Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MAI THỰC TRẠNG VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.7 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA TÀI CHÍNH

Đề tài thuyết trình môn Quản Trị Ngân Hàng:
GVHD: PGS. TS. Trần Huy Hoàng
Lớp: GĐ A201
Khóa: 23
Danh sách nhóm:
1. Mai Huy Hoàng 4. Trần Thị Thu Thảo (NT)
2. Phan Thanh Hương 5. Trần Quốc Thắng
3. Nguyễn Thị Hạnh Nguyên 6. Nguyễn Anh Tuấn
TP. Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 11 năm 2014
Trang 1
HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ TẠI CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MAI
THỰC TRẠNG VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG
TẠI VIỆT NAM
MỤC LỤC
Trang 2
MỞ ĐẦU
Trong thời gian vừa qua, hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam đã và đang đương đầu với nhiều khó khăn và thách thức lớn. Vấn đề cấp bách
hiện nay Chính phủ đang quan tâm là việc xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương
mại, bởi vì nó là nguyên nhân chính làm tắc nghẽn dòng vốn tín dụng trong nền kinh
tế. Do đó, vấn đề xử lý nợ xấu là một bước đi quan trọng trong quá trình tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng. Nhiều hội thảo đã và đang tập trung thảo luận những vấn đề liên
quan như: thực trạng nợ xấu tại các ngân hàng Việt Nam, tìm kiếm và mổ xẻ các
nguyên nhân gây ra nợ xấu, các biện pháp tháo gỡ, cơ chế xử lý nợ cũng như học tập
kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới. Ngoài ra, những vấn đề cần thực sự chú
trọng như nguồn lực tài chính để xử lý nợ, các cách thức giải cứu của Chính phủ và
liệu có nên tìm một định chế mới để tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu cũng đang


được đề cập tới. Thực tế, một trong những nguyên nhân gây ra tình hình gia tăng nợ
xấu hiện nay là bất cập trong phân loại nợ, vấn đề chuyển nợ, vấn đề đạo đức nghề
nghiệp,… Dù nợ xấu ở mức nào thì hiện tại, nó đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến
điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, ảnh hưởng không nhỏ đến dòng
vốn lưu thông trong nền kinh tế, tính an toàn, hiệu quả kinh doanh của chính các ngân
hàng. Vì vậy, một trong các giải pháp góp phần giảm, điều tiết tỷ lệ nợ xuống là xây
dựng và phát triển thị trường mua bán nợ. Thông qua việc phát triển thị trường mua
bán nợ nhằm khơi thông dòng vốn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, NHTM thoát
khỏi tình trạng như hiện nay. Và qua đó, tìm ra các nguyên nhân thực trạng của thị
trường mua bán nợ Việt Nam hiện nay và đưa ra các giải pháp tích cực nhằm góp phần
phát triển thị trường mua bán nợ phù hợp với tình hình thực tế.
Trang 3
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ
1.1 Khái niệm về hoạt động mua bán nợ
Có thể hiểu hoạt động mua bán nợ là việc chuyển nợ của người mua hàng (con
nợ) từ người bán hay người cung ứng dịch vụ (chủ nợ cũ) sang công ty mua nợ (chủ nợ
mới). Công ty mua nợ đảm bảo việc thu hồi nợ, tránh các rủi ro về việc không trả được
nợ hoặc không có khả năng trả nợ của người mua. Công ty mua nợ có thể trả trước thời
hạn toàn bộ hoặc một phần các khoản nợ của người mua cùng với một khoản hoa hồng
tài trợ và phí thu nợ. Mọi rủi ro không thu được đều do người tài trợ chịu. Từ đó hình
thành một quan hệ tài chính liên quan tới ba bên gồm công ty mua nợ (ngân hàng, tổ
chức tài chính), người bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ và người mua hàng hóa hay
nhận dịch vụ. Ngoài ra, nghiệp vụ mua bán nợ có thể “biến hóa” thành một số dịch vụ
phụ như quản lý tài khoản phải thu của khách hàng, cung cấp các thông tin kinh tế, tiền
tệ, tín dụng và thương mại nhằm tăng thu và giữ tốt mối quan hệ bạn hàng lâu dài.
Việc mua bán như vậy dựa trên quyền thu nợ của chủ nợ, chứ không phải nghĩa
vụ trả nợ của con nợ. Bên bán trong giao dịch này được lợi là hóa giải được bài toán tài
chính doanh nghiệp dù phải chịu một khoản “lỗ” nào đó (có khi chỉ là kỹ thuật). Thuật
ngữ tiếng Anh gọi hoạt động này là “factoring”. Factoring (tạm hiểu là giao dịch ủy
quyền) tuy có vẻ không liên quan đến tài chính, nhưng từ lâu, đây là thuật ngữ được

