Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

chức năng giám sát được xác định là chức năng không thể thiếu của quốc hội nhằm đảm bảo cho quốc hội hoạt động có hiệu lực và hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.56 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người từ trước đến nay, chúng ta thấy
rằng mâu thuẫn giữa quyền lợi giai cấp thống trị và giai cấp bị trị luôn luôn gay gắt.
Mâu thuẫn đó không thể tự điều hòa được mà phải được giải quyết bằng các cuộc đấu
tranh giai cấp đẫm máu. Dưới chế độ phong kiến, mâu thuẫn giai cấp được thể hiện môt
cách rõ nét. Giai cấp thống trị thời kì này đã thiết lập một chế độ quân chủ chuyên chế
dộc tài, tất cả quyền lực nhà nước đều tập trung vào tay nhà vua, nhằm phục vụ cho giai
cấp mình, bóp nghẹt những mầm mống dân chủ náy sinh trong xã hội, cướp đi những
quyền cơ bản của công dân. Cùng với sự phát triển của kinh tế và những bước tiến vượt
bậc về khoa học kĩ thuật đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, kéo theo đó
là trình độ nhận thức của người dân được nâng cao và nhu cầu tự giải phóng mình ngày
càng lớn, vấn đề dân chủ được đặt ra. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền trở thành
một đòi hỏi cấp thiết. Nhiều cuộc cách mạng tư sản đã nổ ra và giành được thắng lợi,
giai cấp phong kiến bị lật dổ. Nhằm đáp ứng với xu thế của thời đại và hạn chế sự độc
tài nên sau khi nhà nước tư bản chủ nghĩa được thiết lập trên thế giới_cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất đã ra đời. Đó chính là quốc hội
Quốc hội ra đời nhằm khẳng định chủ quyền của nhân dân và cơ sở hợp pháp
của chính quyền, đồng thời đảm bảo cho chính quyền được đảm bảo bằng pháp luật và
bảo đảm sự có mặt của luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của công dân và quyền con
người. Quốc hội ra đời đã hạn chế được sự lộng quyền của người đứng đầu và trong
quá trình hoạt động của mình đã tiến hành giám sát hoạt động của các cơ quan nhà
nước khác nhằm đảm bảo cho xã hội dân chủ hơn. Như vậy, chức năng giám sát
được xác định là chức năng không thể thiếu của quốc hội nhằm đảm bảo cho
quốc hội hoạt động có hiệu lực và hiệu quả
1
I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM
Trong bộ máy nhà nước việt nam, quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Vị
trí đó được xác định trên cơ sở quy định của hiến pháp. Ở nước CHXHCNVN tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình bằng hai hình thức
cơ bản: hình thức gián tiếp và trực tiếp . Hình thức trực tiếp tạo nên nền dân chủ trực
tiếp. Hình thức gián tiếp tạo nên nền dân chủ đại diện. Trong điều kiện hiện nay, dân


