Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Thực trạng của công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.94 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự có ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng của công tác xét xử. Vì vậy ở nước ta, chuẩn bị xét xử sơ thẩm được quy
định khá sớm trong các văn bản pháp luật từ sau khi Hiến pháp năm 1946 ra đời và
ngày càng được quy định đầy đủ hơn theo sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động. Hiện nay
chuẩn bị xét xử sơ thẩm được quy định đầy đủ và có hệ thống hơn trong Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2004 và được hướng dẫn trong các Nghị quyết của Hội đồng thẩm
phán. Trên thực tế, việc thực hiện tốt các quy định của pháp luật hiện hành về chuẩn bị
xét xử sơ thẩm đã góp phần thiết thực vào việc nâng cao hiệu quả của xét xử sơ thẩm,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của nhà
nước. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, bài viết dưới đây sẽ tìm hiểu các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và qua đó,
đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án dân sự.
NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
1. Khái niệm về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
1
Khi các tranh chấp dân sự xảy ra, các chủ thể có quyền tự thỏa thuận với nhau
để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết các tranh chấp, có nhiều
trường hợp các chủ thể không thể tự thỏa thuận với nhau và yêu cầu Tòa án giải quyết.
Từ khi thụ lý vụ án dân sự, Tòa án chính thức xác nhận thẩm quyền và trách nhiệm
của mình trong việc giải quyết vụ án dân sự. Nếu như hòa giải không thành, Tòa án
phải củng cố, hoàn thiện hồ sơ vụ án để đưa vụ án ra xét xử ở tại phiên tòa. Các hoạt
động này của Tòa án được gọi là chuẩn bị xét xử.
Theo Từ điển Tiếng Việt (Nhà xuất bản Đà Nẵng) thì “chuẩn bị” nghĩa là “làm
cho có sẵn cái cần thiết để làm việc gì”. Theo Từ điển thuật ngữ pháp lý, “xét xử” là
“hoạt động do Toà án tiến hành theo pháp luật tố tụng, trong đó Toà án, sau khi


nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án, tiến
hành giải quyết và xử lí vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định cần thiết có liên
quan”. Còn “sơ thẩm”, Từ điển Luật học định nghĩa là “lần đầu tiên đưa ra xét xử vụ
án tại một toà án có thẩm quyền”.
Như vậy, ta có thể đưa ra khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự như sau:
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là tạo mọi điều kiện cần thiết (theo quy định của
pháp luật) cho việc xét xử một vụ án lần đầu tại một toà án có thẩm quyền.
Hiện nay trong khoa học pháp lý, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm
“ chuẩn bị xét xử sơ thẩm”. Có tác giả cho rằng, nếu hiểu chuẩn bị xét xử sơ thẩm với
tính chất là một quá trình, thì CBXXST là một một giai đoạn tố tụng độc lập trong thủ
tục giải quyết các vụ án dân sự tại toà án bao gồm tất cả các hoạt động từ sau khi thụ lý
vụ án như phân công thẩm phán giải quyết vụ án; thông báo việc thụ lý vụ án; lập hồ sơ
vụ án dân sự, tiến hành hoà giải, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, ra các quyết
định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hoặc quyết định đưa vụ án ra xét
xử
1
. Còn nếu hiểu CBXXST với tính chất là một hoạt động tố tụng theo khái niệm như
đã tìm hiểu ở trên thì CBXXST gồm những công việc cụ thể do những người tiến hành
tố tụng và tham gia tố tụng tiến hành trên cơ sở quy định của pháp luật, phù hợp với
địa vị tố tụng của họ
2
để phục vụ trực tiếp cho thủ tục xét xử sơ thẩm.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi tiếp cận CBXXST với tính chất là hoạt
động của toà án trong thủ tục xét xử sơ thẩm. Các công việc chuẩn bị xét xử chủ yếu
của Tòa án bao gồm: phân công thẩm phán giải quyết vụ án; thông báo việc thụ lý vụ
án; lập hồ sơ vụ án dân sự ; quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập những người
tham gia tố tụng đến tham gia phiên tòa.
2. Ý nghĩa của giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
1
Đoàn Đức Lương, Thụ lý và chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam_Luận

