Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN Áp dụng kiểu dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ cho một tiết dạy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.92 KB, 16 trang )

A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Trong nhà trường hiện nay, mục tiêu giáo dục tổng quát đã được xác định
tương đối phù hợp với xu hướng tất yếu của thời đại. Bao gồm: năng lực, thái
độ, kỹ năng, kiến thức, cách học,cách sống nhằm tạo ra những con người lao
động tự chủ, năng động sáng tạo, có năng lực tự học, năng lực giải quyết các
vấn đề thực tiễn. Muốn đào tạo ra những con người năng đông, tự chủ, sáng tạo
thì phương pháp giáo dục phải hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện và phát triển
khả năng suy nghĩa và làm một cách tự chủ, năng động sáng tạo ngay trong học
tập, lao động ở nhà trường.
Trong nhà trường, điều chủ yếu là không phải nhồi nhét kiến thức mà là giáo
dục cho học sinh phương pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, giải quyết vấn
đề một cách tích cực, chủ động, sáng tạo. Có như vậy chúng ta mới đào tạo
được những con người mới đáp ứng cuộc cách mạng về khoa học, công nghệ,
đáp ứng xu thế phát triển của thời đại. Sự phát triển của đất nước trong mỗi giai
đoạn lịch sử đòi hỏi phải đổi mới mục tiêu giáo dục. Trong những năm qua
nghành giáo dục đã chăm lo phát triển và đổi mới phương pháp giáo dục ở mức
độ thích hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế của đất
nước đang hội nhập với WTO, giáo dục không thể đứng ngoài tình hình đó.
Trong điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội Việt Nam hiện nay thì nhiêm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ Quốc với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước đang đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Đặc biệt là thế hệ trẻ
– chủ nhân tương lai của đát nước. Đây là thử thách lớn lao đồng thời cũng là
cơ hội lớn cho thế hệ trẻ nước nhà. Để làm được việc đó nhân tố quyết định cho
sự thành công là phẩm chất năng lực của người Việt Nam, là trình độ dân trí,
nguồn nhân lực, nhân tài của đất nước. Vì vậy vai trò của giáo dục hiện nay có
ý nghĩa quan trọng để xã hội phát triển, đảm bảo cho sự phát triển của khoa học
kĩ thuật vào sản xuất. Do đó giáo dục phải tiếp tục đổi mới phương pháp cho
phù hợp với nhu cầu của xã hội.
Năm học 2007- 2008 là năm học huyện Tiên Lãng tiếp tục là năm “ Hội
nhập – phát triển – bền vững” và hưởng ứng phong trào “hai không” với


năm
nội dung. Toàn thể giáo viên đã hăng hái trong phong trào đổi mới phương
pháp dạy học, áp dụng khoa học công nghệ tin học trong dạy học. Hưởng ứng
phong trào đó là một giáo viên trực tiếp tham gia công tác giảng dạy tôi xin
mạnh dạn trình bày một vài suy nghĩ về một phương pháp dạy học môn Toán ở
trường phổ thông nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong dạy học đó là “ Áp
dụng kiểu dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ cho một tiết dạy”.
Đây là những suy nghĩ chủ quan của bản thân, nên không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy rất mong nhận được những ý kiến đóng góp phê bình
NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.
1
của các đồng chí đồng nghiệp để bản thân tôi rút ra được những kinh nghiệm
trong công tác giảng dạy.
B. MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HỢP TÁC
THEO NHÓM NHỎ ĐỐI VỚI MÔN TOÁN.
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN: Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và môn toán
nói riêng đều xuất phát từ những quan niệm sau:
1. Mục tiêu giáo dục
Hoạt động cơ bản là dạy học, là hình thành và phát triển nhân cách học sinh.
Dạy học không chỉ cung cấp cho học sinh những tri thức, kiến thức cơ bản mà
còn phải tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách con người mới xã
hội chủ nghĩa. Học sinh càng tham gia tích cực, chủ động vào hoạt động học tập
thì phẩm chất, năng lực cá nhân càng sớm được hình thành và phát triển hoàn
thiện. Tính năng động, sáng tạo, tự chủ là những phẩm chất của con người rất
cần thiết trong cuộc sống hiện đại, những phẩm chát đó cần phải được hình
thành ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
2. Yêu cầu của việc giảng dạy
Trước đây trong giảng dạy người thầy giáo chỉ chú trọng việc truyền đạt tri
thức khoa học của bộ môn mà coi nhẹ phương pháp học tập nghiên cứu mang
tính đặc thù của môn đó. Ngày nay cùng với tri thức khoa học của bộ môn,