đặt cách dùng trong lĩnh vực giao dịch các khoản sẽ thu và cho vay tại thị trường Âu -
Mỹ. Hoạt động này đôi khi có các biến thể và nghiệp vụ trung gian phức tạp, tuy nhiên,
dù là thế nào chúng ta cũng nên hiểu đúng đó là mua bán khoản sẽ thu hay giao dịch
quyền thu nợ. Đồng thời, cũng là để xóa đi cách hiểu sai, nghĩ lệch gần đây ở ta rằng
“việc mua bán nợ sẽ giúp giải quyết gánh nặng nợ nần cho doanh nghiệp”.
Theo Edward W. Reed và Edward K. Gill, mua bán nợ là việc mua lại các khoản
nợ. Các công ty mua nợ mua các khoản nợ của khách hàng trên cơ sở không truy đòi
và tiến hành một số các dịch vụ khác ngoài việc ứng trước các khoản nợ. Công ty mua
bán nợ đánh giá mức tín dụng trong hiện tại và tương lai của khách hàng (người bán)
và xác lập các hạn mức tín dụng ứng trước. Các khách hàng được yêu cầu gửi trực tiếp
cho công ty mua bán nợ bản sao hóa đơn. Khoản ứng trước thường chiếm khoảng 80%
Trang 4
- 90% giá trị hóa đơn. Khoản dự trữ 10% - 20% được công ty mua nợ giữ lại để phòng
ngừa việc hàng trả lại, hàng giao thiếu, hoặc yêu cầu khác của người mua. Thường vào
cuối năm, công ty mua nợ tính toán mức phí thu được trên số dư các khoản nợ chưa thu
và cấp thêm vốn cho khách hàng.
Theo quyết định 59/2006/QĐ-NHNN ban hành quy chế mua, bán nợ của tổ chức
tín dụng: Mua bán nợ là việc chuyển nhượng khoản nợ, theo đó, bên bán nợ chuyển
giao quyền chủ nợ của khoản nợ cho bên mua nợ và nhận thanh toán từ bên mua nợ.
Khoản nợ được mua, bán là khoản nợ được tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động
theo Luật các tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng nước ngoài cho khách hàng vay (kể cả
khoản trả thay trong bảo lãnh) hiện đang còn dư nợ hoặc đang được theo dõi ngoại
bảng.
Trên thế giới, việc mua bán các khoản sẽ thu (khoản cho vay, tức tài sản tài chính)
là hoạt động kinh doanh sinh lợi. Nhiều công ty tập hợp (mua lại) các tài sản tài chính
dài hạn, ví dụ các khoản cho vay mua nhà, rồi chia ra thành các khoản sẽ thu nhỏ hay
rất nhỏ (giống như trái phiếu) để bán cho công chúng. Đó là các sản phẩm mà ta
thường nghe là ‘chứng khoán hóa’ như MBS/ABS, CDO rất hữu ích trong lĩnh vực
tài trợ địa ốc. Hoạt động này còn là để làm đẹp sổ sách, hoặc có mục đích phòng ngừa
rủi ro, đặc biệt là tại các ngân hàng, thông qua một thực thể công cụ gọi là SPV.Các

ngân hàng tại Việt Nam chắc cũng đã quen với các hoạt động này.
1.2 Các loại hình của nghiệp vụ mua bán nợ
Sở dĩ nghiệp vụ mua bán nợ được nhiều công ty trên thế giới áp dụng bởi lẽ thông
qua nghiệp vụ này, các hoạt động tài chính trong kinh doanh sẽ được đa dạng và phong
phú hơn do có nhiều sản phẩm và dịch vụ để lựa chọn. Cụ thể với nghiệp vụ mua bán
nợ, trên thị trường sẽ có nhiều loại hình dịch vụ mới đi kèm theo như sau:
 Tránh rủi ro tài chính: Một trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng phá sản
ở phần lớn các công ty là việc bị chiếm dụng vốn do khách hàng không thanh toán các
khoản nợ. Do đó, việc quản lý rủi ro các khoản nợ không có khả năng thanh toán của
khách hàng trong tín dụng thương mại là một trong những mối quan tâm hàng đầu của
các công ty. Và rủi ro này công ty có thể tránh được khi bán các khoản nợ của mình
cho một công ty chuyên biệt chuyên mua các khoản nợ - đó là các công ty mua
nợ.Chính các công ty này với nghiệp vụ kinh doanh chuyên nghiệp của mình có thể
Trang 5
mua lại các khoản nợ, bù lại họ sẽ được hưởng lợi nhuận từ việc mua các khoản nợ
thấp hơn giá trị thực của các khoản nợ đó.
 Trợ giúp quản lý tài chính: Với đặc thù là công ty tài chính chuyên biệt, các công ty
mua bán nợ đã mang lại một giải pháp toàn diện cho việc quản lý tài khoản vãng lai
cho nhiều công ty khách hàng: một mặt, đơn giản hoá hoạt động kế toán của công ty,
mặt khác, bảo đảm thu nợ và xác định các khoản thanh toán cho khách hàng. Ngoài ra,
công ty mua nợ sẽ cung cấp những nhận định phân tích một cách toàn diện cũng như
xác định những bất thường, từ đó đưa ra khuyến cáo cho khách hàng. Khi đó, công
việc của công ty mua nợ là theo dõi các khoản kỳ hạn thanh toán, kiểm tra các quy
định thanh toán, nhắc nhở qua điện thoại, điện tín và cuối cùng là quản lý các khoản nợ
khó đòi. Với hệ thống kỹ thuật hiện đại, các công ty mua nợ sẽ thực hiện việc nhắc nhở
các khoản nợ qua các thư nhắc nhở tự động, hoặc hệ thống nhắc nhở tự động qua điện
thoại. Nhờ thế, công ty đã rút ngắn dần những khoản nợ chậm trả và tạo thói quen cho
người mua hàng thanh toán đúng hạn.
 Tạo vốn trong kinh doanh: Điều này có nghĩa là công ty mua nợ sẽ trả tiền ngay tức thì
khi chuyển quyền sở hữu các hoá đơn. Những khoản tài trợ này là khoản không thể

