Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa việt nam và trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492 KB, 46 trang )

Luận văn
Triển vọng và những giải
pháp nhằm thúc đẩy quan
hệ kinh tế - thương mại
giữa Việt Nam và Trung
Quốc


MỤC LỤC

I.
1.
2.
3.
4.
5.
6.

I.
1.
2.
3.
4.
5.
6.
II.
1.
2.
3.
4.
III.



I.
II.

Lời nói đầu
Chương 1: TIỀM NĂNG VÀ VAI TRỊ CỦA MỐI QUAN
HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT
NAM - TRUNG QUỐC
Tiềm năng của mối quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam
- Trung Quốc
Về mặt chính trị
Về mối quan hệ giữa các ngành, các địa phương
Về việc giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ
Tiềm năng xuất phát từ hai bên
Lợi thế so sánh trong trao đổi hàng hóa qua biên giới Việt
Nam - Trung Quốc
Các hiệp định và thỏa thuận
Chương 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
Quan hệ thương mại
Những đặc điểm trong quan hệ thương mại Việt Nam Trung Quốc
Cơ sở phát triển thương mại Việt Nam - Trung Quốc
Diễn biến của trao đổi mậu dịch song phong
Tình hình bn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc
Những kết quả chủ yếu
Những vấn đề tồn tại
Quan hệ đầu tư
Hạng mục và cơ cấu đầu tư
Những đặc điểm trong quan hệ đầu tư Việt Nam - Trung Quốc
Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam
Viện trợ phát triển

Đánh giá tổng quát
Chương 3: TRIỂN VỌNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NHẰM THÚC ĐẨY QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
Triển vọng
Những giải pháp
Kết luận

1

Trang
1
2

2
2
3
3
4
7
8
14
14
14
18
19
21
26
30
30
31

31
35
36
38

38
39
42


LỜI NÓI ĐẦU

Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng núi sông liền một dải,
nhân dân hai nước vốn có tình hữu nghị truyền thống lâu đời, 50 năm trước đây,
ngày 18 tháng 1 năm 1950, Trung Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt
Nam, là một nước thiết lập quan hệ ngoại giao đầu tiên với Việt Nam. Nửa thế
kỷ qua, trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước của
Việt Nam cũng như trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của mỗi nước,
nhân dân hai nước đã kề vai sát cánh, nhường cơm sẻ áo, chia ngọt sẻ bùi. Đúng
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Mối tình thắm thiết Việt Hoa, vừa là đồng
chí, vừa là anh em". Sau một thời gian dài gián đoạn từ năm 1991, Việt Nam Trung Quốc chính thức bình thường hóa quan hệ, mở cửa biên giới cho nhân
dân và các doanh nghiệp hai nước thông thương. Đồng thời với sự phát triển
quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực đã nảy sinh nhiều vấn đề
buộc chúng ta cần phải nhìn nhận và đánh giá lại một cách đúng đắn hơn trong
tình hình mới.
Chúng tơi đã lựa chọn đề tài này với mục đích xem xét những tiềm năng
có thể khai thác được và vai trị của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đối với nền
kinh tế hai nước, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy triển vọng
của mối quan hệ này. Trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài tiểu luận, đề tài chỉ
giới hạn trong phạm vi nghiên cứu mối quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam

- Trung Quốc đặc biệt từ sau khi bình thường hóa quan hệ (1991).
Nội dung của tiểu luận sẽ gồm 3 chương:
Chương 1: Tiềm năng và vai trò của mối quan hệ kinh tế - thương mại
Việt Nam - Trung Quốc.
Chương 2: Thực trạng quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Trung
Quốc.
Chương 3: Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh
tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc.

2


Chương 1
TIỀM NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA MỐI QUAN HỆ
KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
I. TIỀM NĂNG CỦA MỐI QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT
NAM - TRUNG QUỐC

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng "núi liền núi, sông liền sơng".
Do điều kiện địa lý tự nhiên đó và một số nhân tố khác nữa, cho nên
ngay từ trước công nguyên giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có mối quan hệ
lịch sử và chính trị, giao lưu kinh tế và văn hóa với nhau. Cùng với thời gian,
mối quan hệ trên nhiều lĩnh vực đó khơng ngừng được duy trì củng cố và phát
triển. Chúng ta có thể tìm được khơng mấy khó khăn những ghi chép trong sử
cũ của cả Trung Quốc lẫn Việt Nam nói về giao lưu kinh tế và văn hóa giữa hai
nước trong thời kỳ cổ trung đại. Đến thời kỳ cận đại, mối quan hệ kinh tế đó
được mở rộng và phát triển thêm một bước. Đặc biệt, từ khi hai nước bình
thường hóa trở lại tháng 11/1991, mối quan hệ đó ngày một có những biểu hiện
tốt đẹp hơn.
Để duy trì và củng cố mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc,

chúng ta phải phân tích để thấy rõ tiềm năng của mối quan hệ này.
1. Về mặt chính trị
Việt Nam và Trung Quốc có nhiều nét tương đồng nổi bật- đó là: cùng
do Đảng Cộg sản lãnh đạo, đang xây dựng CNXH theo đặc điểm và tình hình
mỗi nước, đều xúc tiến công cuộc cải cách và đổi mới, thực hiện mở cửa với thế
giới. Từ những nét tương đồng đó, hai nước càng có điều kiện trao đổi và học
tập kinh nghiệm lẫn nhau trong xây dựng và phát triển đất nước. Đó là thuận lợi
cơ bản mà hai nước cần phát huy vì lợi ích mỗi dân tộc.
Hơn nữa, trong thời gian gần đây, các cồng chí lãnh đạo cấp cao thường
xuyên thăm viếng lẫn nhau. Tổng bí thư, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân, Thủ
tướng Lý Bằng, Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương chính trị Lý Thụy Hoàn, Ủy
viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Kiều
Thạch, đã lần lượt sang thăm Việt Nam. Các đồng chí ủy viên thường vụ Bộ
Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 7, khóa 8
cũng đã sang thăm Trung Quốc. Riêng kế từ năm 1998 đến nay, các đồng chí
lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam như Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Thủ
tướng Phan Văn Khải, ủy viên thường vụ, thường trực Bộ Chính trị Phan Thế
Duyệt và Phó thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng cũng đã lần lượt sang
thăm Trung Quốc. Về phía Trung Quốc, đồng chí ủy viên thường vụ Bộ Chính
trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào và
thủ tướng Chu Dung Cơ đã sang thăm Việt Nam. Các đồng chí lãnh đạo Đảng
và Nhà nước hai nước đã trao đổi ý kiến một cách sâu rộng về các vấn đề trọng
đại quan hệ song phương và đi đến nhiều nhận thức chung, đã phát huy tác
dụng hết sức to lớn đối với việc tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau,
thúc đẩy sự hợp tác hữu nghị cũng như giải quyết các vấn đề tồn tại giữa hai
nước do lịch sử để lại. Đặc biệt tháng 2 năm 1999 tại Bắc Kinh, Tổng bí thư

3



Giang Trạch Dân và Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã tiến hành cuộc gặp mang tính
chất lịch sử, hai bên công bố "Tuyên bố chung", cùng xác định khuôn khổ về
quan hệ hai Đảng, hai nước bằng 16 chữ vàng là láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, đánh dấu quan hệ Trung - Việt
đã bước sang một giai đoạn phát triển mới.
2. Về mối quan hệ giữa các ngành, các địa phương
Thời gian qua, các đồn đại biểu Đảng, chính quyền, bộ đội, đoàn thể
nhân dân cũng như các tỉnh, thành phố giữa hai nước đi lại nhộn nhịp, lĩnh vực
hợp tác không ngừng được mở rộng. Hàng năm đều có hơn 100 đồn chính
thức thăm viếng lẫn nhau. Theo thống kê chưa đầy đủ, riêng năm 1999, hai bên
đã trao đổi 146 đồn chính thức ở cấp bậc khác nhau, trong đó gần 80 đồn
thuộc cấp từ thứ trưởng trở lên. Bộ trưởng Quốc phòng hai nước và tổng tham
mưu trưởng, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị và Tổng cục Hậu cần cũng như các
tướng lĩnh lục, hải, không quân của quân đội hai nước đều thăm viếng lẫn nhau.
Sự trao đổi giữa các quân khu vùng biên giới hai nước cũng đã được từng bước
triển khai. Đến nay, bưu chính viễn thơng... đã tồn bộ được khai thơng. Hai
nước đã ký kết hơn 30 văn kiện hợp tác gồm các lĩnh vực kinh tế thương mại,
khoa học kỹ thuật, văn hóa giáo dục, giao thơng vận tải, lãnh sự, tư pháp, hải
quan, du lịch... Thủ đô Bắc Kinh đã kết nghĩa với thủ đô Hà Nội. Thành phố
Thượng Hải đã kết nghĩa với thành phố Hồ Chí Minh. Mười mấy tỉnh của Trung
Quốc như: tỉnh Hà Bắc, Giang Tô, Sơn Đông, Tứ Xuyên... và các tỉnh hữu quan
của Việt Nam đã cử đoàn thăm viếng lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm xây dựng
kinh tế và triển khai hợp tác kinh tế với các hình thức khác nhau. Chúng tôi
nghĩa rằng, Trung Quốc và Việt Nam đều đang thực hiện sự chuyển đổi từ kinh
tế kế hoạch sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cải cách
mở cửa của Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam có nhiều nét tương đồng và
tương tự về mục tiêu cũng như về cách là việc bước đi. Việc trao đổi kinh
nghiệm giữa hai nước trong nhiều lĩnh vực là điều rất cần thiết và bổ ích cho cả
hai bên, đã và sẽ góp phần quan trọng vào việc bổ sung cho nhau, cùng nhau
phát triển.