chủ đại diện đóng vai trò quan trọng. Nội dung thực hiện nền dân chủ gián tiếp bằng
cách thong qua quốc họi và hội đông nhân dân các cấp.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân , cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định nhưng x vấn đề trọng đại của đất nước,
giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của nhà nước. Quốc hội, vì vậy thể hiện tính đại
diện nhân dân và tính quyền lực cao nhất trong tổ chức và hoạt động của toàn bộ máy
nhà nước.
Về cách thức thành lập, quốc hội là cơ quan nhà nước duy nhất do cử tri cả nước
bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng , trực tiếp và bỏ phiếu kín. Bầu cử đại biểu
quốc hội là kết quả lựa chọn thống nhất của nhân dân cả nước
Về cơ cấu thành phần đại biểu, quốc hội bao gồm các đại biểu đại diẹn cho các
tầng lớp nhân dân, cho các vùng lãnh thổ.Quốc hội là sự thể hiện rõ nhất khối đại đoàn
kết dân tộc ở nước ta, đại diện cho trí tuệ của đất nước.
Về chức năng, nhiệm vụ, quốc hội có chức năng và nhiệm vụ phục vụ cho lợi
ích chung của nhân dân và dân tộc, nói lên tiếng nói của nhân dân, thể hiện ý chí,
nguyện vọng của nhân dân cả nước.
Ở Việt Nam, chỉ có quốc hội mới có đủ thẩm quyền quyết định những vấn đề
thuộc chủ quyền quốc gia, các vấn đề trọng đại của đất nước. Sở dĩ như vậy vì nhà
nước ta là một nhà nước dân chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Điều
đó có nghĩa là người chủ của quyền lực nhà nước là nhân dân. Muốn sử dụng quyền lực
của mình, nhân dân phải được tổ chức lại thanh nhà nước, quốc hội là cơ quan nhà
nước cao nhất thực hiện quyền lực của nhân dân. Chỉ có quốc hội mới có quyền biến ý
chí của nhân dân thành ý chí của nhà nước, thành luật, thành các quy định chung mang
thính bắt buộc, tính cưỡng chế nhà nước đối với mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
2
Với tính chất là cơ quan quyền lực cao nhất trong hệ thống các cơ quan nhà
nước của nhà nước ta, quốc hội là cơ quan được hiến pháp giành cho vị trí trang trọng
nhất, cơ quan đầu tiên trong toàn bộ hệ thống các cơ quan nhà nước được hiến pháp
quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan

quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCNVN” (điều 83_ hp 1992). Quốc
hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và của nhân dân
như thong qua hiến pháp, các đạo luật, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội
và đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh tế,văn hóa xã hội, tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước; bầu miễn nhiệm, bãi nhiệm những viên chức cao cấp nhất của bộ máy
nhà nước, giám sát tối cao hoạt động của các cơ quan nhà nước; quốc hội biểu hiện tập
trung ý chí và quyền lực của nhân dân trong phạm vi toàn quốc.
Như vậy quốc hội chiếm vị trí cao nhất trong toàn bộ bộ máy nhà nước
CHXHCNVN. Không một cơ quan nhà nước nào trong bộ máy các cơ quan nhà nước
của ta có được một vị trí như vậy. Sở dĩ quốc hội có một địa vị như vậy vì quốc hội là
cơ quan duy nhất do nhân dân toàn quốc bầu ra một cách trực tiếp . Với tư cách thành
lập này cộng với quan điểm” tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, nhân
dân thực hiện quyền lực của mình bằng cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra” , là cơ sở
cho quốc hội có quyền lực nhà nước cao nhất ở nước CHXHCNVN.
Việc hiến pháp quy định như trên cũng là để nhằm mục đích thể hiện rõ bản chất
của nhà nước CHXHCNVN, là nhà nước của nhân dân , do nhân dân và vì nhân dân,
đúng theo quan điểm tư tuơởng của chủ nghĩa Mac_ LêNin về một nhà nước kiểu mới
khác với các nhà nước trước đây và đây cũng là đặc điểm nói lên sự khác nhau giữa mô
hình tổ chức nhà nước ta , nhà nước CHXHCN vói các mô hình tổ chức nhà nước khác
nhau của chế độ tư bản chủ nghĩa.
II. CHỨC NĂNG CỦA QUỐC HỘI VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC
CHỨC NĂNG ĐÓ
Vói vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam, quốc hội nước ta có
nhưng chức năng quan trọng sau đây:
- Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp
3
Quyền lập hiến và lập pháp của quốc hội xuất phát từ vị trí và tính chất của cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất. Chỉ có quốc hội mới có quyền định ra các quy phạm
pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, điều chỉnh các quan hệ xã hội của xã hội ta .