truy đòi. Bởi lẽ khoản tiền công ty mua nợ chuyển cho khách hàng không phải là các
khoản ứng trước đơn thuần mà là khoản bán hết món nợ đó cho công ty mua nợ và
khách hàng không phải hoàn lại cho công ty mua nợ nếu người mua không có khả năng
thanh toán. Thông qua hình thức này, nhiều công ty không những giải phóng được các
khoản nợ khó đòi mà còn có thêm nguốn vốn tái đầu tư cũng như sử dụng vốn có hiệu
quả hơn từ việc bán các hoá đơn. Ngoài những lợi ích phong phú mà mua bán nợ đem
lại, có rất, rất nhiều lý do để các doanh nghiệp quan tâm đến dịch vụ này: tận dụng khả
năng chuyên môn của các công ty mua bán nợ để đem lại lợi ích cho mình, hay sẽ có
nhiều sự lựa chọn phương pháp thanh toán sớm hơn cho các nhà cung cấp hàng hoá
(đặc biệt là trong xuất nhập khẩu, từ đó nhanh chóng có nguồn vốn tái đầu tư để không
bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh mới.
PHẦN II: HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ TẠI CÁC NHTM
Trang 6
Điều cốt lõi của nghiệp vụ mua bán nợ là tạo ra lòng tin về khả năng thanh toán
nợ của nhiều công ty cho vay, nhờ vậy, các công ty này sẽ yên tâm và tập trung vào
công việc kinh doanh của mình để đẩy mạnh doanh thu và lợi nhuận. Không quan tâm
đến mọi diễn tiến xung quanh (thậm chí cả trong trường hợp phá sản), với mua bán nợ,
những khoản tiền mặt “nóng” sẽ luôn sẵn sàng. Ngoài ra, mua bán nợ không chỉ là sự
lựa chọn cho những khoản nợ khó đòi, việc sử dụng dịch vụ này còn có thể đẩy nhanh
những khoản thanh toán từ khách hàng mua hàng trả chậm. Dịch vụ của các công ty
mua bán nợ không giống nhau mà có thể có những khác biệt về điều khoản, điều kiện
mua bán nơ cũng như tỷ lệ chiết khấu tuỳ theo nhu cầu của khách hàng, con số nợ nần,
khả năng thu hồi nợ…
Sau cuộc khủng hoảng của hàng loạt ngân hàng trên thế giới, phản ứng chính
sách đầu tiên của các quốc gia là cẩn trọng điều hành chính sách vĩ mô khi sử dụng các
công cụ như: tăng dự trữ bắt buộc, trích lập dự phòng rủi ro, các chuẩn mực kế toán,
siết chặt cho vay, hỗ trợ tổ chức tài chính mất thanh khoản…
Đặc biệt, các định chế tài chính ban hành các tiêu chuẩn quản trị rủi ro, an toàn
vốn - Basel III nhằm tăng cường giám sát, quản lý rủi ro mang tính hệ thống hiệu quả
hơn.

Việt Nam không nằm trong danh sách các quốc gia thành viên của Ủy ban Basel
về giám sát ngân hàng, tức không chịu áp lực phải vận dụng các quy định an toàn của
các hiệp ước này, song việc vận dụng các hiệp ước Basel trong hoạt động quản trị ngân
hàng là vấn đề hết sức ý nghĩa và cần thiết đối với hệ thống ngân hàng nước ta.
Ủy ban Basel đã ban hành 17 nguyên tắc về quản lý nợ xấu mà thực chất là đưa ra
các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng, đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong
hoạt động cấp tín dụng. Các nguyên tắc này tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây:
 Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp (3 nguyên tắc): Hội đồng quản trị phải thực
hiện phê duyệt định kỳ chính sách rủi ro tín dụng, xem xét rủi ro tín dụng và xây dựng
một chiến lược xuyên suốt trong hoạt động của ngân hàng (tỷ lệ nợ xấu, mức độ chấp
nhận rủi ro…). Ban tổng giám đốc có trách nhiệm thực hiện các định hướng mà Hội
đồng quản trị phê duyệt và phát triển các chính sách, thủ tục nhằm phát hiện, đo lường,
theo dõi và kiểm soát nợ xấu trong mọi hoạt động, ở cấp độ của từng khoản tín dụng và
Trang 7
cả danh mục đầu tư. Các ngân hàng cần xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong mọi
sản phẩm của mình.
 Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh (4 nguyên tắc): Các ngân hàng phải hoạt động trong
phạm vi các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh được xác định rõ ràng. Ngân hàng cần xây
dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng vay vốn và nhóm khách hàng vay
vốn để tạo ra các loại hình rủi ro khác nhau nhưng vẫn có thể theo dõi được trên sổ
sách kế toán kinh doanh, nội bảng và ngoại bảng. Ngân hàng cần có quy trình rõ ràng
trong việc phê duyệt các khoản tín dụng mới cũng như sửa đổi, gia hạn, tái cơ cấu, tái
tài trợ cho các khoản tín dụng hiện tại. Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở
giao dịch công bằng giữa các bên.
 Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp (10 nguyên tắc):
Các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với các danh mục đầu tư
có rủi ro tín dụng, cần có hệ thống theo dõi điều kiện của từng khoản tín dụng, bao
gồm mức độ đầy đủ của dự phòng và dự trữ. Khuyến khích ngân hàng phát triển và sử
dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng. Ngân hàng cần
có hệ thống thông tin và các kỹ thuật phân tích để đo lường được rủi ro tín dụng trong