cùng với sự hỗ trợ của thiết bị dạy học hiện đại, người thầy phát huy tối đa năng
lực tự chủ của học sinh bằng cách hướng dẫn, điều khiển học sinh tự tìm ra nội
dung kiến thức trọng tâm của bài học bằng chính khả năng của mình đây là điều
có ý nghĩa to lớn với nhiệm vụ học tập của mỗi người học sinh.
3. Năng lực cá nhân.
Việc đổi mới phương pháp dạy học phải phù hợp với sự phân hoá trong dạy
học. Năng lực của học sinh trong một lớp không hoàn toàn giống nhau, việc
phân hoá đối tượng, tiến tới cá nhân hoá trong dạy học là xu hướng tất yếu để
đảm bảo sự phát triển tối ưu của mỗi học sinh.
4. Đặc trưng riêng của từng môn học
Mỗi môn học có đặc trưng riêng, bộ môn toán là môn học giữ vai trò rất
quan trọng, bởi toán học là công cụ giúp học sinh trong hoạt động học tập tốt
các môn học khác, góp phần phát triển tư duy sáng tạo và năng lực trí tuệ cho
học sinh.
NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.
2
Vì vậy thông qua việc dạy học phải rèn khả năng suy nghĩ phương pháp học
tập của học sinh. Việc tìm kiếm chứng minh một định lý, tìm lời giải của một
bài toán có tác dụng lớn trong việc rèn luyện cho học sinh các phương pháp
khoa học trong suy nghĩ, suy luận, trong giải quyết vấn đề, biết quan sát, tìm
tòi, dự đoán một cách thông minh sáng tạo.
Tóm lại, dạy học là một hoạt động trọng yếu trong nhà trường, thông qua
dạy chữ để dạy người. Đổi mới phương pháp dạy học là việc làm cần thiết để
đáp ứng nhu cầu cần thiết của xã hội. Các nhà giáo dục đã khẳng định dạy học
trong một nhóm đơn vị nhóm nhỏ là phù hợp với xu thế mới của thời đại. Việc
vận dụng kiểu hoạt động theo nhóm nhỏ này có thể vận dụng cho tất cả các môn
học trong đó vận dụng vào một giờ dạy Toán là một việc làm có cơ sở khoa học
đáng tin cậy.
II. CƠ SỞ CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH MÔN TOÁN
THCS

Để đáp ứng yêu cầu đổi mới về mục tiêu cấp học đã nêu trong Luật giáo
dục(1998) cần phải có một chương trình giáo dục phổ thông phù hợp với tình
hình đất nước ta hiện nay. Đồng thời nhìn ra thế giới thì chương trình sách giáo
khoa cũ của ta còn quá coi trọng về lý thuyết kinh viện hàn lâm nay được giảm
tải về lý thuyết đó và tăng yêu cầu hoạt động thực hành cho học sinh. Nghĩa là:
người học phải được tham gia tích cực chủ động vào các hoạt động tìm tòi kiến
thức, phải được thực hành nhiều, làm việc nhiều. Từ đó nhân cách học sinh
được bộc lộ. Từ các căn cứ trên, việc tổ chức cho học sinh học tập như thế nào
cho hiệu quả là một vấn đề dược nhiều nhà giáo dục quan tâm.
III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
Sau đây tôi xin trình bày một số hướng chia nhóm nhỏ vào việc tổ chức hoạt
động trong một tiết dạy.
1. Đối với một tiết dạy kiến thức mới.
Bước 1:- Giáo viên cần chuẩn bị xác định chính xác mục tiêu của bài dạy.
Qua bài học học sinh nắm được các kiến thức cơ bản trọng tâm nào, kiến thức
cần rèn luyện kỹ năng là gì và thái độ của học sinh sau khi học xong bài.
- Từ đó tìm mối quan hệ giữa kiến thức được xây dựng trong bài với kiến
thức cũ đã học trước đó.
- Xác định và phân loại thành các dạng bài tập trong sách giáo khoa để
giáo viên có hướng phân chia việc cho các nhóm hoạt động.
Bước 2: Khi đã xác định rõ mục tiêu cơ bản của bài học , giáo viên sẽ tìm tòi
và định hướng cho việc phân nhóm nhỏ học tập.
NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.
3
• Đối với học sinh.
- Yêu cầu học sinh chuẩn bị kỹ bài học ở những tiết học truớc để góp phần
xây dựng bài mới cho tốt hơn khi hoạt động theo nhóm nhỏ.
- Giáo viên giao việc chuẩn bị ở nhà cho từng nhóm: mỗi nhóm cần xem
xét một nội dung cụ thể nào đó. Tổng hợp các vấn đề của các nhóm thành một
đợn vị kiến thức của bài học mới.