văn thạc sỹ luật học
2
Nguyễn Thị Thuý Hoà, Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự _ Luận văn thạc sỹ luật học, 2010.
2
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng
dân sự. Đây là giai đoạn tố tụng dân sự quan trọng, trong đó, Toà án xác định đúng
quan hệ pháp luật tranh chấp, từ đó xác định được đầy đủ nguyên đơn, bị đơn, những
người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Khi đã xác định được các đương sự trong vụ án,
Toà án có thể yêu cầu họ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình
hoặc bác lại yêu cầu của đương sự khác…Nếu cần phải bổ sung chứng cứ thì Toà án sẽ
thu thập theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự để hoàn thiện hồ sơ vụ án. Việc
thu thập, xác minh chứng cứ đầy đủ sẽ đảm bảo tính khách quan, chính xác, bảo vệ
đúng quyền và lợi ích hợp pháp của người bị vi phạm. Nếu xác định thiếu đương sự
trong vụ án sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời việc thu
thập chứng cứ và giải quyết vụ án sẽ thiếu toàn diện, thiếu chính xác. Trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, Tòa án sẽ tiến hành nghiên cứu, xem xét hồ sơ
vụ án. Từ đó, Tòa án sẽ kiểm tra thật kỹ lưỡng tất cả các vấn đề liên quan tới vụ án để
chuẩn bị tốt cho phiên tòa sơ thẩm, đồng thời dự liệu một số khó khăn gặp phải trong
quá trình tiến hành giải quyết vụ án. Không chỉ có vậy, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án dân sự, các đương sự có thể chuẩn bị cả về mặt tâm lý cũng như kiến
thức pháp luật để sẵn sàng cho phiên tòa sơ thẩm được tiến hành sau đó.
Có thể nói, giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là giai đoạn rất quan
trọng, tuy không đưa ra những phán quyết như giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
nhưng nó làm tiền đề, cơ sở pháp lý vững chắc đảm bảo cho việc xét xử và ra các phán
quyết của toà án được khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.
3. Cơ sở của việc tiến hành giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự được tiến hành dựa trên ý nghĩa
quan trọng của giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Đồng thời, các công
việc cần thực hiện khi tiến hành giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự như
phân công thẩm phán giải quyết vụ án; thông báo việc thụ lý vụ án; lập hồ sơ vụ án dân

sự và quyết định đưa vụ án ra xét xử,... còn được thực hiện dựa trên những nguyên tắc
bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự. Ví dụ như khi lập hồ sơ vụ án, cần đảm
bảo nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự ; Tòa án chỉ có
thể giải quyết một cách chính xác và công bằng khi có đầy đủ các chứng cứ và các tình
tiết của vụ án dân sự đã được làm sáng tỏ. Ngoài ra, việc tiến hành giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm còn dựa trên cơ sở đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa ; đồng thời đảm
bảo sự bình đẳng giữa các bên đương sự.
II. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án dân sự
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
3
Thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án vào số thụ lý vụ án đến ngày
Toà án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tùy theo tính chất của từng loại vụ án
mà thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định khác nhau. Quy định này là sự kế thừa các
quy định của pháp lệnh đã được Nhà nước ta ban hành trước đây quy định về thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự, lao động và kinh tế như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động, Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế.
Theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (BLTTDS), thì tuỳ từng
loại vụ án mà thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định khác nhau, cụ thể như sau:
*Đối với các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình (được quy định tại Điều 25 và
Điều 27 BLTTDS) là 4 tháng, kể từ ngày thụ lý. Vì những vụ án này thường có tính
chất phức tạp nên nhà làm luật quy định thời hạn chuẩn bị xét xử tương đối dài.
*Đối với những vụ án kinh doanh, thương mại và lao động (được quy định tại
Điều 29 và 31 BLTTDS) là 2 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. BLTTDS 2004 quy định
như vậy là vì những vụ án trên phát sinh từ các quan hệ rất nhạy cảm, đòi hỏi phải giải
quyết kịp thời.
*Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án
TA có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 2 tháng đối
với vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 25 và Điều 27 BLTTDS và 1