3. Về giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ
Nhờ sự quan tâm đích thân và chỉ đạo trực tiếp của các đồng chí lãnh
đạo cấp cao hai nước, đặc biệt là hai đồng chí Tổng Bí thư của hai Đảng, nhờ sự
cố gắng chung và hợp tác chặt chẽ giữa các chuyên gia hai nước trong vòng 8
năm, ngày 30 tháng 12 năm 1999, trước thềm năm mới và thiên niên kỷ mới,
thay mặt nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, đồng chí Bộ trưởng Ngoại giao Đường Gia Triền và đồng chí
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã chính thức
Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa hai nước. Đây là một sự kiện lớn có ý
nghĩa lịch sử. Sẽ tạo điều kiện thuận lợi để hai nước cùng nhau xây dựng đường
biên giới vĩnh viễn hịa bình, ổn định và hữu nghị. Thành cơng của cuộc đàm
phán biên giới trên đất liền đã tăng thêm sự tin cậy giữa hai bên, đồng thời cũng
đã cung cấp những kinh nghiệm bổ ích để hai bên giải quyết các vấn đề tồn tại
khác. Việc hai nước Trung - Việt giải quyết thỏa đáng các tranh chấp về biên

4


giới trên đất liền và ký Hiệp ước cũng góp phần tích cực vào việc củng cố hịa
bình, ổn định trong khu vực cũng như trên thế giới.
Năm nay, hai nước sẽ tập trung giải quyết vấn đề phân định vịnh Bắc
Bộ. Hai bên cho rằng, với tinh thần "Đại cục làm trọng, nhân nhượng lẫn nhau,
công bằng hợp lý về hiệp thương hữu nghị", tận dụng những kinh nghiệm bổ
ích rút ra từ cuộc đàm phán biên giới trên đất liền, nhất định sẽ hoàn toàn thành
nhiệm vụ mà hai đồng chí Tổng bí thư giao phó, đi đến một giải pháp thỏa đáng
mà hai bên đều có thể chấp nhận. Và quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước
nhất định được phát triển lành mạnh, tốt đẹp hơn.
4. Tiềm năng xuất phát từ hai bên
a. Từ phía Việt Nam
+ Vị trí địa lý

Việt Nam là một dải đất hình cong chữ S, chạy dọc phía đơng bán đảo
Đông Dương, vừa gắn liền với lục địa châu Á rộng lớn, vừa thơng ra Thái Bình
Dương bao la.
Việt Nam có biên giới đất liền dài 3.730km. Phía Bắc giáp nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa với chiều dài biên giới 1.150km. Phía Tây giáp với
Cộng hịa dân chủ nhân dân Lào trên chiều dài biên giới 1.650km và với vương
quốc Campuchia 930km. Phía đơng, phía nam và phía tây nam giáp biển. Qua
biển đông và vịnh Thái Lan là Cộng hòa Philipin, Cộng hòa Indonexia, Cộng
hòa Singapore, Cộng hịa Brunei và Liên bang Malaysia.
Lãnh thổ tồn vẹn của Việt Nam bao gồm diện tích đất liền 330.991km2
và vùng biển rộng bao la. Vùng lãnh hải Việt Nam rộng 12 hải lý và vùng đặc
quyền kinh tế rộng 200 hải lý với diện tích khoảng 1 triêụ km2.
Hơn nữa, Việt Nam lại nằm trong khu vực Đông Nam Á - vùng đang có
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới, có sức hấp dẫn lớn nhất trên thế
giới. Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc - một quốc gia có nền kinh tế đối
ngoại rất năng động, phong phú.
Thêm vào đó, chúng ta có chiều dài bờ biển 3.250km mà vận tải đường
biển hiện nay vẫn là một trong những hình thức vận tải chủ yếu nhất của thế
giới, tải trọng khoảng 80% khối lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của thế
giới. Những nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á cũng đều sử dụng vận
tải biển là chủ yếu. Đây là một lợi thế rất lớn của chúng ta so với Lào và
Campuchia và nhiều nước khác. Ngày nay, quá trình vận tải biển bằng container
có xu hướng phát triển lên càng cao làm cho q trình vận chuyển hàng hóa
ngoại thương tăng lên nhanh. Trong khi chúng ta có nhiều cảng biển như Sài
Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cửa Lò, Cần Thơ... Đồng thời ven biển, nhất là từ
Phan Thiết trở vào, có nhiều cảng nước sâu đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế để
tàu trở container có thể cập bến an tồn quanh năm. Singapore đã giàu lên, trở
thành "con rồng" châu Á là nhờ có lợi thế vào vị trí cảng biển.
Trên trục đường sắt, đường bộ chúng ta đã xây dựng lâu đời đi sang
châu Á qua Trung Quốc...

+ Tài nguyên thiên nhiên:

5


Cho đến nay Việt Nam chưa đánh giá hết được tiềm năng khống sản
của mình trên cả hai mặt: số lượng lại cũng như trữ lượng của từng loại. Căn cứ
vào kết quả điều tra địa chất cũng có thể khẳng định: Ít ra Việt Nam cũng là
quốc gia có tiềm năng khống sản cỡ trung bình thế giới.
- Dầu mỏ: dầu mỏ hiện nay là nguồn tài nguyên mang lại cho nước ta nhiều
hy vọng nhất, với số lượng khai thác hàng năm gia tăng, mang lại nhiều ngoại tệ,
năm 1999 vừa qua kim ngạch xuất khẩu dầu mỏ khoảng 2 tỷ USD.
Theo ước lượng ban đầu, trữ lượng dầu mỏ Việt Nam có thể đạt 3-4 tỷ
thùng và trữ lượng khí khoảng 50-70 tỷ m3. Dầu mỏ có thể được khai thác ở vịnh
Bắc Bộ, thềm lục địa khu vực Quảng Trị - Thừa Thiên và vùng thềm lục địa phía
nam...
- Tài ngun khống sản đứng thứ hai là than đá với trữ lượng khoảng
36 tỷ tấn và mức khai thác xấp xỉ 10 triệu tấn/năm thì với tài ngun đó cho
chúng ta khai thác cịn lâu mới hết.
- Khoáng sản kim loại: khoáng sản kim loại tương đối đa dạng. Quặng
sắt được phát hiện ở nhiều nơi nhưng chủ yếu tập trung vào 3 khu vực: Tây Bắc,
Đông Bắc và khu bốn cũ. Khu vực Tây Bắc gồm các mỏ dọc sông Hồng trữ
lượng 125 triệu tấn. Khu vực Đơng Bắc có 5 mỏ với tổng trữ lượng là 50 triệu
tấn. Khu bốn cũ đã tìm thấy sắt ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, trong
đó quan trọng nhất là mỏ Thạch Khê với trữ lượng dự báo 554 triệu tấn. Trong
số các khoáng sản kim loại màu, kim loại quý và hiếm trước hết phải kể đến
boxit. Việt Nam được đánh giá là một trong 6 quốc gia có trữ lượng bơxit lớn
nhất thế giới. Trữ lượng bôxit ở Tây Nguyên khoảng 6 tỷ tấn. Ngồi ra, chúng ta
cịn có hàng chục loại kháng sản kim loại quý như vàng, kẽm, thiếc, đồng, chì,
đám hiếm...

- Về đất đai: diện tích đất cả nước khoảng 330.991km2 trong đó có tới
50% là đất dùng vào nơng nghiệp và ngư nghiệp, cộng thêm khí hậu nhiệt đới
mưa nắng điều hịa cho phép chúng ta phát triển nơng sản và lâm sản xuất khẩu
có hiệu quả kinh tế cao như: gạo, cao su, các nông sản nhiệt đới. Giá đất, nhà
hiện nay tại Việt Nam đã tăng 4-10 lần so với 3-4 năm về trước. Tuy nhiên so
với ngoại quốc, 1 căn hộ 4 x 20m có lầu tại San fransico (Hoa Kỳ) khoảng 200.000
USD, tại Nhật Bản khoảng 500-700.000 USD thì cịn rất rẻ. Các nhà đầu tư nước
ngồi đến Việt Nam đã tìm được những mặt bằng với tiền thuê đất quá rẻ so với các
nước trên thế giới. Giá hàng nông sản rẻ như gạo xuất khẩu khoảng 180-200
USD/tấn, trong khi Nhật Bản đảm bảo cho nông dân họ là 500USD và Mỹ là 300
USD.
b. Từ phía Trung Quốc
Để đánh giá tiềm năng xuất phát từ phía Trung Quốc, ta hay xem xét sự
phát triển kinh tế của Trung Quốc và vị trí của nó trong nền kinh tế thế giới và
khu vực trong những năm gần đây:
Khi thế giới hiện đại đã bước vào thời kỳ công nghiệp và chuyển sang
thời kỳ hậu công nghiệp. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới thực hiện mở cửa
(từ cuối năm 1978), song đã đặt được kỳ tích, mức tăng trưởng kinh tế hàng
năm gần 10%, ngoại thương tăng trên 10% kéo dài liên tiếp hai thập kỷ vừa

6


qua. Đó là những mức tăng trưởng lớn hơn cả nước NIEs trước đây đã từng
làm thế giới kinh ngạc.
Trên cơ sở tiềm năng cho sự phát triển như tiềm lực thị trường to lớn;
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú; nguồn tài nguyên con người dồi dào;
giá đất đai thấp... và sự khởi sắc nhờ chính sách cải cách mở cửa của Trung
Quốc sẽ tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong vài thập kỷ nữa và
cùng với sự tăng trưởng này, địa vị của nó trong nền kinh tế thế giới và khu vực

sẽ có những thay đổi lớn.
Theo một số dự tính từ năm 1991 đến 2010 nếu Trung Quốc có thể duy
trì tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 8,25% thì GDP năm 2010 là 8600 tỷ
nguyên; đến năm 2000 dân Trung Quốc sẽ là 1,3 tỷ người, năm 2010 sẽ là 1,46
tỷ người, do vậy GDP tính teo đầu người sẽ là 6000 ngun. Dù tính theo
phương pháp PPP (bình quân sức mua) hay theo tỷ giá năm 1990 (1USD = 4,7
ngun) thì GDP của Trung Quốc lúc đó cũng đứng vào các nước hàng đầu thế
giới chỉ kém Mỹ và Nhật Bản.
Nếu từ 2010 đến 2020, kinh tế Trung Quốc duy trì được tốc độ tăng
trưởng bình quân hàng năm 6,8% thì GDP năm 2020 sẽ đạt 16.655,9 tỷ nguyên,
đứng hàng ba nước đứng đầu thế giới.
Hoặc theo cách tính của Kissinger ngoại trưởng Mỹ thì "Trung Quốc sẽ
xuất hiện với tư cách là một siêu cường non trẻ khi thu nhập bình quân đầu
người ở Trung Quốc đạt mức Hàn Quốc hiện nay, tổng sản phẩm quốc dân này
sẽ gấp hai lần Mỹ...".
Cùng với sự tăng trưởng nhanh, kết cấu kinh tế Trung Quốc từ 1996
đến 2010 sẽ có những biến đổi lớn. Nổi bật là sự phát triển nhanh của công
nghiệp, đặc biệt là ngành chế tạo, tiếp đến là các ngành công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng, cơng nghiệp hóa nặng. Tiến trình cơng nghiệp hóa, thị trường
hóa mạnh mẽ sẽ dẫn đến sự tăng tiến liên tục tỷ trọng của khu vực dịch vụ.
Điều có thể thấy là Trung Quốc sẽ tiếp tục chính sách mở cửa, mối liên
hệ giữa Trung Quốc với thế giới và khu vực sẽ ngày càng mật thiết. Nhiều dự án
cho rằng tốc độ bình quân hàng năm của ngoại thương sẽ tiếp tục cao ngang tốc
độ tăng GNP, dự kiến đến năm 2010 quy mô xuất khẩu sẽ đạt khoảng 400 tỷ
USD. Cơ cấu hàng xuất khẩu sẽ có những thay đổi lớn, chuyển từ các mặt hàng
giá trị gia tăng thấp sang các mặt hàng giá trị gia tăng cao, hàm lượng khoa học
công nghệ cao là chủ yếu vào năm 2010.
Chính sách quan trọng của Trung Quốc trong thời gian qua là tích cực
thu hút đầu tư nước ngoài. Thời kỳ từ 1980 đến 1994 Trung Quốc đã thu hút
được 200 tỷ USD vốn nước ngoài, trong đó khoảng một nửa là tiền vay và một

nửa là FDI. Dự kiến thời gian tới vẫn tiếp tục thu hút vốn nước ngồi song có sự
điều chỉnh nhất định về hướng đầu tư.
Quy mô của nền kinh tế Trung Quốc trong thế kỷ tới càng hùng vĩ hơn
khi ta xem xét Hồng Kông, Ma Cao trở về Trung Quốc, và quan hệ kinh tế mật
thiết giữa Trung Quốc và Đài Loan trong chiến lược "một quốc gia hai chế độ".
Trên mọi phương diện đều cho thấy hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương đã khơng thể thiếu sự tham gia của Trung Quốc. Trước hết, dân số