mọi hoạt động nội và ngoại bảng; phải có hệ thống theo dõi cơ cấu và chất lượng của
toàn bộ danh mục đầu tư tín dụng; cần có hệ thống khắc phục sớm đối với các khoản
tín dụng xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Các chính sách rủi ro tín dụng của
ngân hàng cần chỉ rõ cách thức quản lý các khoản tín dụng có vấn đề.
2.1 Mua, bán nợ và các ngân hàng
Theo quy định của Basel II và III, nợ xấu của ngân hàng không được vượt quá
2% trên tổng dư nợ. Nhưng theo báo cáo cuối năm 2013 thì tỷ lệ nợ xấu là 3.79% và
đến cuối tháng 7/2014, tổng nợ xấu nội bảng là 162.2 nghìn tỷ đồng ( khoảng 8 tỷ
USD) , chiếm 4.11% tổng dư nợ.
Nhiều ngân hàng đã vận dụng mua bán nợ như một trong những hoạt động kinh
doanh chính của mình. Với dịch vụ mua bán nợ, các ngân hàng lớn trên thế giới nhận
thấy có thể mở rộng mối liên hệ với khách hàng của họ trong một số ngành công
nghiệp. Hơn nữa, họ có thể tiến hành dịch vụ cho các ngân hàng đại lý có các khách
hàng cần đến các dịch vụ mua bán nợ.
Hiện nay, có không ít các ngân hàng thương mại đang duy trì hình thức cho vay
chi phí sản xuất hàng hoá hoặc thu mua hàng và cho vay luân chuyển hàng hoá. Cho
Trang 8
vay như thế đưa đến việc doanh nghiệp sẽ ỷ lại vào vốn tín dụng của ngân hàng thương
mại. Do vậy, việc cho vay chi phí sản xuất và cho vay luân chuyển hàng hoá sẽ khiến
ngân hàng thương mại chịu rủi ro cùng doanh nghiệp: một khi hàng hoá không tiêu thụ
được, khoản nợ sẽ rất khó thu hồi.
Trong khi đó, sử dụng dịch vụ mua bán nợ, các ngân hàng thương mại cung ứng
vốn cho doanh nghiệp tiếp tục chu kỳ sản xuất sau, nhưng ngân hàng thương mại ấy
thu nợ bằng tiền hàng hoá bán chịu của chu kỳ sản xuất trước nên mức độ rủi ro ít hơn.
Nhờ vậy, dịch vụ mua bán nợ còn giúp doanh nghiệp không lâm vào cảnh nợ nần dây
dưa, khó đòi.
Bên cạnh việc các ngân hàng mở dịch vụ chiết khấu thương phiếu đối với hàng
hoá tiêu thụ thì dịch vụ mua bán nợ khiến việc cung ứng vốn tín dụng của ngân hàng
thương mại cho các công ty trên thị trường được đơn giản hơn và an toàn hơn. Đồng
thời, việc này còn khuyến khích doanh nghiệp sản xuất hoặc thu mua hàng hoá bằng

vốn tự có của mình. Vốn tín dụng của chi nhánh ngân hàng thương mại chỉ là vốn bổ
sung khi doanh nghiệp bán hàng trả chậm.
2.2 Mua, bán nợ và xuất khẩu
Có một thực tế hiển nhiên là cuộc cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu đang ngày
càng trở nên khắc nghiệt và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu luôn phải tìm mọi cách
để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Một trong những yếu tố để cạnh tranh giữa
các nhà xuất khẩu là điều kiện thanh toán. Nếu như một doanh nghiệp có thể xuất khẩu
với phương thức thanh toán ghi sổ nợ (open account), thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ
ký thêm được nhiều hợp đồng. Tuy nhiên, nếu xuất khẩu với hình thức này thì rủi ro
thanh toán sẽ tăng lên.Vì vậy, doanh nghiệp chỉ dám chấp nhận phương thức này với
những khách hàng uy tín, lâu năm của mình mà thôi. Ngay cả khi được đảm bảo về rủi
ro thanh toán, doanh nghiệp vẫn bị khách hàng chiếm dụng vốn trong suốt thời gian
chờ đợi.Thiếu luồng tiền mặt mà lại không thể dễ dàng tiếp cận với vốn từ các nguồn
truyền thống (như tín dụng ngân hàng), doanh nghiệp sẽ gặp không ít khó khăn để duy
trì sản xuất. Trong tình thế đó, mua bán nợ đã xuất hiện như một vị cứu tinh. Mua bán
nợ được đánh giá là một dịch vụ tài chính mới, chỉ với thủ tục rất đơn giản, có thể giúp
doanh nghiệp vừa xuất khẩu cho khách hàng theo điều kiện thanh toán ghi sổ, lại vừa
thu được tiền mặt ngay sau khi xuất hàng đi.
Trang 9
Với giới kinh doanh xuất nhập khẩu thì mua bán nợ được hiểu là dịch vụ mua bán
các khoản phải thu của khách hàng (purchase/sale of account receivables). Định nghĩa
này xuất phát từ thuật ngữ kế toán: khi xuất hàng bán cho khách hàng nhưng bên bán
chưa nhận được tiền hàng thì khoản tiền này được ghi vào tài khoản phải thu của khách
hàng. Mua bán nợ là dịch vụ mua các khoản tiền nằm trong tài khoản nói trên.Cơ chế
của mua bán nợ trong xuất nhập khẩu rất dễ hiểu.Nhà xuất khẩu ký hợp đồng dịch vụ
với công ty mua bán nợ.Khi hàng được giao đi cho khách hàng, nhà xuất khẩu gửi hoá
đơn tới công ty mua bán nợ. Công ty mua bán nợ sẽ ứng trước cho nhà xuất khẩu
khoảng 80% giá trị của hoá đơn. Công ty mua bán nợ sẽ thu tiền hàng từ nhà nhập
khẩu. Sau khi thu được 100% tiền hàng, công ty mua bán nợ sẽ thanh toán nốt 20% còn
lại cho nhà xuất khẩu.

