai đoạn 2005-2014

Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
2014
(ước)
Doanh thu
phí (tỷ
đồng)
8.130 8.495 9.437
10.30
7
11.83
9
13.77
2
15.998
18.39
7
23.3
30
27.3
28
Tốc độ
tăng trưởng
(%)
5,43 4,49 11,09 9,18 15,01 16,33 16,16 15
26,8
1
17,1
3
Tỷ trọng
trên toàn

thị trường
59,71 57,02 51,52 48,49 46,45 44,65 43,77 44,6
48,7
5
50,0
2
Đóng góp
vào GDP
(%)
0,97 0,81 0,82 0,7 0,72 0,7 0,63 0,69
0,92 1,01
Nhìn vào bảng trên ta thấy doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ tăng dần qua các
năm. Hiện nay, Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường bảo hiểm
nhân thọ giàu tiềm năng và có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, ổn định nhất trong
khu vực. Doanh thu phí bảo hiểm năm 2014 ước đạt 27.328 tỷ đồng, gấp 3,36 lần
so với năm 2005. Tuy nhiên, đến năm 2014, tỷ lệ tổng doanh thu phí bảo hiểm
trên GDP mới chỉ đạt 2,03%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ trung bình cuả thế giới
(8%). Tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ đóng góp vào GDP mới chỉ đạt
1,01%, và mới chỉ có 8% dân số Việt Nam mua bảo hiểm nhân thọ.
Ngoài ra năng lực tài chính của các doang nghiệp bảo hiểm cũng góp phần vào
sự phát triển tăng trưởng của thị trường bảo hiểm. Năm 2013 ước đạt 132.217 tỷ
14
đồng , tăng 15,3% so với năm 2012; trong đó, các DN bảo hiểm nhân thọ ước đạt
94.980 tỷ đồng, tăng 20,6%. Tổng dự phòng nghiệp vụ của các DN bảo hiểm năm
2013 ước đạt 79.964 tỷ đồng, tăng gần 12,03% so với năm 2012, trong đó các DN
bảo hiểm nhân thọ ước đạt 64.314 tỷ đồng, tăng 12,06%. 44/45 DN bảo hiểm đảm
bảo biên khả năng thanh toán và quy mô vốn chủ sở hữu; 8/11 DN môi giới bảo
hiểm đang hoạt động đáp ứng quy mô vốn chủ sở hữu theo quy định của pháp
luật. Trong lĩnh vực nhân thọ, 10/16 DN có lãi, 6/16 DN lỗ. Trong lĩnh vực môi
giới bảo hiểm, có 9/11 DN có lãi (năm 2012 có 6/11 DN), 2/11 DN lỗ.

2.3.2.Thị phần các công ty bảo hiểm nhân thọ
Năm 2014, vị thế của các công ty bảo hiểm nhân thọ hàng đầu không có sự thay
đổi. Về thị phần doanh thu phí bảo hiểm khai thác mới (bao gồm cả bảo hiểm bổ
trợ), Prudential chiếm tỷ trọng 24,7%; Bảo Việt Nhân thọ chiếm 23,71%; Manulife
chiếm 11,17%; Dai-ichi chiếm 11,37%; AIA chiếm 10,39%; ACE Life chiếm
5,78%; 11 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ còn lại chiếm thị phần không đáng kể
12,88%.
Bảng 3: Thị phần doanh thu phí bảo hiểm khai thác mới của các
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ năm 2014
Các
doanh
nghiệp
bảo
hiểm
Prudential Bảo Việt Manulife AIA Dai-
ichi
ACE
life
Khác
Thị
phần
doang
thu phí
BH (%)
24,70 23,71 11,17 10,39 11,37 5,78 12,88
2.3.3 . Kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm nhân thọ - đại lý bảo hiểm
Đại lý cá
nhân
Đại lý tổ chức
Tổng đại