7


Trung Quốc chiếm gần 70% dân số khu vực này, GDP đứng thứ ba, chỉ sau Mỹ,
Nhật Bản, xuất khẩu đứng thứ tư sau Mỹ, Nhật Bản, Canada. Mặt khác, 70%
ngoại thương Trung Quốc được thực hiện với các nước châu Á - Thái Bình
Dương. Phần lớn các bạn hàng quan trọng của Trung Quốc đều là các nước
châu Á - Thái Bình Dương. Trong gần 100 tỷ USD FDI đổ vào Trung Quốc thời
gian qua từ hơn 60% đến từ các nước châu Á - Thái Bình Dương. Thứ hai, ưu
thế nổi bật của thị trường Trung Quốc với các bạn hàng châu Á -Thái Bình
Dương là khả năng bổ sung cho nhau về các mặt tài nguyên, nhân lực, tiền vốn
kỹ thuật để cùng phát triển. Trong hợp tác, mọi phía đều phát huy được lợi thế
so sánh của mình trong thời gian tương đối dài, do đó đều có thể trở thành bạn
hàng chiến lược của nhau. Ba là, cùng với sự đẩy mạnh thu hút vốn nước ngồi
và sự phát triển nhanh các xí nghiệp "ba nguồn vốn" tỷ trọng xuất khẩu của xí
nghiệp "ba nguồn vốn" trong tổng ngạch xuất khẩu của Trung Quốc đã chiếm
gần một nửa. Điều này cho thấy kinh tế Trung Quốc đã cuốn sâu vào phân công
lao động quốc tế. Sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế ở các nước châu Á
-Thái Bình Dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển dịch nâng
cấp kết cấu kinh tế ở Trung Quốc, mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa Trung
Quốc với các nước châu Á - Thái Bình Dương ngày càng chặt chẽ. Nó phản ánh
một hiện thực khách quan là Trung Quốc cần các nước châu Á - Thái Bình

Dương và các nước châu Á - Thái Bình Dương cũng cần Trung Quốc.
5. Lợi thế so sánh trong trao đổi hàng hóa qua biên giới Việt - Trung
Buôn bán qua biên giới Việt - Trung từ chỗ chỉ chiếm 2% tổng buông
bán của Việt Nam, năm 1990 đã tăng lên 4%, đến năm 1991 - 1999 thì chừng 67%. Vậy bn bán qua biên giới cũng giữ một tỷ trọng khá lớn trong tổng bn
bán của Việt Nam. Do đó để phát triển quan hệ thương mại - kinh tế giữa Việt
Nam - Trung Quốc, ta cần xem xét đén những lợi thế so sánh có thể khai thác
trong quan hệ thương mại.
Phải khẳng định rằng, tiềm năng trao đổi hàng hóa qua biên giới Việt Trung mà chúng ta phải tính của khai thác cịn rất lớn.
Việt Nam hồn tồn có thể tăng cường xuất khẩu hàng hóa sang Trung
Quốc. Chẳng hạn, qua Hội chợ thương mại Quốc tế Móng Cái lần thứ nhất
(ngày 16-20/1/1997) đã cho thấy thêm mặt hàng mạnh của Việt Nam (so với
hàng Trung Quốc) như các sản phẩm của Cơng ty Xn Hịa, Nhà máy đồ hộp
Hạ Long, Công ty Mỹ nghệ Vân Hà (Đông Anh - Hà Nội), Công ty mỹ nghệ
Trường Sơn (Từ Sơn - Bắc Ninh)... Ở đây chỉ xin chỉ đi sâu vào mặt hàng máy móc
thiết bị mà hiện nay chúng mới chỉ chiếm 1% tổng lượng hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam. Khả năng mở rộng xuất khẩu máy móc thiết bị sang Trung Quốc thể hiện
ở chỗ:
- Theo báo cáo của Tổng Công ty động lực và máy nông nghiệp, mặt
hàng cơ khí của ta đã bắt đầu xuất khẩu sang các nước Indonesia, Đài Loan,
Hồng Kơng... Ví dụ: xuất 200 bộ máy xát gạo cho Indonesia và Miến Điện,
40.000 bộ ru lo xát gạo cho Yanma, 50 mẫu máy càng tay hai bánh với cỡ công
suất 6, 10, 5, 13 và 15 mã lực sang ASEAN.

8


- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi ngày càng có vai trị trong
hoạt động xuất khẩu. Hồn tồn có thể hy vọng rằng khu vực này sẽ chinh phục
được thị trường Trung Quốc.
- Thực tế Trung Quốc có nhu cầu lớn về nhập khẩu máy móc, thiết bị từ

bên ngoài. Chẳng hạn trong số 185 tỷ USD nhập khẩu năm 1994, tỷ trọng máy
móc thiết bị chiếm 16%, thiết bị vận tải chiếm 6%.
- Biên giới Việt - Trung dài 1150 km chạy qua 156 xã thuộc 31 huyện
của 6 tính phía Bắc Việt Nam, trong đó có những vị trí có địa lý kinh tế lợi hại
trong quan hệ thương mại với Trung Quốc. Lào Cai là một điển hình. Vùng Tây
Nam Trung Quốc rất rộng lớn, khả năng xuất khẩu cũng rất lớn, nhưng lại ở xa
các cửa biển của Trung Quốc. Nếu nhập khẩu qua cửa khẩu Lào Cai, đường
biển chỉ còn 600 km, rút ngắn độ dài giao thông gấp 4-5 lần. Như vậy, Lào Cai
có thể trở thành đầu cầu cho vùng Tây - Nam vươn ra biển, và do đó, là đầu mối
lý tưởng tái xuất hàng của các nước qua Việt Nam và Trung Quốc. (Đương
nhiên ưu thế này đã bị mờ nhạt bởi Hiệp định quá cảnh Việt - Trung ký ngày 94-1994 tại Hà Nội: cho phép hàng hóa của CHND Trung Hoa đưa về từ nước thứ
ba được qua lãnh thổ Việt Nam, qua các cửa khẩu Hữu Nghị, Đồng Đăng, Lào Cai,
Móng Cái).
- Hiện tại lực lượng tham gia quan hệ với Việt Nam của phía Trung
Quốc cịn khá hạn hẹp. Đó là chủ yếu là các cơng ty cấp tỉnh, huyện của các tỉnh
phía Nam như Quảng Tây, Vân Nam, Hải Nam... và thêm một số tỉnh như
Quảng Tây, Tứ Xuyên... Số công ty thuộc Bộ kinh tế mậu dịch Trung Quốc
quản lý tham gia rất ít.
Mặt khác, các tỉnh giáp Việt Nam tuy có diện tích lớn (gần bằng diện
tích Việt Nam), dân số đông (gấp 2,5 lần dân số Việt Nam), nhưng cũng là vùng
kinh tế chậm phát triển. Sản xuất công nghiệp chỉ dồi dào ở phần giáp biển Thái
Bình Dương của tỉnh Quảng Đông, tuy nhiên, cả chất lượng và số lượng đều
thua kém công nghiệp trung ương.
Như vậy, nếu mở rộng và tiến sâu vào quan hệ với lục địa của Trung
Quốc, Việt Nam sẽ còn phát huy hơn nữa lợi thế của mình và khai thác hơn nữa
lợi thế của Trung Quốc.
6. Các hiệp định và thỏa thuận
Từ sau khi quan hệ chính trị Việt Nam - Trung Quốc được bình thường
hóa (tháng 11/1991), nhất là từ sau khi hai nước ký kết với nhau một số hiệp
định về quan hệ biên giới hai nước, về trao đổi thương mại và hợp tác - kỹ thuật

giữa hai nước như: Hiệp định mậu dịch giữa hai nước, Hiệp định tạm thời giải
quyết công việc vùng biên giới, Hiệp định hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung
Quốc, Hiệp định về giao thông vận tải giữa hai nước (đường bộ, hàng khơng,
hàng hải, đường sắt), Hiệp định khuyến khích và đảm bảo đầu tư, Hiệp định
hợp tác kinh tế - kỹ thuật Việt Nam - Trung Quốc, Hiệp định biên giới trên đất
liền... thì mối quan hệ hợp tác kinh tế, trao đổi thương mại giữa hai nước Việt Trung được mở ra dựa trên cơ sở pháp lý về quy mô và nâng cao về chất lượng.
Dưới đây là một số hiệp định liên quan đến quan hệ kinh tế - thương mại:
1. Hiệp định thương mại

9


Ký ngày 7/12/1991 tại Bắc Kinh. Hiệp định quy định hai bên buôn bán
theo tập quán quốc tế, chỉ áp dụng tối huệ quốc trong hai lĩnh vực thuế hải quan
và thủ tục hải quan, việc buôn bán thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa các công
ty và các thực thể kinh tế có quyền kinh doanh xuất nhập khẩu (phía Việt Nam:
do Bộ thương mại cấp giấy kinh doanh xuất nhập khẩu. Phía Trung Quốc: do
Bộ kinh tế và mậu dịch đối ngoại Trung Quốc báo cho Việt Nam biết và thường
xun nhắc lại. Chỉ có các cơng ty do Bộ này cấp quyền kinh doanh xuất nhập
khẩu mới có tư cách ký hợp đồng xuất nhập khẩu đối ngoại), hợp đồng ký kết
theo tập quán quốc tế, trên cơ sở quốc tế, thanh toán bằng đồng tiền tự do
chuyển đổi qua ngân hàng, ngồi bn bán dùng tiền có thể dùng các dạng
bn bán khác (ví dụ hàng đổi hàng...) nhưng vẫn phải thanh toán qua ngân
hàng.
Hoạt động tiếp xúc mậu dịch (triển lãm, quảng cáo...) bên này tiến hành
trên đất bên kia phải do các cơ quan chun trách về xúc tiến mậu dịch thực
hiện.
Ngồi bn bán xuất nhập khẩu cịn bn bán dân gian với nội dung
trao đổi hàng hóa theo truyền thống giữa các cư dân thường trú ở khu vực biên
giới hai bên, khơng mang tính chất kinh doanh, mua bán kiếm lời.