• Đối với giáo viên: sau khi đã nghiên cứu kỹ mục tiêu bài dạy giáo viên
cần chuẩn bị một số nội dung sau:
- Nội dung kiến thức cần truyền thụ cho học sinh.
- Chọn nội dung nào có thể cho học sinh hoạt động nhóm.
- Chuẩn bị phương tiện cho bài dạy.
- Lựa chọn hệ thống câu hỏi mềm dẻo, nhẹ nhàng gây hứng thú thi đua
giữa các nhóm.
2. Đối với tiết luyện tập hay ôn tập chương.
Luyện tập hay ôn tập là khâu quan trọng giúp học sinh hoàn thiện tri thức
mới và biết vận dụng tri thức đó để giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn, tác động
đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Trước hết ta xét đến cấu trúc các giờ luyện tập, ôn tập chương của sách giáo
khoa mới được trình bày trên cơ sở hệ thống các câu hỏi và hệ thống bài tập.
Toàn bộ phần lý thuyết được luyện tập bằng hệ thống câu hỏi, đòi hỏi học sinh
phải có ý thức tự giác học và chuẩn bị truớc ở nhà. Do đó giáo viên cần tổ chức
cho học sinh hoạt động theo nhóm trong tiết luyện tập và ôn tập chương như thế
nào?
• Đối với học sinh.
- Học sinh phải chuẩn bị kỹ các câu hỏi ở sách giáo khoa một cách đày đủ
và chính xác ( các em có thể chưa thuộc các câu hỏi xong về nội dung thì phải
nắm thật chắc).
- Học sinh chuẩn bị chu đáo các bài tập được giao về nhà.
• Đối với giáo viên.
Sau khi nghiên cứu kỹ sách giáo khoa để tiến hành việc luyện tập hay ôn tập
trong một tiết học phải chuẩn bị những nội dung sau:
- Việc ôn lý thuyết: Giáo viên cần làm phiếu trắc nghiệm in nội dung xoay
quanh lý thuyết của tiết luyện tập hay ôn tập để kiểm tra nội dung kiến thức của
nhiều bài hay cả một chương.
Tôi thấy rằng hệ thống bài tập trắc nghiệm giúp giáo viên kiểm tra những
kiến thức cơ bản, tối thiểu của học sinh cần đạt được sau mỗi bài dạy.

NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.
4
Chẳng hạn sau khi ôn tập về biểu thức đại số, đơn thức, đa thức(đại số 7)
giáo viên có thể phát phiếu học tập để các nhóm thảo luận trong 5 phút.
Đề bài Đ S
1. Các câu sau đúng hay sai:
a) 5x là một đơn thức.
b) 2x
3
y là một đơn thức bậc 3.
c)
2
1
x
2
yz – 1 là đơn thức.
d) x
2
+x
3
là đa thức bậc 5
e) 3x
2
- xy là đa thức bậc 2
f) 3x
4
- x
3
-2 – 3x
4

là đa thức bậc 3
2. Hai đơn thức sau là đồng dạng đúng hay sai?
a)
2x
3
và 3x
2
b)
(xy)
2
và x
2
y
2
c)
x
2
y và
2
1
x
2
y
d)
–x
2
y
3
và xy
2

2xy
Đây là một bài trắc nghiệm có tính chất tổng hợp. Nó không chỉ dựa vào
kiến thức đơn lẻ của từng bài mà yêu cầu học sinh phải có kiến thức tổng hợp.
Đó là khả năng kết hợp nhiều khái niệm để trả lời. Vì vậy trong quá trình học
tập đòi hỏi học sinh phải được hợp tác, bàn bạc để có kết quả đúng đắn. Cho
nên giáo viên có thể cho học sinh hoạt động theo nhóm, nhóm này có khoảng 4
em là phù hợp.
Vấn đề luyện tập các bài tập thì tổ chức hoạt động nhóm như thế nào? Theo
tôi giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ các bài tập trong một tiết học để phân ra
thành các dạng bài tập và loại bài tập có thể cho học sinh làm việc theo nhóm.
Hoặc : Dạng bài tập tính toán.
Với tiết 64: Ôn tập chương IV (Đại số 7), ôn tập về cộng, trừ đa thức một
biến. Sách giáo khoa ra bài tập sau(Bài 65/tr51).
Giáo viên đưa đề bài lên màn hình
Trong các số cho bên phải mỗi đa thức, số nào là nghiệm của đa thức đó.
NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.
5
a) A(x)= 2x- 6
b) B(x)= 3+
2
1
x
c) C(x)= x
2
- 3x+ 2
d) D(x) = x
2
+ x
-3; 0; 3
-