Với ý nghĩa là mua bán nợ nhằm bảo hiểm rủi ro thanh toán, chúng ta có hai loại
mua bán nợ: mua bán nợ truy đòi và mua bán nợ miễn truy đòi. Đối với mua bán nợ
truy đòi, công ty mua bán nợ có quyền đòi lại khoản tiền đã ứng trước cho nhà xuất
khẩu nếu nhà nhập khẩu không thanh toán. Với mua bán nợ miễn truy đòi, nếu nhà
nhập khẩu mất khả năng chi trả, công ty mua bán nợ có trách nhiệm thanh toán 100%
giá trị hoá đơn cho nhà xuất khẩu.
Dịch vụ mua bán nợ trong xuất nhập khẩu đã được sử dụng phổ biến ở nhiều
nước trên thế giới. Các nước trong khu vực cũng đã phát triển mua bán nợ như Trung
quốc, Indonesia, Ấn độ, Nhật bản, Malaysia, Hàn quốc, Singapore, Sri Lanka, Đài loan
và Thái lan. Thật không công bằng cho các nhà xuất khẩu Việt nam khi các đối thủ
cạnh tranh của họ ở các nước khác đang được hưỏng lợi thế từ dịch vụ này.Chỉ những
năm gần đây, dịch vụ mua bán nợ mới bắt đầu được đưa vào phục vụ các công ty xuất
nhập khẩu Việt Nam.
“Thương trường như chiến trường”, để có thể đứng vững trong môi trường cạnh
tranh khốc liệt hiện nay, các doanh nghiệp ngoài nỗ lực tự thân còn rất cần đến sự trợ
giúp nhiều mặt của các ngân hàng cũng như các công ty đầu tư, kinh doanh trong lĩnh
vực tài chính tiền tệ. Điều đó đòi hỏi các công ty tài chính phải nhanh chóng nâng cao
chất lượng sản phẩm, dịch vụ và đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện
thuận lợi cho thanh toán thương mại. Nếu không, các doanh nghiệp khó tránh khỏi
nguy cơ thiếu vốn sản xuất, kinh doanh do vốn bị chiếm dụng, các nhà xuất khẩu khó
Trang 10
tránh khỏi rủi ro trong thanh toán, kéo theo gây tâm lý lo lắng, bất ổn cho doanh nghiệp
nói riêng, cũng như kìm hãm tốc độ phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung. Để
đạt mục tiêu đó, các công ty tài chính không có con đường nào khác là phải nhanh
chóng áp dụng nhiều nghiệp vụ tài chính mới mà các công ty, tập đoàn trên thế giới đã
áp dụng thành công.Và nghiệp vụ mua bánnợ là một trong số đó.
PHẦN III: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ
TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Sự cấp thiết về việc phát triển thị trường mua bán nợ
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng

trong việc phát triển kinh tế như cung cấp các sản phẩm dịch vụ đa dạng, lưu chuyển
vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu,… Tuy nhiên, hoạt động ngân hàng vẫn chứa đựng tiềm
ẩn nhiều rủi ro, gây ra nhiều nguy cơ đỗ vỡ hoàng loạt cho hệ thống, và minh chứng
tiêu biểu là của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007- 2008. Một trong
những nguyên nhân quan trọng của sự suy yếu của ngân hàng chính là tình trạng nợ
xấu tồn đọng quá cao trong một thời gian dài nhưng không được xử lý dẫn đến tình
hình tài chính của ngân hàng rơi vào khó khăn, tình trạng thiếu thanh khoản trầm trọng
và thậm chí chờ phá sản. Vì vậy, vấn đề xử lý nợ được nhiều quốc gia quan tâm đặc
biệt là ở một số nước có tỷ lệ nợ quá cao và vượt mức giới hạn an toàn. Có nhiều giải
pháp để xử lý nợ xấu như xử lý tài sản đảm bảo, bán nợ, cơ cấu lại nợ, chứng khoán
hóa nợ Trong đó, việc hình thành các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản như
DATC, AMC, VAMC được xem là một công cụ hiệu quả, góp phần khai thông dòng
chảy vốn.
Hiện nay, ở nước ta việc cơ cấu lại ngân hàng đã và đang triển khai nhằm củng cố
và tăng cường sức mạnh tài chính cho hệ thống ngân hàng, công tác xử lý nợ của các
NHTM đang được triển khai. Sự hình thành và phát triển của các công ty quản lý nợ và
khai thác tài sản cần phải chú trọng và phát huy và xây dựng mô hình phù hợp với tình
hình thực tế nước ta hiện nay. Đây là vấn đề quan trọng và rất cần thiết để hình thành
một thị trường mua bán nợ hoạt động nhằm giúp các DN đang gặp khó khăn tài chính
Trang 11
cũng như tiếp cận các nguồn tài chính mới, khơi thông dòng chảy tạo đà phát triển kinh
tế.
3.2 Cơ sở pháp lý của hoạt động mua bán nợ các TCTD ở Việt Nam.
Hoạt động mua bán nợ ở Việt Nam hiện nay của các TCTD được quy định tại
Quy chế mua, bán nợ của các TCTD kèm theo Quyết định số 59/2006/QĐNHNN của
Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước ban hành ngày 21/12/2006.
Quy chế này ban hành quy định rõ hoạt động mua bán nợ của các TCTD (kể cả
các TCTD có nhiệm vụ thực hiện mua, bán nợ trực thuộc TCTD) được thành lập và
hoạt động theo Luật các TCTD, đối với các khoản nợ mà TCTD cho khách hàng vay.
Mua, bán nợ là việc chuyển nhượng khoản nợ, theo đó, bên bán nợ chuyển giao

quyền chủ nợ của khoản nợ cho bên mua nợ và nhận thanh toán từ bên mua nợ. Bên
bán nợ là các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng,
tổ chức có nhiệm vụ thực hiện việc mua, bán nợ trực thuộc tổ chức tín dụng, tổ chức
tín dụng nước ngoài sở hữu khoản nợ.
Bên mua nợ là các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài có nhu cầu mua
khoản nợ từ bên bán nợ, để trở thành chủ sở hữu mới của khoản nợ.
Khoản nợ được mua, bán là khoản nợ được tổ chức tín dụng thành lập và hoạt
động theo Luật các tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng nước ngoài cho khách hàng vay
(kể cả khoản trả thay trong bảo lãnh) hiện đang còn dư nợ hoặc đang được theo dõi
ngoại bảng.
Các khoản nợ được mua, bán bao gồm:
 Các khoản nợ mà tổ chức tín dụng cho khách hàng vay (kể cả khoản nợ cho vay đối
với các tổ chức tín dụng khác) đang hạch toán nội bảng.
 Các khoản nợ đã được tổ chức tín dụng xử lý bằng dự phòng rủi ro hoặc bằng nguồn
khác hiện đang được hạch toán theo dõi ngoại bảng.
Một khoản nợ có thể được mua, bán một phần hay toàn bộ do các bên mua, bán
nợ thỏa thuận. Nhưng phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
 Đảm bảo an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng, phù hợp với quy định của pháp luật
Việt Nam và thông lệ quốc tế.Trong trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định tại Quy
chế này thì áp dụng các điều ước quốc tế đó.Việc mua, bán nợ được thực hiện trên cơ
sở thỏa thuận giữa bên mua nợ và bên bán nợ, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên tham gia mua, bán nợ.
Trang 12
 Việc chuyển giao khoản nợ được mua, bán được tiến hành đồng thời với việc chuyển
giao các nghĩa vụ của bên nợ và các bên có liên quan đến khoản nợ (kể cả các quyền
gắn liền với các bảo đảm cho khoản nợ) từ bên bán nợ sang bên mua nợ.
 Việc mua, bán nợ có liên quan tới các tổ chức, cá nhân nước ngoài và thanh toán bằng
ngoại tệ, các bên mua, bán nợ phải chấp hành các quy định của pháp luật hiện hành về
quản lý ngoại hối và các quy định liên quan khác của pháp luật Việt Nam.

 Một khoản nợ có thể được bán một phần hoặc toàn bộ, bán cho nhiều bên mua nợ và
có thể được mua, bán nhiều lần.
Các bên tham gia mua, bán nợ được lựa chọn một trong hai phương thức sau:
 Phương thức mua, bán nợ thông qua đấu giá các khoản nợ thực hiện theo quy định của
pháp luật về bán đấu giá tài sản.
 Phương thức mua, bán nợ thông qua đàm phán trực tiếp giữa bên bán nợ và bên mua
nợ hoặc thông qua môi giới.
Giá mua, bán nợ được xác định như sau:
 Do các bên thỏa thuận trực tiếp hoặc thông qua bên môi giới. Riêng đối với các khoản
nợ thuộc Nhóm 1 theo quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của
các tổ chức tín dụng, thì giá mua, bán nợ không được thấp hơn giá trị khoản nợ được
mua, bán.
 Là giá mua cao nhất trong trường hợp khoản nợ được bán theo phương thức đấu giá.
Ngoài ra, Quy chế này cũng bao gồm một số điều, khoản quy định về hợp đồng
mua bán nợ, thẫm quyền ký kết hợp đồng, quyền và nghĩa vụ các bên, xử lý tranh chấp,