2. Hiệp định hợp tác kinh tế
Hiệp định này ký ngày 14/2/1992 quy định những nguyên tắc chung
nhất cho hợp tác kinh tế giữa hai bên trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, tơn
trọng luật pháp hai nước, luật đầu tư nước ngồi của mỗi bên,quy định các hình
thức hợp tác như liên doanh, đầu tư, thầu cơng trình...
3. Hiệp định tạm thời giải quyết các công việc trên vùng biên giới
Ký ngày 7/12/1991 tại Bắc Kinh. Hiệp định quy định về cửa khẩu cho
hàng qua lại, trong 21 cặp cửa khẩu chỉ có 7 cửa khẩu quốc gia. Trong 7 cửa
khẩu quốc gia, chỉ có 4 cửa khẩu quốc tế là: (Hữu Nghị - Hữu Nghị Quan, Lào
Cai - Hà Khẩu, Đồng Đăng - Bằng Tường, Móng Cái - Đơng Hưng) trong đó
Đồng Đăng - Bằng Tường là cửa khẩu đường sắt. Hàng hóa xuất nhập khẩu của
các nước thứ 3 chỉ được qua 4 cửa khẩu này, không được qua các cửa khẩu
khác.
4. Hiệp định hàng hải
Ký ngày 8/3/1992 tại Bắc Kinh. Hiệp định hàng hải quy định các
nguyên tắc về hợp tác hai bên trong lĩnh vực hàng hải, trong đó có: hai bên cho
phép tàu của nước kia vào làm hàng tại các cảng của nước mình như các tầu cá
nước khác, theo đúng quy định hiện hành về hàng hải của mình.
5. Hiệp định về q cảnh hàng hóa
Mới ký tắt 12/1993 chưa ký chính thức. Tại hiệp định này hai bên thỏa
thuận đồng ý cho hàng của bên kia được quá cảnh qua đất mình.
Ngồi ra, cịn có các hiệp định như:
+ Hiệp định về thanh toán ngân hàng ký 5/1993.
+ Hiệp định về hàng không 5/3/1992.
+ Thỏa thuận phối hợp kiểm tra chất lượng hàng hóa xuất nhập khẩu ký
cuối năm 1992.

10



+ Biên bản hội đàm giữa hai đoàn chuyên viên thương mại hai nước
(7/1993). Biên bản này xác nhận có tình hình bn bán lộn xộn ở biên giới mà
cả hai bên đều không quản lý được và khẳng định cần phải thúc đẩy buôn bán
hai nước theo đúng các quy định của hiệp định thương mại đã ký 11/1991.
+ Biên bản hội đàm giữa hai đoàn chuyên viên về thi hành Hiệp định
tạm thời giải quyết các công việc trên vùng biên giới (1/1994). Về thương mại,
biên bản này xác nhận việc buôn bán của hai bên cần phải được thực hiện theo
đúng các quy định của hiệp định thương mại đã ký 11/1991.
+ Thỏa thuận về hỗ trợ và hợp tác và thỏa thuận về hợp tá chống bn
lậu giữa hải quan hai nước (11/1993).
II. VAI TRỊ CỦA MỐI QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRUNG QUỐC

1. Đối với Trung Quốc
Xuất phát từ bối cảnh gần, Trung Quốc có thể sử dụng thị trường Việt
Nam để giải quyết một phần khó khăn kinh tế - thương mại kỹ thuật của mình
bao gồm:
- Tiêu thụ hàng hóa kỹ thuật và chất lượng thấp và trung bình sang Việt
Nam, một thị trường lớn gần 80 triệu người và ở gần. Các hàng ấy chủ yếu là
các hàng Trung Quốc đang tồn đọng (vật liệu xây dựng, sắt thép thơng thường,
hóa chất, máy và thiết bị truyền thống chủ yếu là máy động lực cỡ nhỏ, máy
nông nghiệp, thiết bị phụ tùng lẻ... và các hàng tiêu dùng).
- Sau khi khôi phục giao lưu buôn bán với Việt Nam, Trung Quốc có
thể phát triển được khu vực Tây Nam rộng lớn bao gồm các tỉnh Tứ Xuyên, Quý
Châu, Tây Tạng, Vân Nam, Quảng Tây.
Trước hết, ta hãy xem xét tình trạng của các tỉnh này:
Vân Nam và Quảng Tây là những vùng xa trung tâm và xa biển (Vân
Nam khơng tiếp giáp với biển), trình độ phát triển sản xuất, khoa học kỹ thuật
và mức độ thâm nhập của cải tổ kinh tế tương đối thấp. Do đường vận tải khơng
thuận lợi, Chính phủ trung ương Trung Quốc gặp khó khăn trong việc bảo trợ
tích cực cho sự phát triển của hai khu vựcnày.

* Hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây đang gặp khó khăn kinh tế sau đây:
+ Theo đường lối tự lực cánh sinh, hai tỉnh này phát triển tồn diện các
ngành sản xuất cơng nghiệp. Nhưng trình độ kỹ thuật cịn thấp, nên sản phẩm
cơng nghiệp của họ không đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Họ
gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm này, để thu hồi vốn và để đầu tư kỹ thuật
mới. Các sản phẩm tương đối thấp này đang bị ứ thừa, gây trở ngại to lớn cho nền
kinh tế. Trong đó một số sản phẩm thừa ứ tới mức nghiêm trọng như hóa chất.
+ Lương thực và năng lượng nhìn chung bị thiếu hụt
+ Thiếu một số sản phẩm cần thiết: cao su đối với Quảng Tây (Vân
Nam còn trồng được cao su), thủy sản, lương thực, thịt gia súc đối với Quảng
Tây.
Nhưng nhìn chung, đối với hai tỉnh này khó khăn chủ yếu là thị trường tiêu
thụ hàng chế tạo, hàng công nghiệp nặng và hàng công nghiệp nhẹ.

11


* Hải Nam là vùng giáp biển, kinh tế đối ngoại, đầu tư nước ngoài rất
phát triển. Tuy nhiên bị thiếu nguyên liệu và thiếu thị trường tiêu thụ một số sản
phẩm cơng nghiệp truyền thống chất lượng trung bình và các sản phẩm công
nghiệp nhẹ.
Do vậy, từ khi thiết lập lại quan hệ Việt-Trung, Trung Quốc đã mở được
đường thông thương cho các tỉnh này đi ra biển Đông và các nước Đơng Nam
Á. Hai tỉnh có biên giới chung với Việt Nam là Vân Nam và Quảng Tây, kinh tế
đều đã được cải thiện sau khi mở cửa với Việt Nam. Đặc biệt rõ rệt là tỉnh
Quảng Tây, nơi 80% kim ngạch thực hiện với Việt Nam là biên mậu, vốn là tỉnh
miền núi ở biên giới phía Nam Trung Quốc, kinh tế chưa phát triển, thấp kém
và lạc hậu nhiều so với các tỉnh khác trong nội địa, mười năm lại đây kinh tế đã
phát đạt lên, nhiều tiềm năng kinh tế được khơi dậy, khơng cịn là đối tượng trợ
cấp của nhà nước nữa. Các cửa khẩu của Quảng Tây chất đầy hàng hóa để xuất

đi Việt Nam, khơng những của bản tỉnh, mà cịn của các tỉnh khác trở đến, do
đó đây cịn là các trạm chuyển. Các xí nghiệp hương trấn của Quảng Tây và của
một số tỉnh nội địa làm ăn trở nên khấm khá nhờ thị trường mới là Việt Nam.
- Sử dụng Việt Nam làm đường biển cho các tỉnh Nam và Tây Nam
Trung Quốc, chủ yếu là vùng Vân nam và Tây Nam Trung Quốc ở xa biển (như
đã nhắc ở trên), lại có dãy Thập Vạn Đại Sơn gây trở ngại lớn cho đường giao
thông. Người Pháp trước đây khi bắt đầu chiếm Việt Nam đã thiết lập ngay
đường sắt Vân Nam - Lào Cai - Hải Phòng. Nhu cầu vận chuyển hàng hóa quá
cảnh của Vân Nam sang đất Việt Nam theo phía Trung Quốc ước tính có thể lên
tới vài trăm triệu tấn/năm, có hiệu quả kinh tế cao cho Vân Nam, không chỉ là
hiệu quả trực tiếp mà cả hiệu quả phát triển lâu dài nhờ thông ra thế giới bằng
con đường thuận tiện (trong nhiều năm vùng Vân Nam phải thông qua Mianma
để ra Ấn Độ Dương không thuận lợi như đường Lào Cai - Hải Phòng).
- Lấy các nguyên liệu cần thiết cho sản xuất các địa phương Trung Quốc
(quặng các loại, than đá, cao su, dầu thực vật, đay...). Với số lượng có mức độ,
tùy theo yêu cầu của các tỉnh và các nguyên liệu dùng cho công nghiệp Trung
ương (dầu mỏ, than, điện năng, đất hiếm...). Ngồi ra, cịn có thể dùng Việt
Nam để cung cấp lương thực, hải sản, thịt và súc vật sống cho vùng Tây Nam
(chủ yếu là Vân Nam) để giúp giải quyết khó khăn về cung ứng và vận chuyển
(tỉnh Vân Nam để lộ nhu cầu muốn mua mỗi năm tới 4 triệu tấn lúa gạo của
Việt Nam).
2. Đối với Việt Nam
- Việc phát triển quan hệ kinh tế thương mại với Trung Quốc chẳng
những phù hợp với đường lối đối ngoại "là bạn với tất cả các nước", mà còn
phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của đất nước; Việt Nam chú trọng mối
quan hệ với các nước láng giềng nhằm tạo ra môi trường xung quanh hịa bình
ổn định, góp phần giữ vững an ninh của đất nước và tạo điều kiện thuận lợi cho
công cuộc đổi mới được tiến hành thuận lợi.
- Việt Nam lập lại quan hệ buôn bán với Trung Quốc trong bối cảnh
kinh tế - xã hội gặp khó khăn nặng nề. Quan hệ với các bạn hàng truyền thống

và Liên Xô và các nước Đông Âu gần như bị gián đoạn. Hàng hóa bị thiếu thốn
nghiêm trọng. Việc mở cửa bn bán với nước láng giềng phía Bắc giống như