tháng đối với vụ án kinh doanh, thương mại và lao động quy định tại Điều 29 và Điều
31 BLTTDS.
Theo Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP thì “Những vụ án có tính chất phức tạp” là những
vụ án có nhiều đương sự, có liên quan đến nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu, có
các chứng cứ mâu thuẫn với nhau cần có thêm thời gian để nghiên cứu tổng hợp các tài
liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc cần
phải giám định kỹ thuật phức tạp; những vụ án mà đương sự là người nước ngoài đang
ở nước ngoài hoặc người Việt Nam đang cư trú, học tập, làm việc ở nước ngoài, tài sản
ở nước ngoài cần phải có thời gian uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự, ngoại giao của
Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài…Tuy nhiên, đối với trường hợp cần
phải chờ ý kiến của các cơ quan chuyên môn, cần phải chờ kết quả giám định kỹ thuật
phức tạp hoặc cần phải chờ kết quả uỷ thác tư pháp mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử
(kể cả thời gian gia hạn), thì Thẩm phán căn cứ vào khoản 4 Điều 189 của BLTTDS ra
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. “Trở ngại khách quan” là những trở
ngại do hoàn cảnh khách quan tác động như: thiên tai, địch họa, nhu cầu chiến đấu,
phục vụ chiến đấu… làm cho Toà án không thể giải quyết được vụ án trong thời hạn
quy định. “Lý do chính đáng” quy định tại khoản 3 Điều 179 của BLTTDS được hiểu
là các sự kiện xảy ra một cách khách quan, không lường trước được như: cần phải có
4
sự thay đổi, phân công lại người tiến hành tố tụng có tên trong quyết định đưa vụ án ra
xét xử mà người có thẩm quyền chưa cử được người khác thay thế; vụ án có tính chất
phức tạp đã được xét xử nhiều lần ở nhiều cấp Toà án khác nhau, nên không còn đủ
Thẩm phán để tiến hành xét xử vụ án đó mà phải chuyển vụ án cho Toà án cấp trên xét
xử hoặc phải chờ biệt phái Thẩm phán từ Toà án khác đến… nên cản trở Toà án tiến
hành phiên toà trong thời hạn quy định”.
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử tuỳ từng trường hợp, Toà án ra một trong các
quyết định sau đây: công nhận sự thoả thuận của các đương sự; tạm đình chỉ giải quyết
vụ án; đình chỉ giải quyết vụ án hoặc đưa vụ án ra xét xử. Trong thời hạn 1 tháng kể từ
ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên tòa để xét xử vụ án,
trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 2 tháng.

2. Các công việc chuẩn bị xét xử
Từ khi thu lý vụ án dân sự, Toà án chính thức xác nhận thẩm quyền và trách
nhiệm của mình trong việc giải quyết vụ án dân sự. Nếu hòa giải không thành, Toà án
phải củng cố hoàn thiện hồ sơ vụ án để đưa vụ án ra xét xử ở tại phiên tòa. Các hoạt
động này của Toà án được gọi là chuẩn bị xét xử. Các công việc chuẩn bị xét xử chủ
yếu của Toà án bao gồm: phân công Thẩm phán giải quyết vụ án; thông báo việc thụ lý
vụ án; lập hồ sơ vụ án; quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập những người tham
gia tố tụng đến tham gia phiên tòa hoặc quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải
quyết vụ án, quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
a. Phân công Thẩm phán giải quyết vụ án
Vì Thẩm phán có vai trò đặc biệt quan trọng, cho nên, trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử, Thẩm phán có thẩm quyền đã thụ lý vụ án phải phân công một Thẩm phán phụ
trách giải quyết vụ án.Việc phân công này là cơ sở để Thẩm phán toàn tâm toàn ý với
vụ án đã được giao, để Thẩm phán thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được quy
định tại Điều 41 BLTTDS, đảm bảo giải quyết vụ án nhanh chóng, khách quan, đúng
pháp luật.
Theo quy định tại Điều 172 BLTTDS thì: “Trong thời hạn ba ngày làm việc kể
từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Toà án phân công một Thẩm phán giải quyết vụ
án.Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Thẩm phán được phân công không thể tiếp
tục tiến hành được nhiệm vụ thì Chánh án Toà án phân công Thẩm phán khác tiếp tục
nhiệm vụ; trường hợp đang xét xử mà không có Thẩm phán dự khuyết thì vụ án phải
được xét xử lại từ đầu”.
b. Thông báo việc thụ lý vụ án
Sau khi đã tiến hành các công việc thụ lý, TA phải thông báo bằng văn bản cho
bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết
vụ án để họ biết được vụ án đã được thụ lý. TA cũng phải thông báo cho Viện kiểm sát
5

×