Tuy nhiên, Quy chế này giới hạn ở mức quy định mang tính quy trình đối với
hoạt động mua bán nợ mà thiếu đi tính bắt buộc bán nợ ở các TCTD nếu nợ xấu vượt
quá tỷ lệ nhất định hoặc kéo dài quá thời hạn cho phép mà không xử lý, gây lãng phí
nguồn lực xã hội.
 Thứ nhất, việc thiếu những quy trình thủ tục xử lý nợ xấu khó khăn từ việc lập hồ sơ,
khởi kiện kéo dài làm nản lòng các nhà tham gia thị trường.
 Thứ hai, thiếu tính minh bạch trong việc xử lý nợ xấu tại các TCTD như tỷ lệ nợ xấu,
hồ sơ pháp lý thiếu tính chặt chẽ gây khó khăn và thậm chí không thể mua bán.
 Thứ ba, thiếu các tổ chức trung gian, các tổ chức định giá nợ xấu chuyên nghiệp làm
cho người mua người bán trong việc đưa ra mức giá hợp lý.
Trang 13
Những khó khăn trên ảnh hưởng đến hoạt động thị trường mua bán nợ, Nhà Nước
cần hoàn thiện cơ chế chính sách như xây dựng hệ thống cơ sở xác định giá trị khoản

nợ để làm cơ sở đàm phán giữa bên mua và bên bán. Bởi hiện tại, trong giao dịch mua
bán nợ, sự chênh lệch lớn giữa giá chào mua và giá chấp nhận bán làm kéo dài thời
gian đàm phán và dẫn đến thất bại trong giao dịch.
Đáng chú ý, thị trường chứng khoán có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường mua
bán nợ và việc tái cấu trúc nền kinh tế. DN sau khi được mua bán sẽ được đầu tư vốn
để khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh, đến khi có đủ điều kiện, chủ nợ mới sẽ
tiến hành phát hành cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO) và đưa DN lên niêm yết trên
sàn chứng khoán để thu hồi vốn. Đây là một trong các cách phổ biến được các nước
phát triển áp dụng để xử lý nợ xấu.
Do đó, Nhà nước cần có cơ chế chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước
ngoài tham gia thị trường mua bán nợ. Với nguồn vốn lớn và kinh nghiệm hàng chục
năm phát triển thị trường mua bán nợ, các nhà đầu tư ngoại sẽ là một trong những đối
tác tham gia hoạt động hiệu quả trên thị trường Việt Nam.Bên cạnh đó, cần rà soát và
xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về mua bán nợ, về quan hệ giữa công ty xử
lý nợ với các tổ chức tín dụng.
Trên thị trường hiện nay, Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DATC trực
thuộc Bộ Tài chính, Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) và
khoảng 20 Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) trực thuộc các TCTD là có
chức năng mua bán nợ. Trong đó DATC thực hiện phạm vi mua bán nợ của các DNNN
là chủ yếu và theo chỉ định của Chính phủ, trong khi đó AMC cũng giới hạn tiếp nhận
và xử lý nợ xấu cho các ngân hàng mẹ. Cho nên, phạm vi của các tổ chức này bị giới
hạn trong nội bộ các TCTD và các DNNN chưa bao phủ toàn thị trường.
Nhìn chung, với những nguyên nhân trên đây thì khó lòng mà xử lý dứt điểm tình
hình nợ xấu toàn thị trường tăng mạnh như hiện nay nếu thị trường mua bán nợ chưa
hoạt động tốt và đóng vai trò xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM.
3.3 Thực trạng mua bán nợ tại các NHTM Việt Nam hiện nay
Nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng có chiều hướng gia tăng mạnh từ 2005-
2007. Số liệu nợ xấu được công bố gần đây đã phản ánh xu hướng này. Từ năm 2005
đến 2007, tỷ lệ nợ xấu đã giảm đáng kể, từ 3,18%/năm xuống còn 2%/năm. Nhưng đến
năm 2008, tỷ lệ nợ xấu đã tăng trở lại (3,5%/năm) chủ yếu là trong lĩnh vực bất động

Trang 14
sản. Tín dụng bất động sản năm 2007 tăng cao và khi bong bóng bất động sản vỡ tan,
thị trường bất động sản xuống giá, người vay không trả được nợ làm phát sinh nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu được công bố chính thức có chiều hướng tăng dần từ năm 2009 và ở
mức 8,6% năm 2012. Đây là mức cao nhất trong các năm qua, mặc dù các Ngân hàng
đã giảm lãi suất cho vay, tình hình lạm phát đã được cải thiện nhưng doanh nghiệp vẫn
gặp khó khăn, không có nguồn thu trả nợ ngân hàng. Các tổ chức xếp hạng độc lập
cũng như các nhà kinh tế khác cho rằng mức nợ xấu chưa được công bố thực sự còn
cao hơn rất nhiều. Nhiều cá nhân và tổ chức cho rằng con số nợ xấu 8,6% năm 2012
chưa thực sự phản ánh trung thực tình trạng khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam
hoặc chất lượng tín dụng của các ngân hàng. Cuối năm 2013 thì tỷ lệ nợ xấu giảm còn
3.79%.
Tình hình nợ xấu của các NHTM tại Việt Nam từ 2005-2013
Chỉ tiêu 200
5
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Dư nợ (1.000
tỷ đồng)
527 661 1.01
7
1.275 1.754 2.301 2.577 2.937 3.379
Nợ xấu (1.000
tỷ đồng)
17 13 20 45 36 58 85 252 122
Tỷ lệ nợ xấu
(%)
3,18 2,00 2,00 3,5 2,03 2,51 3,3 8,6 3.79
Nguồn: Tổng hợp số liệu của NHNN qua các năm
Bản chất của nợ xấu ngân hàng là do khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay không
hiệu quả và nó thường phát sinh sau một chu kỳ vay vốn, thậm chí sau một thời gian