12


khai thơng dịng chạy bị tắc, mà phía cao là hàng hóa phong phú của nước
Trung Quốc đã trải qua 10 cải cách, ào xuống chỗ trũng bên dưới là nước Việt
Nam đang thiếu hàng hóa. Bn bán với Trung Quốc nhanh chóng thể hiện tác
dụng tích cực, đặc biệt ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam. Vùng núi biên
giới vốn là điểm đáy của Việt Nam về nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế
so với nhiều nước và khu vực trên thế giới, ngày nay đã bớt đói nghèo và hoang
vắng. Khơng ít nơi biết tự phát hiện sức mạnh tiềm tàng, nắm được thời cơ, chủ
động tìm lợi thế để phát triển qua con đường buôn bán với Trung Quốc. Nhiều
tỉnh biên giới trước đây phải nhận trợ cấp từ ngân sách Trung ương, song chỉ
sau mấy năm mở cửa giao lưu với Trung Quốc, đã phong lưu hẳn lên, khơng
những có đóng góp cho ngân sách Trung ương, mà cịn có thêm vốn đầu tư cho
xã hội cơ sở hạ tầng; đường xá, phố phường tại các thị trấn cửa khẩu đều to đẹp
đàng hoàng hơn trước. Các thị xã, thị trấn như Móng Cái, Đồng Đăng, Lạng
Sơn hầu như bị phá hủy hoàn toàn trong chiến tranh biên giới, chỉ mấy năm sau
đã xây dựng lại, trở thành những trung tâm bn bán sầm uất, những nơi trung
chuyển hàng hóa quốc tế quan trọng giữa Việt Nam và Trung Quốc. Về đời
sống, đa số người dân Việt Nam đều cảm nhận được sự thoải mái, nhẹ nhõm vì
có thể mua được nhiều loại hàng tiêu dùng phong phú, mới mẻ, hợp túi tiền.
Một bộ phận đáng kể ở các tỉnh biên giới thốt khỏi nghèo đói, do có thêm việc
làm, tăng thu nhập nhờ sản xuất, buôn bán, vận chuyển hàng hóa qua biên giới.
Nhờ bn bán với Trung Quốc, phía Việt Nam đã tăng đáng kể kim ngạch xuất
nhập khẩu, nhất là các tỉnh ven biển, đã bán được những hàng mà trước đây
không bán cho ai, mua được những mặt hàng hợp nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng. Trong cuộc cạnh tranh với hàng Trung Quốc để sống còn, nhiều sản

phẩm của Việt Nam đã nâng cao được chất lượng, nhanh nhạy, và am hiểu hơn
trong quản lý kinh doanh nhờ giao tiếp và vật lộn với giới bạn hàng của nước
bạn đã tôi luyện trong cơ chế thị trường trước ta 10 năm.
- Đối với Trung ương và tỉnh:
+ Tăng nguồn thu ngân sách cho Trung ương và địa phương. Thơng qua
việc trao đổi hàng hóa, các đơn vị, doanh nghiệp đã đóng góp một phần đáng kể
vào ngân sách Trung ương và địa phương qua các khoản nộp thuế. Từ đó,
Trung ương và địa phương có điều kiện đầu tư cho xây dựng các hạ tầng, giao
thông, bến, bãi, hệ thống điện, thơng tin, các cơng trình phục vụ công cộng ở
địa phương, vùng sâu, vùng biên giới tạo điều kiện thuận lợi để tăng nhịp độ
trao đổi mậu dịch giữa hai bên.
+ Bổ sung nguồn hàng hóa nguyên liệu trong nước chưa sản xuất được
hoặc sản xuất không đủ, tạo ra thế cạnh tranh cần thiết giữa hàng nội và hàng
ngoại, từ đó kích thích sản xuất trong nước hướng theo nhu cầu thị trường và
nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Cho đến nay
các ngành sản xuất xe đạp, quạt máy, xà phòng, sứ vệ sinh của Việt Nam đã lấy
lại được uy tín.
+ Tạo sự chuyển biến rõ rệt trong việc tạo nguồn hàng xuất khẩu từ chỗ
thu gom sang đầu tư tạo nguồn hàng xuất khẩu ổn định, có hiệu quả kinh tế.
Cùng với kim ngạch xuất khẩu và cơ cấu hàng xuất khẩu tăng nhanh, nhiều địa
phương, nhiều ngành đã quan tâm đến nguồn hàng đầu tư tạo ra nguồn hàng

13


vững chắc như các vùng chuyên canh trồng cây ăn quả, vùng nuôi trồng thủy
sản, tôm, lươn, ba ba, rắn... vùng trồng cây dược liệu và sản xuất tinh dầu...
+ Xuất khẩu được một khối lượng lớn nguồn hàng mà ta đang gặp khó
khăn về thị trường và bạn có nhu cầu, đồng thời không quá khắt khe trong quy
cách chất lượng. Có thể nói giai đoạn 1991-1994, thơng qua mậu dịch biên giới

ta đã xuất được một lượng nguyên vật liệu với phẩm cấp khó cạnh tranh trên thị
trường quốc tế như: than đá, cao su, các loại dầu ăn thực vật, hoa quả nhiệt đới,
dược liệu...
+ Mở ra ngành du lịch vùng biên từ đó mở rộng các tuyến du lịch trong
nước, góp phần thu hút khách du lịch sang Việt Nam, tăng cường giao lưu văn
hóa giữa hai nước.
- Việt Nam có thể tiếp tục tăng cường tranh thủ cơng nghệ của Trung Quốc:
+ Trình độ sản xuất của Trung Quốc ở một số ngành đã phát triển. Công
nghiệp Trung ương đã sản xuất nhiều mặt hàng có chất lượng tương đương tiêu
chuẩn quốc tế.
+ Trong các mặt hàng xuất khẩu chính của Trung Quốc nói chung, đã
có mặt hàng thiết bị máy móc với tỷ trọng 3%.
Hiện nay đang có khá nhiều các cơng ty Việt Nam trơng chờ vào máy
móc, thiết bị của Trung Quốc. Cơng ty cơ khí Thái Bình đang tiến hành sản xuất
loại máy kéo 2 bánh có cơng suất 8-12 mã lực, sẽ nhập động cơ và hộp số của
các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Bắc, với số lượng 1000 máy/năm. Tổng
Công ty động lực và máy nông nghiệp Việt Nam đang sản xuất thử loại động lực
và máy nông nghiệp Việt Nam đang sản xuất thử loại động cơ nhãn Đông
Phong (Trung Quốc sản xuất theo mẫu động cơ Kybota Nhật) 4 xy lanh, công
suất 20 mã lực, với số lượng hàng ngàn chiếc một năm. Nhà máy cơ khí Đồng
Tháp đang tiến hành sản xuất thử loại máy gặt đập liên hợp cỡ nhỏ cũng cần
nhập động cơ công suất khoảng 20-25 mã lực của Trung Quốc. Công nghiệp
chế biến đường mía của Việt Nam trong khoảng nhiều năm nữa vẫn phải nhập
một số biết thị đặc trưng, có trình độ chính xác cao của Trung Quốc như hệ ly
tâm liên tục và gián đoạn, hệ nồi hơi và máy phát điện. Các nhà máy sản xuất xi
măng lị đứng trong tương lai khơng cần nhập thiết bị toàn bộ của Trung Quốc,
nhưng một số thiết bị như: máy nghiền, lò nung, lọc bụi tĩnh điện... vẫn phải
nhập của Trung Quốc nhằm sửa chữa, thay thế các nhà máy hiện có. Các loại
phụ tùng đặc chủng phục vụ cho ngành xây dựng, y tế, và một số ngành khác
vẫn phải tiếp tục nhập khẩu từ Trung Quốc.


14


Chương 2
THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
Quan hệ kinh tế - thương mại hai nước dần dần được khôi phục và phát
triển từ cuối thập niên. Sau khi hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ
ngoại giao 1991 đến nay, quan hệ kinh tế - thương mại phát triển mạnh mẽ hơn
bất cứ thời gian nào trước đây.
I. QUAN HỆ THƯƠNG MẠI

1. Những đặc điểm trong quan hệ thương mại Việt -Trung
a. Phát triển nhanh nhưng tốc độ tăng có giảm đi
Từ 1991 đến nay, kim ngạch thương mại chính ngạch giữa Việt Nam và Trung
Quốc đa tăng 50 lần, từ 32 triệu đô laMỹ lên đến hơn 1,5 tỷ đô la Mỹ (năm 1998).
Bảng 1: Thương mại chính ngạch Việt - Trung 1991 - 1998
(triệu đơ la Mỹ)
Năm

Thương mại chính ngạch

Tỷ lệ tăng (%)

1991

32,23

340,0


1992

179,07

454,4

1993

398,64

122,6

1994

532,82

34,1

1995

1052,19

97,4

1996

1150,63

9,3


1997

1435,64

24,6

1998

1560,00

8,7

Nhìn vào bảng thống kê chúng ta thấy giá trị tuyệt đối tăng mạnh,
nhưng tốc độ tăng không đều trong tất cả các năm. Trong những năm đầu thập
kỷ 90 kim ngạch giữa hai nước phát triển mạnh tuy có chậm lại trong những
năm sau này, nhưng nhìn chung tất cả các năm đều tăng với tốc độ cao. Sở dĩ có
tình trạng như vậy là do:
Một là, nhu cầu hàng hóa của hai nước chính là cơ sở để phát triển
thương mại hai nước phát triển. Trong những năm đầu thập kỷ 90 nền kinh tế
Việt Nam cịn gặp phải nhiều khó khăn, hàng tiêu dùng sản xuất trong nước
chưa đáp ứng được hết nhu cầu của người dân. Trong bối cảnh đó, hàng hóa
tiêu dùng của Trung Quốc đã đáp ứng được nhu cầu của Việt Nam. Về phía
Trung Quốc, sau hơn một thập kỷ tiến hành cải cách mở cửa, bước vào thập kỷ
90 nền kinh tế phát triển mạnh mẽ với tổng giá trị hàng hóa ngày càng tăng, đời
sống nhân dân ngày một cải thiện. Để phục vụ công cuộc phát triển kinh tế,
Trung Quốc cịn nhiều ngun liệu và hàng nơng sản. Những mặt hàng này lại