6
1
; -
3
1
;
6
1
;
3
1
-2;-1;1;2
2
1
;0;-1;1
Đối với bài tập này giáo viên có thể hướng dẫn chung cho học sinh có thể
thay lần lượt các giá trị đã cho vào đa thức rồi tính giá trị của đa thức hoặc tìm
x để đa thức bằng 0.
Giáo viên yêu cầu mỗi nhóm học sinh làm một câu; mỗi câu làm hai cách.
Nhóm này có thể chia theo từng tổ, mỗi tổ 7 đến 8 em. Trong mỗi nhóm cử một
em làm nhóm trưởng, một em làm thư ký. Mỗi em làm một nhiệm vụ cụ thể
dưới sự sắp xếp của của nhóm trưởng. Nhóm trưởng sẽ giao việc cho từng
thành viên của nhóm mình một cách thích hợp nhất hoặc có thể làm chung cho
cả nhóm rồi đi đến thống nhất kết quả cuối cùng thư kí ghi lại kết quả của cả
nhóm.
Giáo viên kết thúc hoạt động nhóm rồi mời đại diện của mỗi nhóm lên trình
bày cách làm của nhóm mình. Đồng thời cho cả lớp nhận xết đánh giá thi đua
giữa các nhóm.
Tôi thiết nghĩ trong tiết luyện tập hay ôn tập đó học sinh được thực hành
nhiều song lại kèm theo việc phân nhóm học tập có thi đua giải nhanh, giải

đúng giữa các nhóm có đánh giá cho điểm thì học sinh càng phấn khởi và hứng
thú học tập hơn.
IV. MINH HỌA BẰNG MỘT BÀI DẠY.
Để minh họa cho các giải pháp trên tôi xin trình bày một tiết dạy áp dụng
kiểu dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ trong khuôn viên một tiết dạy đại số lớp 7.
Phần I: Nghiên cứu bài dạy
Trước khi tiến hành soạn bài giáo viên cần thiết phải đọc kỹ nhiều lần, xác
định rõ trọng tâm của bài, tìm hiểu những kiến thứ khó để có những phương án
giảng dạy tối ưu, cần xác định rõ mối quan hệ của kiến thức từng phần với
nhau. Trên cơ sở đó mà quyết định phương pháp dạy giờ đó sao cho phát huy
được tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học. Việc nghiên cứu bài
dạy để người thầy sơ bộ khái quát hoá được hệ thống câu hỏi hướng cho học
sinh vào việc tự tìm ra kiến thức mới theo một trình tự lôgíc của kiến thức từng
phần, việc nghiên cứu bài còn giúp cho người thầy lường trước tình huống sư
phạm trong quá trình xây dựng kiến thức mới, từ đó đưa ra những phương án
tối ưu nhất giúp cho học sinh hiểu bài, hiểu bản chất vấn đề.
NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.
6
Đây là một bài thuộc chương III- Thống kê mà chương trình cũ học sinh sẽ
học ở lớp 9. Khi đọc bài: Bảng “Tần số” các giá trị của dấu hiệu, tôi xác định
đây là một bài dạy kiến thức mới giúp học sinh biết cách lập bảng “ Tần số” từ
bảng số liệu thống kê ban đầu. Đồng thời học sinh hiểu được Bảng “ Tần số” là
một hình thức thu gọn có mục đích của bảng số liệu thống kê ban đầu, do đó
học sinh phải học kỹ bài học trước về các khái niệm: Tần số, dấu hiệu là gì, giá
trị của dấu hiệu…Cho nên tôi đã quyết định tổ chức cho học sinh hoạt động
theo nhóm trong bài này.
Trước hết tôi giao việc cho học sinh như sau:
1.Làm bài tập 4/9-SGK
2.Ôn lại các khái niệm: Dấu hiệu là gì? Số các giá trị của dấu hiệu. Tần số
của dấu hiệu.