lý cá
Tỷ lệ Tăng
trưởng so
15
Số lượng Cá nhân
trực
thuộc
Nhân thọ
108.143 514 204.041 312.184 81,77% 29,34%
Phi nhân
thọ
36.262 1.181 33.355 69.617 18,23% 0,84%
Tổng
144.405 1.695 237.396 381.801 100% 23,00%
Tổng đại lý bảo hiểm năm 2014 đạt khoảng 381.801 đại lý, tăng 23% so với
năm 2013. Trong đó, đại lý bảo hiểm nhân thọ là 312.184 người, tăng 29,34% so
với năm 2013.
Kênh phân phối qua đại lý đến nay đây vẫn là kênh phân phối chính, đóng góp
chủ yếu vào doanh thu khai thác mới. Mặc dù vậy, số lượng đại lý bỏ việc vẫn
nhiều, khoảng 80% đại lý bỏ việc sau một năm làm việc. Ở những nước phát triển,
đại lý bảo hiểm thường phải làm việc toàn thời gian chứ không như ở Việt Nam,
nhân viên tư vấn bảo hiểm là người tạo ra doanh thu chính cho các đại lý nhưng
không có lương cố định, không được hưởng các chế độ phúc lợi xã hội từ công ty ,
ngoài tiền hoa hồng khi bán được bảo hiểm. Nguyên nhân một phần do doanh
nghiệp bảo hiểm chỉ biết tuyển dụng mà không lựa chọn một cách cẩn thận nên tỷ
lệ doanh thu, lợi nhuận mà họ thu về trên số lượng đại lý là rất thấp, việc đào tạo
đại lý bảo hiểm vẫn còn tình trạng mang tính hình thức, đối phó.
2.3.4. Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam
Năm 2014, tổng số hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực của các sản phẩm bảo hiểm
chính tăng 10,08% so với năm 2013, đạt 5.651.031 hợp đồng.

Xét về quy mô tổng doanh thu phí bảo hiểm, các sản phẩm bảo hiểm hỗn hợp
vẫn chiếm tỷ trọng phí bảo hiểm cao nhất, đạt 59,43%; tiếp theo là các sản phẩm
bảo hiểm liên kết đầu tư chiếm 30,16%; đứng thứ ba là nghiệp vụ bảo hiểm tử kỳ
chiếm 1,96%; doanh thu phí bảo hiểm bổ trợ chiếm 6,86% và doanh thu phí bảo
hiểm của những nghiệp vụ bảo hiểm còn lại chỉ chiếm 1,59%.
Xét về số tiền bảo hiểm thì sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư chiếm tỉ trọng
cao nhất, đạt 60,21%; sau đó đến sản phẩm bảo hiểm hỗn hợp chiếm 28,54%; đứng
thứ ba là nghiệp vụ bảo hiểm tử kỳ chiếm 10,19%, số tiền bảo hiểm của các nghiệp
vụ còn lại chỉ chiếm 1,06% số tiền bảo hiểm toàn thị trường.
Bảng 4: Tình hình các hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực giai đoạn 2013 - 2014
Đơn vị: Triệu đồng
16
Nghiệp
vụ
Hợp đồng bảo hiểm Số tiền bảo hiểm Phí bảo hiểm
2013 2014 (số
ước)
2013 2014
(số ước)
2013 2014
(số ước)
Bảo
hiểm
trọn
đời
58.580 57.422 5.078.974 5.008.7
11
151.303 147.424
Bảo
hiểm

sinh kỳ
1.605 1.380 70.516 473.962 8.502 8.193
Bảo
hiểm tử
kỳ
960.659 1.129.793 61.823.397 65.436.
886
623.248 534.549
Bảo
hiểm
hỗn
hợp
3.091.5
08
3.189.513 148.601.47
6
183.259
.376
13.667.81
5
16.241.54
0
Bảo
hiểm
trả tiền
định kỳ
10.038 10.799 99.350 114.022 214.061 89.875
Bảo
hiểm
liên kết