15



là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Việc mở các điểm buôn bán biên giới
trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, nhất là việc hai nước chính
thức khơi phục quan hệ ngoại giao đã tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại hai
nước phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu của cả hai bên về những mặt hàng tiêu dùng
và nguyên vật liệu.
Hai là, ngồi bn bán hàng tiêu dùng và ngun vật liệu, hai bên đã
tiến hành các loại máy móc dùng cho sản xuất. Dĩ nhiên, q trình mua bán máy
móc diễn ra dài hơn, thông qua nhiều khâu đoạn hơn, do đó làm chậm lại tốc độ
tăng trưởng ngoại thương giữa hai bên.
Ba là, hai bên đã ký kết nhiều hiệp định, tạo điều kiện pháp lý cho
thương mại hai nước phát triển. Dựa trên các hiệp định đó, hai bên khuyến
khích các doanh nghiệp tăng cường quan hệ trực tiếp thơng qua các chuyến
khảo sát, tìm hiểu thị trường và hội chợ triển lãm.
Bốn là, hai nước áp dụng nhiều biện pháp và nhiều kênh trao đổi hàng
hóa. Các biện pháp hiện đang được áp dụng là: thương mại thông thường, gia
công, hàng đổi hàng, cung cấp thiết bị thanh toán bằng sản phẩm... Trao đổi
thương mại được thực hiện thông qua nhiều kênh khác nhau: trao đổi của các cư
dân biên giới, xuất nhập khẩu chính ngạch và tiểu ngạch, dịch vụ chuyển khẩu,
kho ngoại quan.
Năm là, việc mua bán hàng hóa giữa các tổng cơng ty hoặc tập đồn lớn
giữa hai nước ngày càng tăng, góp phần đáng kể vào việc gia tăng thương mại
giữa hai nước.
b. Cơ cấu hàng hóa vừa có tính chất bổ sung cho nhau vừa có tính
cạnh tranh nhau.
Việt Nam xuất sang Trung Quốc 4 nhóm hàng chủ yếu:
- Nhóm A: nguồn nhiên liệu gồm: than đá, dầu thơ, quặng sắt cromít,
dược liệu, các loại tinh dầu, cao su thiên nhiên.
- Nhóm B: lương thực, nông sản, rau quả, sắn lát, các loại đỗ, hoa quả
nhiệt đới, dứa quả, chuối, chơm chơm, xồi...

- Nhóm C: thủy hải sản: thủy sản tươi sống, đơng lạnh, động vật ni:
rắn, ba ba, rùa.
- Nhóm D: hàng tiêu dùng; đồ gỗ gia dụng cao cấp, giầy dép, xà phòng.
Trung Quốc xuất sang Việt Nam chủ yếu chia làm 5 nhóm hàng:
- Nhóm A: máy móc thiết bị tồn bộ: nhà máy xi măng lị đứng, nhà máy đường.
- Nhóm B: máy móc cơ khí, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị y tế, máy
móc dụng cụ chính xác, máy móc thiết bị ngành dệt, máy móc nơng nghiệp.
- Nhóm C: ngun nhiên liệu: sản phẩm dầu mỏ, xi măng, sắt thép, kính
xây dựng các loại, vật liệu xây dựng hóa chất, phẩm nhuộm, thuốc trừ sâu, phân
bón.
- Nhóm D: lương thực, thực phẩm, hoa quả: bột mỳ, đường, dầu thực
vật, táo, lê giống cây trồng.
- Nhóm E: hàng tiêu dùng, thuốc chữa bệnh, hàng điện tử, may mặc, đồ chơi...

16


Cơ cấu hàng hóa như trên chẳng những có tính chất bổ sung cho nhau
mà cịn phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của cả hai nước. Cơ cấu xuất
khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm nơng nghiệp và ngun nhiên liệu, do
đó những sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam đáp ứng được nhu cầu của nền
kinh tế và đời sống nhân dân Trung Quốc, đặc biệt là các tỉnh có chung biên
giới với Việt Nam. Hiện nay, cùng với Singapore, Indonesia, Malaysia, Việt
Nam là một trong những bạn hàng chủ yếu của tỉnh Hải Nam (Trung Quốc).
Trong hơn 20 năm qua, sự phát triển kinh tế của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc)
chủ yếu dựa vào hợp tác kinh tế với Thái Lan, Việt Nam, Lào và Myanmar.
Tổng giá trị biên mậu của hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây chiếm tới hơn 50%
tổng giá trị biên mậu của cả Trung Quốc, trong đó có một phần đóng góp khơng
nhỏ của biên mậu Việt - Trung. So với Việt Nam, Trung Quốc ở trình độ phát
triển kinh tế cao hơn, những hàng hóa máy móc nhỏ của Trung Quốc phù hợp

với điều kiện Việt Nam; phát triển kinh tế trên cơ sở nền sản xuất nhỏ. Bên cạnh
đó, một số mặt hàng tiêu dùng của Trung Quốc đáp ứng được nhu cầu của Việt
Nam.
Cơ cấu hàng hóa thương mại Việt - Trung cũng tương tự như cơ cấu
thương mại giữa Trung Quốc với đại bộ phận các nước ASEAN khác. Trừ
Singapore, sản phẩm chủ yếu trong xuất khẩu của các nước ASEAN khác sang
Trung Quốc là: gỗ, gạo, cao su, thiên nhiên, đồng, nhôm, dầu thực vật... Trong
tương lai, một số nước Đông Nam Á trở thành một trong những nơi cung cấp
nguyên liệu cho nền cơng nghiệp của Trung Quốc. Bên cạnh đó, Đơng Nam Á
là một trong những thị trường lý tưởng nhất cho Trung Quốc xuất một số sản
phẩm hàng tiêu dùng và sản phẩm nông nghiệp.
Một điều rõ ràng là Việt Nam và Trung Quốc đều là những nước đang
phát triển về kinh tế, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là hàng gia công, sản
phẩm sơ chế, tỷ lệ khoa học kỹ thuật trong mỗi giá trị sản phẩm thấp, dựa vào
sức lao động rẻ, do đó khơng thể không dẫn đến hiện tượng cạnh tranh với
nhau. Đây là một điều bình thường trong quan hệ kinh tế quốc tế. Sự cạnh tranh
này không gây nhiều cản trở đối với sự phát triển thương mại Việt - Trung. Như
đã phân tích trên, tốc độ tăng trưởng bình qn vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng
bình quân về ngoại thương của cả hai nước trong cùng thời gian.
c. Thương mại tiểu ngạch (bn bán biên giới) đóng góp một phần
đáng kể vào tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước
Thương mại tiểu ngạch Việt - Trung phát triển mạnh kể từ năm 1989
khi Chính phủ hai nước cho phép nhân dân qua lại thăm viếng lẫn nhau vào trao
đổi hàng hóa thiết yếu. Sau khi hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ
ngoại giao năm 1991, thương mại tiểu ngạch phát triển mạnh mẽ với quy mô và
số lượng càng lớn. Tuy các nhà nghiên cứu đưa ra con số khác nhau về tổng giá
trị hàng hóa bn bán qua biên giới giữa hai nước nhưng có thể thấy tổng giá
trị, thương mại tiểu ngạch là một con số khơng nhỏ so với tổng giá trị thương
mại chính ngạch. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do:
Một là, một số hàng hóa hoặc có số lượng ít hoặc có phẩm chất kém,

khơng thể tiến hành trao đổi qua thương mại chính ngạch.

17


Hai là, một số kẻ buôn bán lợi dụng công tác quản lý buôn bán qua
đường biên chưa tốt để tiến hành buôn lậu kiếm lợi nhuận.
Ba là, việc thanh toán liền giữa hai nước được tiến hành linh hoạt, có
thể bằng hình thức hàng đổi hàng. Trong khi đó, việc thanh tốn trong thương
mại chính ngạch phải tn theo những quy định có tính pháp quy của từng
nước. Chính vì lý do đó mà cho dù năm 1993 ngân hàng nhà nước Việt Nam và
ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã ký Hiệp định thanh toán và hợp tác, trong
đó quy định rõ những hình thức thanh tốn phục vụ cho xuất khẩu giữa hai
nước nhưng giá trị hàng hóa được thanh tốn qua ngân hàng cịn nhỏ so với
tổng số kim ngạch giữa hai nước.
d. Cán bộ thương mại khơng cân bằng
Bảng 2: Cán cân thương mại chính ngạch Việt - Trung 1991-1999
(triệu đô la Mỹ)
Năm

XK của Việt Nam

NK của Việt Nam

Cán cân thương
mại

1991
1992
1993

1994
1995
1996
1997
1998
5 tháng đầu
năm 1999

10,23
72,71
122,63
191,16
332,06
308,48
357,10
120
91,51

21,40
106,36
276,00
341,66
720,13
842,15
1078,54
610
316,76

-11,17
-33,65

-144,37
-150,50
-388,07
-553,67
-721,44
-490
-225,25

Nhìn vào bảng trên chúng ta thấy cùng với đà tăng của kim ngạch
thương mại Việt - Trung, thâm hụt thương mại của Việt Nam đối với Trung
Quốc ngày càng tăng. Đặc biệt là năm 1998 con số thâm hụt thương mại Việt Trung đối với Việt Nam tăng trong khi tổng nhập siêu của Việt Nam đã giảm
bớt 400 triệu đô la Mỹ. Tính trung bình, giá trị nhập khẩu của Việt Nam gấp 2,4
lần giá trị hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc. Trên thực tế,
hiện tượng nhập siêu của Việt Nam là hiện tượng thông thường trong quan hệ
thương mại Việt - Trung từ thập kỷ từ 50 đến nay. Trong suốt thời gian ba thập
kỷ 50, 60 và 70 Việt Nam đạt được xuất siêu trong thương mại với Trung Quốc
trong bốn năm: 1958, 1959, 1976 và 1977. Trong những năm cịn lại, Việt Nam
ln ở trong tình trạng nhập siêu. Sở dĩ có tình trạng là do:
Một là, một số nguyên vật liệu, những máy móc nhỏ và một số mặt
hàng tiêu dùng của Trung Quốc đáp ứng được nhu cầu của Việt Nam. Vượt qua
cuộc khủng hoảng về kinh tế cuối thập niên 80, công cuộc đổi mới về kinh tế
của Việt Nam tiếp tục thu được những thành tựu to lớn, sản xuất ngày một được
nâng cao. Trong bối cảnh đó, những ngun vật liệu như hóa chất, sợi bơng cần

18


thiết cho cơng nghiệp nhẹ, những máy móc như máy phát điện nhỏ, máy thủy
lợi nhỏ, một số hàng hóa tiêu dùng của Trung Quốc với giá rẻ đã đáp ứng được
nhu cầu của Việt Nam.