3.Bài tập
Số lượng học sinh nam của từng lớp trong một trường THCS được ghi lại
trong bảng dưới đây:
18 14 20 27 25 14
19 20 16 18 14 16
Cho biết:
a. Dấu hiệu là gì? Số tất cả các giá trị của dấu hiệu
b. Nêu các giá trị khác nhau của dấu hiệu và tìm tần số của từng giá trị đó.
Về phần giáo viên tôi cần chú ý đến các vấn đề sau:
Bài này tuy kiến thức ngắn song có ý nghĩa rất quan trọng về lý thuyết lẫn
thực hành. Khi nghiên cứu một dấu hiệu theo phương pháp thống kê thì điều mà
người ta quan tâm nhất là khả năng lấy một giá trị nào đó của dấu hiệu. Các giá
trị thường tập trung trong khoảng nào để từ đó có những dự báo ước lượng khi
nghiên cứu dấu hiệu đó không phải trên mẫu mà trên tổng thể thống kê. Bảng “
tần số” tuy đơn giản song nó có thể giúp ta nhận xét sơ bộ về việc lấy giá trị của
dấu hiệu và tiện lợi cho việc tính toán sau này.
Bên cạnh sự chuẩn bị nội dung của bài dạy, nội dung cho sinh hoạt nhóm tôi
chuẩn bị các phương tiện như bảng phụ ghi nội dung của một số bài tập và ghi
nhớ.
Sau đây là toàn bộ tiến trình một bài dạy.
Phần II: Bài soạn
Tiết 43. BẢNG “TẦN SỐ” CÁC GIÁ TRỊ CỦA DẤU HIỆU.
NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.
7
I.MỤC TIÊU
- Về kiến thức: Học sinh hiểu được bảng “tần số” là một hình thức thu gọn
có mục đích của bảng số liệu thống kê ban đầu, nó giúp cho việc sơ bộ nhận xét
về giá trị của dấu hiệu được dễ dàng hơn.
- Về kỹ năng: Học sinh biết cách lập bảng “tần số” từ bảng số liệu thống
kê ban đầu và biết cách nhận xét.

- Về tư duy: Học sinh biết liên hệ thực tế.
II.PHƯƠNG TIỆN
Giáo viên: Đèn chiếu, các phim giấy trong, thước thẳng, bảng phụ ghi
bảng7(SGK) và một số bài tập, ghi nhớ.
Học sinh: Bảng con, biển xanh đỏ, máy tính bỏ túi Fx-MS.
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC
Hoạt động của thầy Hoạt động của
trò
Ghi bảng
Hoạt động1: Kiểm tra bài cũ.
Gv: Đưa bài tập lên màn
hình:
Học sinh nam của từng
lớp trong một trường THCS
được ghi lại trong bảng dưới
đây:
18 14 20 27 25 14
19 20 16 18 14 16
Cho biết:
a.Dấu hiệu là gì? Số tất cả
các giá trị của dấu hiệu.
b.Nêu các giá trị khác
nhau của dấu hiệu và tìm tần
số.
GV: Nhận xét bài làm của
bạn.
GV yêu cầu HS đánh giá,
cho điểm.
GV đặt vấn đề vào bài:
Bảng trên là bảng số liệu

thống kê ban đầu với 12 đơn
vị điều tra, trong thực tế còn
gặp các bảng số liệu thống
HS quan sát
1HS lên bảng
trình bày.
HS: Dùng biển (Đỏ
là sai Xanh làđúng).
NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.
8
kê ban đầu với số đơn vị điều
tra lớn hơn rất nhiều thì việc
nhận xét về việc lấy giá trị
của dấu hiệu là rất khó khăn,
dễ nhầm lẫn. Vậy có thể thu
gọn bảng số liệu thống kê
ban đầu được không?
=> Nội dung bài mới.
Hoạt động 2: Lập bảng “Tần số”
Gv:Yêu cầu hs đọc ?1
-Treo bảng 7
-Yêu cầu hs làm ?1dưới
hình thức hoạt động nhóm (3
phút)
-Thông báo kết thúc thời
gian hoạt động nhóm.
-Kiểm tra bài của một vài
nhóm đưa lên màn hình.
-Gọi hs nhận xét và bổ
sung những chỗ thiếu.