Các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước khác ban hành phải cụ thể hóa hiến
pháp và luật, không được trái với tinh thần và nội dung của hiến pháp và luật. Hiến
pháp và luật là hai loại pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất quy định các hoạt động
quan trọng của xã hội. Chỉ có quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước tối
cao mới có quyền thông qua những loại văn bản này. Ngược lại cũng chính việc quốc
hội, cơ quan duy nhất được quyền thông qua các loại văn bản này mới chứng tỏ là cơ
quan quyền lực nhà nước tối cao.
- Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ
kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt dộng của công dân.
- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tôi cao đối với toàn bộ hoạt động của
nhà nước nhằm đảm bảo cho những quy định của hiến pháp và pháp luật được thi
hành triệt để và thống nhất ,bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ , có hiệu lực và hiệu
quă. Đây là một chức năng quan trọng của quốc hội.Thông qua việc thực hiện chức
năng này cho phép quốc hội thể hiện mình là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Những chức năng quan trọng này của quốc hội có sự thống nhất và có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Thông qua nhiệm vụ lập hiến và lập pháp ( tức là
bằng các đạo luật) quốc hội thực hiện các nhiệm vụ khác của mình . Như quyết định
các chính sách đối nội, đối ngoại, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ,chính sách tiền tệ
và các lĩnh vực tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước khác.Ngược lại thông qua
việc thực hiện chức năng giám sát của mình mà quốc hội kiểm tra lại chất lượng các
đạo luật và các quyết định do mình ban hành để có thể đề xuát sáng kiến sửa đổi, bổ
sung hoàn thiện và nâng cao chất lượng của chúng. Cứ như thế trong mối quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau, hiểu quả và hiệu lực của các hoạt động lập pháp, quyết định các
vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao ngày càng được nâng cao.
III. CHỨC NĂNG GIÁM SÁT
1. Giám sát là gi?
4
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động giám sát nên ngay từ khi quốc

hội thành lập nhà nước ta đã quy định đây là một trong những chức năng khôngt hể
thiếu của quốc hội. Tuy nhiên để đánh giá một cách toàn diện về chức năng này của
quốc hội, chúng ta cần làm rõ về giám sát
Hiện nay cách diễn đạt và biểu hiện ý của từ “giám sát” có khác nhau , nhưng
chúng có những điểm chung nhất là:
_”Giám sát” dùng để chỉ các hoạt động theo dõi , xem xét, kiểm tra và nhận định
về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định
_”Giám sát” luôn luôn gắn liền vơíi một chủ thể nhất định, tức là phải trả lời
được câu hỏi: ai(hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi xem xét, kiểm tra
và đưa ra những nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai
những điều đã quy định.
_“Giám sát”cũng luôn gắn với 1 đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời được câu
hỏi giám sát ai? Giám sát việc gì? Điều này có ý nghĩa quan trọng là ở chỗ nó phân biệt
giữa” giám sát” và “ kiểm tra” .Kiểm tra thì chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sư tác
động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau, đó là việc tự chủ thể kiểm tra của
chủ thể hoạt động . Nói cách khác tự chủ thể hoạt động xem xét kĩ để đánh giá tình
trạng tốt, xấu của công việc đang làm. Nhưng giám sát thì không có tình trạng tự chủ
thể hoạt động theo dõi ,xem xét chính hoạt động của mình.
_”Giám sát” phải thể hiện được quan hệ giữa chủ thể hoạt động giám sát và đối
tượng chịu sự giám sát tức là chủ thể hoạt động có những quyền và nghĩa vụ gì đối với
đối tượng chịu sự giám sát và ngược lại
“Giám sát” phải được tiến hành trên những căn cứ nhất định, đó là những quy
định do chủ thể có quyền thực hiện việc giám sát đặt ra. Nếu như không có những quết
định này thì không có cơ sở để chủ thể có quyền thực hiện việc giám sát, dưa ra những
nhận định về hoạt động ở đối tượng chịu sự giám sát.
_”Giám sát” luôn là hoạt động có tính mục đích . Mục đích của giám sát là luôn
có được những nhận định chính xác của chủ thẻ có quyền giám sát đối với hoạt động
của đối tượng chịu sự giám sát và từ đó có biện pháp xử lí đối với những việc làm trái
quy định của đối tượng chịu sự giám sát. Đảm bảo cho những quy định của chủ thể có
quyền giám sát được thực hiện đúng và đầy đủ.