đầu
tư(*)
1.010.9
13
1.250.017 237.301.91
3
386.683
.250
7.227.563 8.243.219
Bảo
hiểm
hưu trí
74 12.107 7.050 1.223.6
48
334 188.675
Bảo
hiểm
bổ trợ
5.985.3
58
6.577.681 200.117.49
3
229.924
.426
1.436.891 1.874.245
Tổng
cộng
(**)
5.133.3
77

5.651.031 452.982.67
6
642.199
.855
23.329.71
6
27.327.72
0
17
(*) Nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư bao gồm bảo hiểm liên kết đơn vị và bảo
hiểm liên kết chung .
(**) Số lượng hợp đồng bảo hiểm, số tiền bảo hiểm không bao gồm bảo hiểm bổ
trợ.
Trong năm 2014, số lượng hợp đồng khai thác mới của các sản phẩm bảo
hiểm chính đạt 1.252.408 hợp đồng, tăng 6,28% so với năm 2013. Tổng doanh thu
phí bảo hiểm của các hợp đồng khai thác mới của các sản phẩm bảo hiểm chính đạt
7.954 tỷ đồng, tăng 10,33% so với năm 2013. Tổng số tiền bảo hiểm tương ứng đạt
214.125 tỷ đồng, tăng 40,77% so với năm 2013. Bình quân số tiền bảo hiểm của
hợp đồng chính khai thác mới trong năm 2014 đạt 171 triệu đồng, tăng 32,56% so
với năm 2013.
Nhận xét : Dựa vào bảng trên, ta thấy sản phẩm chủ đạo ở Việt Nam chủ yếu
yếu là sản phẩm bảo hiểm tiết kiệm.
2.3.5. Hoạt động đầu tư
Trong năm 2014, thị trường bảo hiểm nhân thọ tiếp tục đóng góp tích cực
trong sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam. Tổng số tiền đầu tư của bảo
hiểm nhân thọ là 103.260 tỉ đồng, tăng 18,5% so với 2013, trong đó đáng kể nhất là
Prudential với 38.734 tỷ đồng.
Với sự phát triển nhanh trong thời gian qua, ngành bảo hiểm đang dần chứng
tỏ được vai trò của mình như một kênh huy động vốn đầu tư, một trung gian tài
chính có hiệu quả. Hoạt động đầu tư của các công ty đều được thực hiện theo

nguyên tắc an toàn, hiệu quả, đáp ứng kịp thời các yêu cầu chi trả tiền bồi thường
cho người tham gia bảo hiểm, đồng thời đem lại lợi nhuận hợp lý để trang trải cho
các chi phí hoạt động và mở rộng phạm vi kinh doanh. Nhiều dự án có giá trị kinh
tế - xã hội cao cũng có sự tham gia góp vốn của các công ty bảo hiểm nhân thọ.
Tuy nhiên, kết quả hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm vẫn chưa thực
sự xứng đáng với tiềm năng của mình.
Bảng 5: Cơ cấu đầu tư của các BNBH NT 2014
Đơn vị: tỷ đồng
Danh mục đầu tư Số tiền đầu tư Tỷ trọng
+ Gửi tiền tại Các tổ chức tín dụng 26.562 25,72%
+ Trái phiếu Chính phủ 50.439 48,85%
+Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh 14.483 14,03%
+ Trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh 823 0,8%
+ Cổ phiếu, Trái phiếu doanh nghiệp không 4.402 4,26%
18
có bảo lãnh
+ Góp vốn vào các doanh nghiệp khác 392 0,38%
+ Kinh doanh bất động sản 43 0,04%
+ Cho vay 5.813 5,63%
+ Uỷ thác đầu tư 70 0,07%
+ Khác 228 0,22%
Tổng số tiền đầu tư 103.260 100%
Cơ cấu đầu tư của các công ty bảo hiểm vẫn còn khá đơn điệu, chủ yếu tập
trung vào những công cụ đầu tư có tính thanh khoản cao nhưng hiệu quả không
cao. Hình thức đầu tư phổ biến nhất hiện nay (chiếm tới gần 50%) vẫn là mua trái
phiếu chính phủ. Ngoài các lý do khách quan như hạn chế của pháp luật về mức
vốn đầu tư, tỷ lệ lập quỹ dự phòng theo pháp luật, môi trường đầu tư chưa thông
thoáng, ổn định, thiếu các dự án khả thi, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa
phát triển các công ty bảo hiểm cũng chưa có sự quan tâm thích đáng đến việc
đẩy mạnh hoạt động đầu tư theo các kênh có lợi nhuận cao.