GV: Bổ sung vào bên trái
và bên phải của bảng như
sau:
giá
trị
(x)
9
8
9
9 00
1
01
1
02
Tần
số
(n)
3 4 1
6
4 N
=30
Gv: Bảng mà bạn vừa làm
ở ?1 gọi là bảng phân phối
thực nghiêm của dấu hiệu.
Tuy nhiên để cho tiện, từ nay
trở đi ta sẽ gọi đó là bảng
“tần số” chính vì vậy mà chữ
tần số dược đưa vào trong
ngoặc.
Gv: Từ bảng 7 để lập

được bảng tần số em đã làm
HS đứng tại chỗ
đọc ?1
Quan sát bảng7
Hoạt động nhóm ?1
( mỗi nhóm 4 em)
Đại diện một
nhóm lên bảng trình
bày.
Kết quả của hoạt
động nhóm
9
8
9
9
1
00
1
01
1
02
3 4 1
6
4 3
HS trả lời
1. Lập bảng “ Tần số”
?1 (sgk)
Bảng“tần số”dạng
“ngang”
Giá

trị
(x)
9
8
9
9
1
00
1
01
1
02
T
tần
số
(n)
3 4
6
4 3
N=
30
NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.
9
như thế nào?
Gv: Để lập được bảng
“tần số” từ bảng số liệu
thống kê ban đầu ta phải tìm
được các giá trị khác nhau
của dấu hiệu và tần số tương
ứng của mỗi giá trị đó.

Giáo viên:Theo em còn
cách lập bảng “tần số” nào
khác với bảng trên không?
Gv: Em hãy lên bảng lập
bảng “tần số” theo cách của
em?
Gv: Nhận xét bài làm của
bạn?
Gv: Bảng “dọc” có nhiều
thuận lợi cho việc tính toán
các tham số của dấu hiệu mà
ta sẽ học sau này.
Treo bảng 1/sgk – 4.
Từ bảng số liệu thống kê
ban đầu em hãy lập bảng
“tần số”.
Em có thể lập bảng ngang
hoặc dọc tuỳ ý.
Gv: thu một vài bảng của
hs chiếu lên màn hình để
kiểm tra và nhận xét.
Gv: Nhận xét bài làm của
bạn trên bảng?
HS trả lời
HS lên bảng.
Dưới lớp thảo luận
nhóm.
Cả lớp dùng biển
xanh đỏ nhận xét
(Xanh là đồng ý, Đỏ

là không đồng ý).
HS hoạt động nhóm
( khoảng 3 em) làm
ra giấy trong.
HS nhận xét
Bảng “Tần số” dạng
“dọc”.
Giá trị (x) Tần số (n)
98 3
99 4
100 16
101 4
102 3
N=30
Giá
trị
(x)
8 30 35 0
Tần
số
(n)
2
8 7
3 N=
20
Bảng 8- Trang10/SGK
Hoạt đông 4: Chú ý
Gv: có 2 cách lập bảng
“tần số” ở trên chính là nội
dung của chú ý (a)

Gv: Có bao nhiêu đơn vị
1 HS đọc chú ý
(a)
2. Chú ý
SGK- Trang 10
NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.
10
điều tra từ bảng 8?
- Có bao nhiêu giá trị
khác nhau của dấu hiệu, đó
là những giá trị nào?
Qua bảng ta thấy có số
các giá trị là 20 song chỉ có 4
giá trị khác nhau là
28,30,35,50.
-Theo em giá trị nào có
tần số nhỏ nhất? Giá trị nào
có tần số lớn nhất?
- Qua bảng ta thấy chỉ có
2 lớp trồng được 28 cây
nhưng lại có 8 lớp trồng
được 30 cây.
Gv: Số cây trồng được
chủ yếu của các lớp là bao
nhiêu?
Gv: Tại sao em lại khẳng
định điều này?
Gv: Trên đây là những
nhận xét sơ bộ về giá trị của
dấu hiệu và còn nhiều nhận

xét khác nữa. Những nhận
xét này sẽ giúp các em làm
bài tập ở những bài tiếp
theo.Đó là nội dung của chú
ý b/sgk
Gv: Qua bảng tần số giúp
người điều tra được gì?
HS trả lời
- Có 4 giá trị
khác nhau của dấu
hiệu đó là:28, 30,
35, 50
- Giá trị có tần số
nhỏ nhất là 28; giá
trị có tần số lớn nhất
là 30.
Số cây trồng
được chủ yếu của
các lớp là 30 và 35
cây.
Vì giá trị 30 và
35 là khoảng giá trị
có tần số lớn nhất
tương ứng với 8 và
7.
- Bảng : “tần số”
giúp người điều tra
dễ có nhận xét
chung về sự phân
NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.