5
2. Các cơ quan có quyền giám sát
Theo luật hoạt động giám sát của quốc hội năm 2003 thì “ giam sát là việc quốc
hội, uy ban thường vụ quốc hội, hội đồng dân tộc, ủy ban của quốc hôi, đoàn đại biểu
quốc hội và đại biểu quốc hội theo dõi xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan , tổ
chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành hiến pháp , luật , nghị quyết của
quốc hội, pháp lệnh , nghị quyết của ủy ban thường vụ quốc hội” (Điều 2_ luật về hoạt
động giám sát của quốc hội). Như vậy ở đây chúng ta thấy rằng : chủ thể của hoạt động
giám sát là quốc hội, ủy ban thường vụ quốc hội, hội đồng dan tộc, ủy ban của quốc
hội, đoàn đại biểu quốc hội và đại biểu quốc hội. Đối tượng chịu sự giám sát là các cơ
quan, tổ chức , cá nhân trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương và nhân
dân cả nước. Hoạt động giám sát được thực hiện thông qua việc tiến hành theo dõi,
xem xét đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thi hành hiến pháp
,luật ,nghị quyết của quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thương vụ quốc hội
Hiện nay trong tổ chức bộ máy nhà nước của nước ta, không chỉ có những chủ
thể vừa nêu trên mới có chức năng giám sát . Hoạt đọng giám sát cũng là một trong
nhũng chức năng của VKSND,TAND,HDND...Tuy nhiên hoạt đọng giám sát của
những cơ quan này là có sự khác nhau
3. Giám sát của quốc hội
a : Giám sát của quốc hội là giám sát tối cao việc tuân theo hiến pháp và
pháp luật nhưng có đổi mới, đó là việc phân công, phân cấp rành mạch trong tổ
chức nhà nước.Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác_LêNin về nhà nước, muốn quyền
lực thực sự là của nhân dân thì phải tập trung thống nhất quyền lực nhà nước cho cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân là quốc hội, và vì vậy trong nhà nước XHCN quốc
hội là cơ quan đại biểu cao nhất đồng thời cũng là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất. Hiến pháp của các nước XHCN trước đều quy định và thể hiện nguyên tắc thống
nhất, tập trung quyền lực trong tố chức bộ máy nhà nước. Việt Nam cũng vận dụng
quan điểm này và điều đó được thể hiện trong các quy định về vị trí pháp lý của quốc
hội thể hiện qua các bản hiên pháp của quốc hội nước ta. Như vây “ quyền giám sát
việc tuan theo hiến pháp và pháp luật là một biện pháp không thẻ tách rời của quyền lực