2.3.6. Hoạt động cạnh tranh
Sự xuất hiện của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra một môi
trường cạnh tranh đầy tính tích cực. Sự cạnh tranh quyết liệt đã khiến các công ty
phải giảm phí, mở rộng điều kiện, điều khoản bảo hiểm. Các công ty đều phải có
chiến lược cụ thể và lâu dài vì giờ đây, khách hàng đã có nhiều lựa chọn. Và như
vậy, chính khách hàng đang được hưởng lợi nhiều nhất từ những hoạt động nhằm
nâng cao tính cạnh tranh của các công ty. Nhận thức của các cá nhân, tập thể về vai
trò của bảo hiểm cũng được nâng cao thông qua các chương trình quảng cáo.
Tuy nhiên, do thị trường bảo hiểm nhân thọ vẫn còn khá non trẻ, lại phải chịu
nhiều sức ép mới, ngành bảo hiểm nước ta đã xuất hiện một số tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh, gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh cũng như
đến hình ảnh của toàn ngành. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài hiện tỏ ra vượt
trội về nhiều mặt, đặc biệt là có ưu thế về kinh nghiệm, uy tín, công nghệ kỹ thuật,
khả năng phát triển hệ thống đại lý, mở rộng thị trường Các doanh nghiệp bảo
hiểm trong nước vốn chưa quen với việc môi trường cạnh tranh khốc liệt của cơ
chế thị trường đã sử dụng nhiều biện pháp không lành mạnh như dùng mệnh lệnh
hành chính để tác động đến thị trường, gây bất bình đẳng trong cạnh tranh và đi
ngược lại những nguyên tắc của nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, tình trạng đưa
thông tin sai lệch gây tổn hại đến hình ảnh của đối thủ cạnh tranh nhằm lôi kéo
khách hàng cũng thường xuyên xảy ra.
19
Trong quá trình này, buộc các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, đặc biệt là các
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong nước phải cơ cấu lại bộ máy hoạt động, tìm
ra các giải pháp thích hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình.
Một số giải pháp mà các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ thường áp dụng như:
nâng cao năng lực tài chính, đa dạng hoá sản phẩm, đưa ra những sản phẩm mới
phù hợp để ngày càng đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng, cải tiến công
nghệ quản lý, ứng dụng thương mại điện tử trong giao dịch với khách hàng, chú
trọng phát triển thương hiệu, chú trọng phát triển nguồn nhân lực, các chuyên gia
và đa dạng hoá kênh phân phối, trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ.