Hai là, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu cảuvn chủ yếu là những ngun liệu
thơ và sản phẩm nơng nghiệp có giá trị thấp và thường bị tác động của giá thị
trường thế giới theo xu hướng giảm. Do đó, trong xuất khẩu của Việt Nam nói
chung đã có năm có tình trạng khối lượng xuất khẩu tăng nhưn giá trị xuất khẩu
không tăng, thậm chí cịn giảm đi.
Ba là, do hạn chế trong hạn ngạch nhập khẩu dẫn đến những hạn chế
trong việc Trung Quốc nhập khẩu một số mặt hàng mà Việt Nam có ưu thế như
gạo, cao su thiên nhiên...
e. Tỷ trọng trong tổng kim ngạch ngoại thương mỗi nước còn thấp
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trong những năm
qua phát triển nhanh chóng, nhưng tổng giá trị thương mại chính ngạch và tiểu
ngạch chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng kim ngạch ngoại thương của mỗi nước.
Theo tính tốn, tổng giá trị thương mại chính ngạch hai chiều chỉ chiếm 7%
tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam và 0,4% tổng kim ngạch ngoại
thương của Trung Quốc. Việt Nam chỉ là bạn hàng thứ 27 của Trung Quốc. Sự
đóng góp của Việt Nam trong thương mại ASEAN - Trung Quốc cũng là rất nhỏ
bé. ASEAN là bạn hàng lớn thứ sáu sau Trung Quốc với tổng giá trị thương mại
chiếm 13% tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc lớn hơn nhiều lần so
với tổng giá rị thương mại Việt - Trung.
2. Cơ sở phát triển thương mại Việt - Trung
Một là, ý chí chính trị của hai nước. Trong chuyến đi thăm Trung Quốc
đầu năm nay của đồng chí Lê Khả Phiêu, hai đồng chí lãnh đạo cao cấp nhất
của hai nước đã thỏa thuận về những nguyên tắc chỉ đạo trong quan hệ Việt Trung trong thời gian tới: láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu
dài, hướng tới tương lai. Những ngun tắc này có ý nghĩa vơ cùng to lớn, cho
thấy rõ khung quan hệ cũng như mục tiêu trong quan hệ giữa Việt Nam và
Trung Quốc, do đó có tác dụng tích cực đối với việc thúc đẩy quan hệ hợp tác
nói chung giữa hai nước và quan hệ thương mại nói riêng. Tháng 10/1998 lãnh
đạo hai bên Việt Nam và Trung Quốc đã bày tỏ quyết tâm đưa tổng giá trị
thương mại chính ngạch lên đến 2 tỷ đô la vào năm 2000. Trong chuyến đi thăm
Việt Nam mới đây Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ và Thủ tướng Việt

Nam Phan Văn Khải đã một lần nữa khẳng định quyết tâm thực hiện mục tiêu
này. Đây là quyết tâm to lớn của lãnh đạo hai nước thể hiện ý chí chính trị cũng
như mong muốn của cả hai bên đẩy mạnh hơn nữa quan hệ thương mại giữa hai
nước. Chính ý chí chính trị này là nhân tố quyết định những vấn đề tồn tại trong
quan hệ thương mại giữa hai nước.
Hai là, đã tạo dựng được cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại giữa
hai nước. Như trên đã trình bày, Việt Nam và Trung Quốc đã ký nhiều Hiệp
định về hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước. Đặc biệt là, hai nước đã ký
Hiệp định về buôn bán ở vùng biên giới, nhằm chấn chỉnh những hiện tượng
không lành mạnh: trốn thuế, lậu thuế ở vùng biên giới giữa hai nước, tạo điều
kiện thuụn lợi cho thương mại chính ngạch phát triển.

19


Ba là, phát triển quan hệ thương mại Việt- Trung là phù hợp với chiến
lược kinh tế đối ngoại của cả hai nước. Ba vùng tam giác trong phát triển quan
hệ kinh tế đối ngoại là: tiểu tam giác (chỉ Trung Quốc đại lục, Hồng Kông và
Đài Loan), trung tam giác (chỉ các nước láng giềng: ASEAN và Hàn Quốc), và
đại tam giác (chỉ các nước Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và các nước phát triển về
kinh tế). Trung Quốc xác định rõ chiến lược thúc đẩy quan hệ kinh tế với tiểu
tam giác, liên hiệp với trung tam giác và quan hệ với đại tam giác. Như vậy, việc
phát triển quan hệ kinh tế với các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam sẽ tạo cơ
sở cho Trung Quốc tham gia nhiều hơn vào những hoạt động kinh tế quốc tế, thể
hiện qua việc đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại với các nước phát triển về kinh
tế.
Đối với Việt Nam, việc phát triển quan hệ kinh tế thương mại với Trung
Quốc chẳng những phù hợp với đường lối đối ngoại "là bạn đối với tất cả các
nước", mà còn phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của đất nước: Việt
Nam chú trọng mối quan hệ với các nước láng giềng nhằm tạo ra môi trường

xung quanh hịa bình ổn định, góp phần giữ vững an ninh của đất nước và tạo
điều kiện thuận lợi. Về kinh tế, mục tiêu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là nhằm tăng sức sản xuất của cả xã hội, trong đó có các nhà máy cơng
nghiệp nhẹ sử dung một số nguyên vật liệu nhập từ Trung Quốc.
Bốn là, phát triển quan hệ thương mại là phù hợp với nhu cầu khách
quan của cả hai bên. Như đã phân tích ở trên, cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu
Việt - Trung có tính chất bổ sung cho nhau. Là một nước có kỹ thuật tiên tiến
hơn và bắt đầu tích lũy dự trữ ngoại tệ lớn, Trung Quốc có thể giúp Việt Nam
nhiều mặt về kinh tế, kỹ thuật. Về phần mình, Việt Nam tạo ra một thị trường
đáng kể cho nhiều mặt hàng, nhất là máy móc nhỏ phục vụ cho nơng nghiệp
Trung Quốc.
Năm là, bên cạnh hợp tác song phương, hai bên cịn có thể đẩy mạnh
quan hệ thương mại qua các kênh đa phương, thông qua quan hệ kinh tế và
thương mại ASEAN - Trung Quốc, tổ chức hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), và trong tương lai thơng qua tổ chức thương mại thế giới
(WTO) khi hai nước trở thành thành viên.
Trong những nhân tố trên, nhân tố khách quan là nhu cầu của cả hai
bên; nhân tố ý chí chính trị là nhân tố chủ quan trọng nhất, quyết định sự phát
triển của quan hệ thương mại Việt - Trung trong thời gian tới.
3. Diễn biến của trao đổi mậu dịch song phương
Theo thông lệ và tập quán quốc tế, để cho hoạt động trao đổi hàng hóa
song phương được triển khai dựa trên cơ sở pháp lý, hai nước Việt Nam - Trung
Quốc đã ký Hiệp định thương mại ngay từ khi quan hệ chính trị giữa hai nước
được bình thường hóa. Thời gian sau đó, hai nước cịn ký một số Hiệp định
khác có liên quan đến quan hệ thương mại song phương. Có thể nêu ra đây một
số Hiệp định như: Hiệp định về vận tải hàng hải và vận tải đường sắt; Hiệp định
về hàng hóa quá cảnh giữa hai nước; Hiệp định về thành lập Ủy ban kinh tế thương mại Việt Nam - Trung Quốc; Hiệp định về đảm bảo chất lượng hàng hóa

20



xuất nhập cảnh và công nhận lẫn nhau; Hiệp định vận tải đường bộ; Hiệp định
tránh đánh thuế hai lần và chống lậu thuế...
Cả Trung Quốc và Việt Nam đều có nhu cầu trao đổi hàng hóa. Mấy
năm trước khi quan hệ hai nước được bình thường hóa, trên vùng biên giới đất liền
giữa hai nước đã diễn ra một số hoạt động buôn bán của cư dân hai nước với nhau,
tất nhiên là phi chính thức và bị giới hạn nhiều. Từ sau khi quan hệ hai nước được
bình thường hóa và Hiệp định thương mại song phương được ký kết thì quan hệ
thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc bước vào một thời kỳ mới phát triển và
mở rộng nhanh chóng, kim ngạch xuất khẩu hai chiều tăng lên nhanh chóng, năm
sau cao hơn năm trước. Điều đó phản ánh qua một số con số cụ thể dưới đây:
Năm
Tổng kim ngạch XNK hai chiều
(triệu USD)
1990

152,54

1991

270

1992

280

1993

690


1994

758

1995

1.050

1996

1.150

1997

1.240

1998

1.540

1999

(5 tháng đầu năm) đạt 408.28

Các con số nêu ra trong bảng trên không bao gồm giá trị của buôn bán dân
gian và buôn lậu bất hợp pháp qua biên giới mà Nhà nước khơng kiểm sốt được.
Hiện nay Trung Quốc đã trở thành một trong những đối tác thương mại
quan trọng của Việt Nam, xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam chiếm đến
7% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, đưa Trung Quốc lên vị trí thứ 7
trong hơn 100 nước và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại với Việt Nam.

Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc còn rất
nhiều khiêm tốn, mới chỉ chiếm khoảng0,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu
của Trung Quốc, đứng ở vị trí thứ 27 trong tổng số hơn 200 quốc gia và vùng
lãnh thổ có quan hệ thương mại với Trung Quốc tính đến cuối năm 1998.
Theo số liệu thống kê chưa thật đầy đủ, từ năm 1990-1991 đến năm
1999, Việt Nam đã xuất khẩu sang Trung Quốc, theo con đường chính ngạch và
tiểu ngạch, đến hơn 100 nhóm hàng và mặt hàng cụ thể khác nhau. Có thể nêu
ra đây một số mặt hàng tiêu biểu: gạo, cao su, hạt điều, cà phê, dầu thô, dầu
thực vật, sắn lát, chuối xanh, đồ gỗ gia dụng đã gia cơng, hải sản, hoa quả đặc
sản (xồi, vải thiều...), sản phẩm nông nghiệp và lâm nghiệp, quặng kim loại và
sắt phế liệu, ô tô (thuộc dạng tạm nhập tái xuất), một số mặt hàng tiêu dùng
hàng ngày như dép nhựa, xà phòng...). Trong số các mặt hàng nêu trên, cao su
và hạt điều chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng số mặt hàng của Việt Nam xuất

21


khẩu ra nước ngoài, hơn nửa tỷ lệ tăng dần hàng năm. Xin nêu mấy con số cụ
thể:
Đơn vị: tấn
Năm

1993

1994

1995

Lượng


%

Lượng

%

Lượng

%

Cao su

55.707

59,3

85.662

65,9

104.945

73,3

Hạt điều

21,5

31,7


1999 (5 tháng đầu)