11
Gv: Bài học hôm nay em
cần nắm được những nội
dung gì?
Gv: Đưa nội dung bài học
lên màn hình.
Gv: Bảng “tần số” là hình
thức thu gọn có mục đích của
bảng số liệu thống kê ban
đầu, nó giúp cho việc sơ bộ
nhận xét về giá trị của dấu
hiệu được dễ dàng hơn, nó
có tác dụng cho việc thống
kê.
phối các giá trị của
dấu hiệu và tiện lợi
cho việc tính toán
sau này.
- HS trả lời.
Ghi nhớ:SGK-trang10.
Hoạt đông 5: Luyện tập
Gv: Treo bảng phụ đề bài.
Giáo viên:Yêu cầu hs đọc
bài
- Qua bảng 11 em hãy
cho biết dấu hiệu cần tìm ở
đây là gì?
- Lập bảng “tần số”?
Gv: thu khoảng 3 bài của
hs chiếu lên màn hình để

kiểm tra.
Gv: yêu cầu hs nhận xét
baì làm của bạn.
Gv: Qua bảng “tần số”
em hãy cho biết giá trị nào
có tần số lớn nhất?
Vậy gia đình có 2 con
HS đọc
HS: đúng tại chỗ
trả lời
Thảo luận nhóm và
làm ra giấy trong.
HS nhận xét
HS trả lời
Bài tập 6:SGK-11
a.Dấu hiệu: số con của
mỗi gia đình
b.Bảng tần số
Giá
trị
(x)
0 1 2 3 4
Tần
số
(n)
2 4 17 5 2 N
=
3
0
Nhận xét

- Số con của các gia
đình trong thôn từ 0 đến 4
con.
- Số gia đình có 2 con
chiếm tỷ lệ cao nhất.
- Số gia đình có 3 con
trỏ lên chỉ chiếm sấp xỉ
NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.
12
chiếm tỷ lệ cao nhất.
Gv: Số gia đình 3 con trở
lên là bao nhiêu?
Gv: Tỷ số giữa số gia
đình đông con với tổng số 30
gia đình là bao nhiêu?
Gv: Em hãy dùng máy
tính để tính xem số gia đình
đông con chiếm tỷ lệ bao
nhiêu?
Gv: Vậy qua bảng “tần
số” này thì em rút ra nhận
xét gì?
Gv: Theo em thôn này đã
thực hiện tốt chủ truơng để
phát triển dân số của Nhà
Nước ta chua?
? ở địa phương em việc
thực hiện chủ trương phát
triển dân số như thế nào?
Em hãy tập làm một nhà điều

tra, điều tra xem 20 gia đình
ở khu dân cư em đang sống,
số con trong mỗi gia đình và
lập bảng “tần số”, từ đó rút
ra nhận xét về việc thực hiện
kế hoạch hoá gia đình ở địa
phương mình?
( coi như BTVN)
Bài tập 5/sgk-11.
Gv: Tổ chức cho HS trò
chơi toán học.
Gv tổ chức 2 đội chơi,
mỗi đội gồm 5 em. Bảng
danh sách của lớp có thống
kê ngày, tháng, năm sinh
được đưa lên màn hình và
phát cho mỗi đội.
HS trả lời
HS trả lời:tỷ số giữa
gia đình đông con
với tổng số 30 gia
đình là:
30
7
Nhắc lại nhận
xét.
HS trả lời
23,3%
Bài 5/SGK-11: Tổ chức
cho hs trò chơi toán học.

NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.
13
- Yêu cầu các đội thống
kê các bạn có cùng tháng
sinh thì xếp thành một nhóm
các bạn hơn tuổi xếp ô năm
trước, các bạn kém tuổi xếp
ô năm sau.
- Trò chơi được thể hiện
dưới dạng thi tiếp sức: cả hai
đội có 1 bút, mõi bạn viết 3 ô
rồi chuyển cho bạn sau viết
tiếp.
- Đội thắng cuộc là đội thống
kê nhanh và đúng theo mẫu.
Tháng Năm
trước
1 2 3
Tần số
(n)
Gv đưa đáp án lên màn
hình đe kiểm tra kết quả của
hai đội. Công bố đội thắng
và phát thưởng.
4 5 6 7 8 9
10 11 12 Năm sau
N
=
Hoạt đông 6: Hướng dẫn về nhà.
Gv: Đưa bài lên màn hình.