2.3.7. Những mặt còn tồn tại của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam
Những biến động khó lường của nền kinh tế (như mặt bằng lãi suất dài hạn
thấp, thị trường vốn đầy biến động…) khiến việc hoạch định và triển khai các chiến
lược dài hạn của doanh nghiệp bảo hiểm trở nên khó khăn. Đây được coi là thách
thức lớn nhất của các doanh nghiệp bảo hiểm trong việc tạo ra lợi nhuận trong
mảng đầu tư. Kinh tế vĩ mô nếu còn biến động cũng sẽ khiến không ít khách hàng
cân nhắc việc mua bảo hiểm.
Bên cạnh đó, sự phụ thuộc quá nhiều vào lực lượng đại lý bảo hiểm (hơn 90%
doanh thu khai thác hợp đồng của tất cả các công ty bảo hiểm nhân thọ trên thị
trường Việt Nam đều do lực lượng đại lý mang lại) đặt ra nhiều vấn đề cho các
công ty bảo hiểm.
Hiện tượng chiếm dụng đại lý của doanh nghiệp khác đã từng là vấn đề rất
căng thẳng và vẫn có thể xảy ra trên thị trường. Một số công ty bảo hiểm cũng đã
lên kế hoạch chuyển hướng mở rộng các kênh khai thác khác. Tuy nhiên, với thị
trường bảo hiểm Việt Nam cũng sẽ phải mất một thời gian khá lâu để các kênh
phân phối bảo hiểm khác thực sự hòa nhập với thị trường và khách hàng.
Ngoài ra, sự biến động về nhân sự cấp cao cũng sẽ khiến một vài doanh
nghiệp bảo hiểm gặp khó khăn khi kế hoạch phát triển bị gián đoạn và những biến
đổi về nhân sự cũng có thể dẫn đến những thay đổi không nhỏ về thị phần doanh
thu phí bảo hiểm của các công ty ngay trong năm 2014 này.
Theo ông Stephen Clark - Tổng giám đốc AIA Việt Nam nhận xét: “ Một
thách thức đã và đang tồn tại trong những năm qua là hiện vẫn chỉ có một tỷ lệ rất ít
người dân Việt Nam tham gia bảo hiểm nhân thọ. Ngoài thực tế về khả năng chi trả
thì tôi nghĩ lý do chính của vấn đề là người dân chưa ý thức được tầm quan trọng
và sự cần thiết của việc sở hữu một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Càng sớm tiếp
cận và tìm hiểu kiến thức về cách lập kế hoạch tài chính phù hợp, những người trẻ
sẽ có thêm nhiều cơ hội thực hiện các kế hoạch hoàn hảo hơn cho tương lai “.
20
KẾT LUẬN
Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đang từng bước hội nhập với thị

trường bảo hiểm nhân thọ khu vực và thế giới. Sự hình thành và phát triển của bảo
hiểm nhân thọ cũng đánh dấu những bước phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt
Nam, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng đất nước, cải thiện đời sống nhân
dân, có vai trò to lớn đối với kinh tế, xã hội và con người; và với dân số trên 90
triệu người, văn hóa tiết kiệm và hướng tới gia đình của người dân, tiềm năng của
thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam vẫn còn rộng lớn. Tuy nhiên, bên cạnh
những thuận lợi đó, Việt Nam còn gặp không ít khó khăn buộc các doanh nghiệp và
chính phủ nhà nước cùng chung tay giải quyết. Để đảm bảo phát triển thị trường
bảo hiểm nhân thọ Việt Nam ổn định, bền vững và theo đúng định hướng mà Chính
phủ đã đề ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải thực hiện nhiều
giải pháp đồng bộ. Bên cạnh nỗ lực của chính các công ty bảo hiểm, Chính phủ cần
tạo điều kiện thuận lợi để các công ty bảo hiểm nhân thọ phát huy được những lợi
thế của mình bằng các giải pháp như hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các công ty,
sắp xếp củng cố lại các công ty hiện có, thành lập thêm một số công ty bảo hiểm
nhân thọ khác để hình thành các tập đoàn tài chính bảo hiểm hùng mạnh…
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- PGS.TS.Nguyễn Văn Định, 2014, Giáo trình bảo hiểm, nhà xuất bản đại học
kinh tế quốc dân, Hà Nội.
- Bộ Tài Chính, 2015, thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2014, nhà xuất bản tài
chính, Hà Nội.
- Minh Trí, 2015, Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt còn nhiều tiềm năng,
kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep, Hà Nội.
- Thu Mai, 2014, bảo hiểm nhân thọ trước áp lực duy trì tốc độ phát triển 2014,
tinnhanhchungkhoan.vn/bao-hiem, Hà Nội.
- trường Việt Nam bảo hiểm nhân thọ việt nam
có những đặc trưng cơ bản gì?
- năm tái cấu trúc ngành bảo hiểm lo ngại
vẫn còn nhiều. Nguồn: Đầu tư chứng khoán.

×