nhà nước và quốc hội nước ta là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất .” Do đó quốc
6
hội nắm quyền giám sát tói cao việc tuân theo hiến pháp và pháp luật nhưng có đổi
mới, đó là việc phân công, phân cấp rành mạch trong tổ chức nhà nước.
b : Những căn cứ để quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao.
Để bảo đảm tính khách quan trong hoạt động giám sát, bảo đảm cho quốc hội
thực hiẹn quyền giám sát tối cao theo đúng quy định của hiến pháp và luật khi thực
hiên quyền giám sát của mình, quốc hội phải có những căn cứ nhất định:
_Thứ nhất: Quốc hội phải căn cứ vào những quy định của hiến pháp, luật, nghị
quyết của quốc hội, pháp lệnh của ủy ban thường vụ quốc hội, vì đó la chuẩn mực, là
thước đo, la căn cứ nhận định nội dung của một văn bản nào đó hoặc một việc làm nào
đó của các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát của quốc hội là hợp pháp hay là không
hợp pháp.
_Thư hai: Quốc hội căn cứ vào nội dung văn bản đã ban hành của các cơ quan
nhà nứoc chịu sự giám sát của quốc hội và căn cứ vào báo cáo thực tếhoạt động của
nhưng cơ quan nhà nước đó. Trong trường hợp cần thiết, quốc hội có thể chất vấn hoặc
đi xem xét thực tế xem tình hình co đúng như với các cơ quan nhà nước đã báo cáo
không .
c : Đăc điểm giám sát tối cao của quốc hội ? Sự khác nhau giữa giam sát của
quốc hội và giám sát của các cơ quan nhà nước khác
_Giám sát của quốc hội là giám sát tối cao và nó có một số đăc diêm riêng như sau: .
Quyền giám sát của quốc hội mang tính quyền lực nhà nước cao nhất.
. Hoạt động giám sát của quốc hội mang tính tổng quát nhất, bao trùm nhất,
mang tính định hướng nhất định đối với những vấn đề thuộc tầm vĩ mô, những vấn đề
mà nhân đân cả nước quan tâm.
. Hoạt động giám sát của quốc hội được tiến hành với các điều kiện bảo đảm ở
mức độ tin cậy cao nhất, toàn diện trên các mặt: Báo cáo, cung cấp thông tin, tư liệu,số
liệu và các điều kiện đảm bảo khác.
. Áp dung nhiều biện pháp mang tính quyền lực nhà nước cao nhất để xử lý
những vấn đề nảy sinh trong giám sát và chịu trách nhiệm pháp lý đối với những người

bị giám sát.
7
. Hoạt động giám sát của quốc hội quan hệ trực tiếp và tác động trực tiếp đến
hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhẩt trong hoạt động lập pháp và quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước.
_Từ những phân tích trên chung ta thấy rằng: Sự khác nhau căn bản giữa quyền giám
sat tối cao của quốc hội với quyền giam sát việc tuân theo hiến pháp và luầt của các cơ
quan nhà nước khác như: TAND, VKSND, HDND...là ở đối tượng chịu sự giám sát và
thẩm quyền giải quyết cũng như phương thức hoạt động. Giám sát của quốc hội là giám
sát tối cao vì nó do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thực hiện, nó giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước cao nhất, hiệu lực pháp lý của nó là cao nhất vì các
nghị quyết của quốc hội phải co giá trị pháp lý như là một văn bản buộc các co quan
nhà nước phải thực hiện. Về phương thức, quốc hội là cơ quan dân cử, làm việc theo
chế độ hội nghị và quyết định theo đa số chứ không theo cách làm việc với chế độ thủ
trưởng như các cơ quan nhà nước khác.
IV. HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI
a. Chủ thể giám sát.
Như chúng ta đã biết, chức năng giám sát của quốc hội được cụ thể thành các
nhiệm vụ và quyền hạn. Quyền giám sát của quốc hội là quyền giám sát tối cao
và quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của bộ máy nhà nước.
Giám sát là công việc thường xuyên, liên tục trên nhiều phương diện với nhiều
nội dung khác nhau. Nhưng quốc hội nước ta lại hoạt động theo kì họp và phần
đa các đại biểu quốc hội là đại biểu chuyên trách. Chính vì vậy hoàt động giám
sát của quốc hội không được thường xuyên liên tục, chưa có hiệu lực và hiệu
quả cao, mang nặng tính hình thức.
Khắc phục điều này, luật hoạt động giám sát của quốc hội quy định: “Quốc hội
là chủ thể duy nhất có quyền thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ
hoạt động của nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại
kì họp quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của ủy ban thường vụ quốc hội,

hội đồng dân tộc, ủy ban của quốc hội, đoàn đại biểu quốc hội và đại biểu quốc
hội”.( Điều 1_Luật hoạt động giám sát của quốc hội )
8

×