Bài tập điều tra về số con
của mỗi gia đình trong 30 hộ
ở khu dân cư em sông và lập
bảng “tần số”, nêu nhận xét.
Trên đây là một ví dụ về một bài dạy minh họa bằng phương pháp tổ chức
học sinh hoạt động theo nhóm. Tuy nhiên không phải tiết nào cũng có thể vận
dụng tổ chức học sinh hoạt động theo nhóm, không phải cả giờ dạy mà còn phụ
thuộc từng kiểu bài, từng nội dung để xây dựng cho thích hợp. Kết hợp với các
phương pháp khác trong một giờ lên lớp làm cho tiết học trở nên sinh động hơn
thoải mái hơn tạo cho học sinh sự hứng thú khi tiếp thu bài.
Bên cạnh đó việc tổ chức hoạt động theo nhóm nhỏ không phải không còn
những mặt hạn chế: đó là học sinh có thể mất trật tự. Nếu người thầy không
kiểm soát được mọi thành viên trong nhóm hoạt động thì có những thành viên
của nhóm dựa dẫm vào bạn bè, ỷ lại không tham gia hoạt động mà vẫn có điểm
cao. Từ đó dẫn tới việcđánh giá thiếu chuẩn xác tới từng đối tượng trong lớp.
Góp phần thành công cho giờ dạy tổ chực hoạt động cho nhóm ngoài sự
cuốn học sinh hoạt động thì việc đánh giá cho điểm trong từng tiết học là nguồn
NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.
14
động viên, khích lệ rất lớn đối với học trò. Nó hoàn toàn phù hợp với tâm sinh
lý của học sinh.
Năm học 2006- 2007 tôi được phân công giảng dạy hai lớp toán 7. tôi nhận
thấy đây là một thử thách rất lớn. Vì sách giáo khoa lớp 7 không những thay đổi
mạnh mẽ về tư tưởng chỉ đạo mà thay đổi cả về cấu trúc chương trình. Vì vậy
đòi hỏi giáo viên phải thay đổi về suy nghĩ về phương pháp truyền đạt cho hiệu
quả cao nhất trong từng tiết học.
Với phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm nhỏ được đan
xen với các phương pháp truyền thống, tôi cảm thấy trong giờ học hết sức thoải
mái, tiết học không nặng nề. Và học sinh được thật sự làm việc, tìm tòi kiến
thức và đào sâu kiến thức. Cụ thể bài kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm của

hai lớp đạt:
Lớp 7A: 60,6%
Lớp 7B: 62,5%
Đến nay bài khảo sát chất lượng giữa học kỳI đã thự sự được nâng lên rõ rệt.
Cụ thể chất lượng hai lớp đạt như sau:
Lớp 7A: 85%
Lớp 7B: 82%
C. BÀI HỌC RÚT RA.
1. Nhận thức chỉ có được thông qua hoạt động thực tiễn, do đó trong công
tác giảng dạy phải tổ chức cho học sinh được làm việc nhiều, làm việc một cách
tự giác dưới sự định hướng của giáo viên. từ đó hình thành cho học sinh tính
tích cực, năng động, sáng tạo,nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề
trên cơ sở kiến thức toán học được tích luỹ có hệ thống. Muốn vậy phải chuẩn
bị chu đáo bài dạy.
2. Tính tích cực cho học sinh rèn kỹ năng diễn đạt và trình bày các khái
niệm, định nghĩa, định lý. Từ ngôn ngữ thông thường sang ngôn ngữ toán học
và ngược lại thông qua đó rèn kỹ năng phân tích và tổng hợp cho học sinh.
3. Đa dạng hoá các hình thức kiểm tra đặc biệt sử dụng phương pháp trắc
nghiệm.
4. Chuẩn bị tốt các tình huống sư phạm có thể xảy ra để đáp ứng và xử lý
kịp thời tạo niềm tin cho học sinh. Thầy giáo phải chuẩn mực về tác phong,
ngôn ngữ góp phần tạo ra một tiết học hay sôi nổi và hiệu quả.
5. Trên đây là một kinh nghiệm rất nhỏ của tôi trong quá trình giảng dạy
toán. có thể khi trình bày tôi có những thiếu xót mong được sự đóng góp ý kiến
của đồng nghiệp để tôi giảng dạy được tốt hơn. cuối cùng tôi xin chân thành
cám ơn!
NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.
15
Vinh Quang , ngày 25 tháng 12 năm 2008.
Người viết

Nguyễn Hồng Chiên
NguyÔn Hång Chiªn - THCS Vinh Quang - Tiªn L·ng.
16

×