1996
Lượng

%

Lượng

70

10,80

%

55,7

Các mặt hàng khác như gạo, thủy sản,.. chiếm khoảng 10% trong tổng số
mặt hàng đã nêu ở trên của Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài. Điều cần nêu ra ở
đây là, đa số các mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đều thuộc
dạng thô, hàng qua sơ chế biến rồi mới xuất khẩu cịn rất ít, do đó trọng lượng xuất
khẩu có khi nhiều nhưng giá trị thu được trong thực tế lại ít. Đây là một thiệt thịi
khá lớn cho phía Việt Nam trong việc trao đổi bn bán với phía Trung Quốc thời
gian qua.
Các mặt hàng mà phía Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam trong mấy
năm qua theo con đường chính ngạch và tiểu ngạch là rất phong phú và đa
dạng, có đến trên 200 nhóm và mặt hàng cụ thể nghĩa là gấp đôi số mặt hàng
Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc. Có thể nêu ra đây một số nóm và mặt
hàng tiêu biểu: sản phẩm hóa chất, thuốc trừ sâu, thiết bị và phương tiện vận tải,
thép và phơi thép, máy móc thiết bị cho nhà máy sản xuất xi măng lò đứng, thiết

bị máy móc cho ngành sản xuất mía đường, máy móc nơng nghiệp và phụ tùng,
máy móc thiết bị cho ngành giày da, thiết bị vệ sinh, vật liệu xây dựng, kính dân
dụng, gạch hoa các loại, sản phẩm công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng như: xe đạp
và phụ tùng, điện gia dụng các loại, vải và hàng dệt kim, quần áo may sẵn, đồ
sứ, văn phòng phẩm, đồ dùng điện tử, đồ chơi trẻ em,... Trong quan hệ buôn
bán với Trung Quốc từ sau khi quan hệ chính trị hai nước được bình thường hóa
đến nay, chúng ta đã nhập được nhiều thứ cần thiết (như đã nêu ở trên) đáp ứng nhu
cầu xây dựng và phát triển kinh tế ở trong nước cũng như nhu cầu về hàng tiêu
dùng thông thường của nhân dân lao động. Đồng thời, chúng ta cũng đã bán sang
Trung Quốc một số mặt hàng mà ở trong nước sản xuất được với số lượng khác
như đã nêu ở trên. Từ khách quan mà xét, đây cũng là một trong những nguyên
nhân quan trọng thúc đẩy những ngành nghề có sản phẩm bán sang Trung Quốc
phát triển trong thời gian qua.
4. Tình hình bn bán qua biên giới Việt - Trung
a. Khái quát về tình hình bn bán qua biên giới Việt Nam - Trung
Quốc trong 50 năm qua.
Từ năm 968, Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập ở Đông Nam Á,
kế từ đó đến nay, Việt Nam đã có mối quan hệ buôn bán qua biên giới với nhiều
nước láng giềng, trong đó có Trung Quốc. Tiếp theo các triều đại phong kiến
Việt Nam: Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã tiếp tục quan hệ buôn bán qua biên giới với
các triều đại phong kiến Trung Quốc: Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Lúc bấy giờ,
buôn bán qua biên giới giữa hai nước Việt - Trung chỉ là sự thông thường nhằm
bổ sung cho nhau, với hai hình thức chủ yếu là cống nạp và dân gian.

22


Bước vào thời kỳ cận đại, Việt Nam trở thành nửa thuộc địa tư bản
phương Tây, hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã ký "Điều ước Việt Nam
(năm 1885)" và "Chương trình hợp tác biên giới (năm 1896)", trong đó, quy

định 25 điểm đồn trú tuần tra dọc biên giới chung giữa hai nước cũng chính là
điểm họp chợ chung cho dân cư dân hai bờ biên giới.
Năm 1945, sau khi ký kết đại diện thế giới lần thứ 2, nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa (nay là CNHXHCN Việt Nam) ra đời (2-9-1945), tiếp theo
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập (1-10-1949), và chỉ mấy
tháng sau đó (18-1-1950) hai nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (dưới đây gọi
tắt là Việt Nam) và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (dưới đây gọi tắt là Trung
Quốc) đã thiết lập quan hệ ngoại giao, tính đến tháng giêng năm nay vừa trịn
50 năm. Kể từ đó, mở ra thời kỳ mới trong quan hệ hai nước về nhiều mặt, tạo
điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ quan hệ kinh tế bn bán giữa hai nước,
trong đó có bn bán qua biên giới Việt - Trung. Trong khoảng thời gian, từ
những năm 50 đến những năm 70, trên tinh thần "vừa là đồng chí, vừa là anh
em", hai nước đã ký kết các bản "Nghị định thư buôn bán tiểu ngạch biên giới
Việt - Trung" (năm 1955) và "Nghị định thư trao đổi hàng hóa biên giới Việt Trung (năm 1957)" đã quy định xây dựng 26 điểm giao dịch (19 điểm trên bộ và
7 điểm trên biển) trên biên giới chung của hai nước. Trong khoảng thời gian
(1956-1969) mức buôn bán qua biên giới giữa Việt Nam với Quảng Tây trị giá
44,94 NDT. Trong khoảng thời gian 1966 - 1976, ở Trung Quốc đang tiến hành
cuộc cách mạng văn hóa, hầu như đóng cửa hồn tồn với thế giới bên ngồi
nên đã ảnh hưởng tới bn bán qua biên giới giữa Trung Quốc với các nước
láng giềng, trong đó có Việt Nam.
Cuối năm 1978, Trung Quốc đưa ra quốc sách cải cách mở cửa, nhưng
lúc bấy giờ (1978-1988) mới chú trọng mở cửa khu vực ven biển, chưa chú ý
đến mở cửa khu vực biên giới. Đồng thời, từ năm 1979 đến hết thập kỷ 80,
quan hệ hai nước Việt Nam và Trung Quốc bước vào thời kỳ khơng bình
thường, biên giới chung giữa hai nước chiến trường thay cho thị trường, những
nhân tố đó đã ảnh hưởng đến sự gián đoạn buôn bán qua biên giới hai nước.
Bước sang thập kỷ 90, trên thế giới đã kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh,
ở châu Âu các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt tan rã, đã ảnh hưởng không nhỏ
đến các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Á, như Trung Quốc, Việt Nam. Ở Trung
Quốc, sau sự kiện Thiên An Môn (4-6-1989) các nước tư bản phương Tây thi

hành chính sách hạn chế bao vây đối với Trung Quốc. Đứng trước tình hình
biến động trên thế giới và trong nước, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách mở
cửa đối ngoại, một mặt Trung Quốc bắt đầu chú trọng cải thiện mối quan hệ
thân thiện với các nước láng giềng, mặt khác cùng với việc chú trọng mở cửa khu
vực ven biển, bắt đầu mở cửa khu vực ven biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc mở cửa buôn bán qua biên giới Trung Quốc với các nước láng giềng trong đó
có Việt Nam.
Ở Việt Nam, từ năm 1986 (Đại hội VI) đã đề chính sách đổi mới và mở
cửa, muốn là bạn với tất cả, tạo điều kiện cho việc cải thiện mối quan hệ với tất cả
các nước, trong đó có các nước láng giềng bao gồm cả Trung Quốc.
Xuất phát từ sự mong muốn cải thiện mối quan hệ của các lãnh đạo và nhân
dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc, tháng 11-1991 các nhà lãnh đạo cấp cao của

23


hai nước đã nhất trí: khép lại quá khứ, mở ra giai đoạn mới, nhờ vậy, trong suốt những
năm 90, trên biên giới Việt - Trung, trở thành biên giới của tình hợp tác và hữu nghị, từ
chiến trường chuyển thành thị trường ngày càng phát triển phồn vinh và nhộn nhịp.
Mức buôn bán qua biên giới Việt Nam và Trung Quốc ngày càng tăng.
Biểu: Mức buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc
(1991-1999)
Đơn vị tính: triệu đơ la Mỹ
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996

1997
1998
1999

Mức bn bán
32,23
179,07
396,64
532,82
1.052,19
1.150,63
1.435,64
1.560,00
1.400,00-1.500,00 ước tính

Tỷ lệ tăng %
340
454,4
122,6
34,1
97,4
9,3
24,6
8,7

Tình hình thực tế buôn bán biên giới Việt - Trung trong lịch sử, đáng
lưu ý trong vòng 50 năm qua, đặc biệt là 10 năm từ khi nước bình thường hóa
đến nay, chúng tôi bươc đầu rút ra mấy nhận xét sau đây:
Thứ nhất, buôn bán qua biên giới Việt - Trung bao gồm nhiều hình
thức: bn bán chính ngạch, bn bán tiểu ngạch, dân gian, tạm nhập tái xuất

và cả bn lậu (khơng kiểm sốt nổi, số lượng có lúc ngang bằng, thậm chí cịn
cao hơn cả con số bn bán thống kê được). Trong đó, mức bn bán chính
ngạch ngày càng chiếm tỷ trọng lớn: 39% (năm 1991), 28,8% (năm 1992), 70%
(năm 1993), 71% (năm 1996), 70% (năm 1997). Cịn bn bán tiểu ngạch và
bn bán dân gian tỷ trọng càng thu hẹp.
Thứ hai, buôn bán qua biên giới Việt - Trung từ chỗ chỉ chiếm 2% tổng
buôn bán của Việt Nam, năm 1990 đã tăng lên 4% và từ năm 1991-1999 chừng
6-7%. Nhưng chỉ chiếm chưa tới 0,5% mức buôn bán đối ngoại của Trung
Quốc (năm 1997, chiếm 0,4%). Trung Quốc trở thành bạn hàng lớn thứ sau của
Việt Nam, còn Việt Nam trở thành bạn hàng thứ 29 (trong tổng số hơn 220 bạn
hàng) của Trung Quốc.
Thứ ba, mặc dù mức buôn bán qua biên giới Việt - Trung không ngừng
tăng, nhưng tỷ lệ tăng ngày càng có chiều hướng giảm. Như năm 1991 tăng
340%; năm 1992 tăng 454,4% (cao nhất); năm 1993 giảm còn 122,5%; năm 1997
giảm còn 26,6%; năm 1998 giảm mạnh nhất chỉ còn 8,7%).
Thứ tư, buôn bán qua biên giới Việt - Trung mặc dù Trung Quốc là bạn
hàng xuất khẩu lớn thứ ba (năm 1994, 1996), thứ tư (1995 và 1997) của Việt
Nam. Song, Việt Nam luôn luôn bị nhập siêu và có xu thế ngày càng tăng như
năm 1991 (nhập siêu 10 triều đô la); năm 1992 (40 triệu đô la); năm 1993 (160
triệu đô la); năm 1994 (150 triệu đô la); năm 1995 (390 triệu đô la), năm 1996

24


×