dài. Nợ xấu hiện nay của các tổ chức tín dụng được tích lũy từ trước đây do môi trường
kinh doanh xấu đi kể từ năm 2008, khách hàng vay gặp nhiều khó khăn về tài chính và
hoạt động, vì vậy nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng có chiều hướng gia tăng
nhanh trong thời gian gần đây. Trong bối cảnh dư nợ tín dụng không biến động nhiều
từ đầu năm 2012 trở lại đây cho thấy nợ xấu phát sinh mới chủ yếu là các khoản tín
dụng đã được cấp trước đây, đặc biệt là trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng nhanh.
Trang 15
Do đó, thị trường mua bán nợ tại Việt Nam đang dần hình thành và phát triển như
một tất yếu khách quan của phát triển kinh tế. Thực tế, hoạt động mua bán nợ tại Việt
Nam đã xuất hiện từ năm 2003 với sự ra đời và hoạt động của Công ty Mua bán nợ và
tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DN) - Bộ Tài chính (DATC) theo Quyết định số
109/2003/QĐ-TTg ngày 5/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ.
Tháng 6/2013, Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC)
được thành lập và hoạt động theo Quyết định số 843/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ và Quyết định số 1459/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước.
VAMC chính thức bắt đầu mua nợ xấu từ ngày 1/10/2013, đến cuối năm 2013,
công ty đã mua được 38.900 tỷ đồng nợ xấu của 35 tổ chức tín dụng, tương đương
32.400 tỷ đồng giá trị trái phiếu đặc biệt.
Năm 2013, DATC đã ký được 11 hợp đồng mua bán nợ, giá trị các khoản nợ là
1.210 tỷ đồng, giá vốn mua nợ là 441,8 tỷ đồng (tỷ lệ mua nợ bình quân là 36,5 %), đạt
83% so với kế hoạch năm 2013, tăng gấp 1,8 lần so với thực hiện năm 2012. Doanh thu
từ hoạt động mua bán nợ ước đạt 380 tỷ đồng, đạt 103% so với kế hoạch năm 2013,
tăng gấp 1,95 lần so với thực hiện năm 2012. Đồng thời với kết quả hoạt động mua bán
nợ như trên, trong năm 2013, Công ty đã triển khai một số phương án mua bán nợ, tập
trung đàm phán với các ngân hàng thương mại để mua nợ xấu, xử lý tài chính, tái cơ
cấu DN khách nợ, chủ yếu là các tập đoàn, tổng Công ty nhà nước, trước mắt, tập trung
đàm phán mua nợ của các DN thuộc Tổng Công ty Tầu thủy Việt Nam – SBIC (các
DN thuộc Vinashin trước đây) và các DN thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam
(Vinalines).
Một số vấn đề trong thị trường mua bán nợ tại Việt Nam, cụ thể như sau:

 Hệ lụy từ việc mua nợ giá thấp
Hoạt động mua bán nợ hiện nay đang gặp nhiều bất cập. Cụ thể, mua bán nợ trên
thị trường trong đó cơ chế xử lý có nhiều điểm không rõ ràng, nhất là chưa có hướng
dẫn cụ thể về định giá các khoản nợ để bán. Có quá ít công ty mua nợ dẫn tới tình trạng
độc quyền mua, điều này đã làm hạn chế sự phát triển của thị trường và tác động đến
nhu cầu muốn bán nợ.Ngoài ra, chưa có cơ chế tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước
ngoài tham gia thị trường này.
Quy định tại Thông tư số 39/2004/TT-BTC ngày 11/5/2004 của Bộ Tài chính về
việc hướng dẫn trình tự, thủ tục và xử lý tài chính đối với hoạt động mua, bán, bàn
Trang 16
giao, tiếp nhận, xử lý nợ và tài sản tồn đọng của DN như sau: Hoạt động mua bán nợ
được thực hiện dưới 2 hình thức: mua bán nợ theo thoả thuận và mua bán nợ theo chỉ
định của Thủ tướng Chính phủ. Như vậy, việc có ít hình thức mua bán sẽ hạn chế sự
phát triển của thị trường.
 Số lượng các DN tham gia mua bán nợ xấu:
Hiện nay trên thị trường, mặc dù cung về nợ xấu khá lớn nhưng số lượng công ty
chuyên trong hoạt động mua bán nợ xấu lại không nhiều. Số lượng các đơn vị có tính
chuyên nghiệp trong mua bán nợ xấu tại Việt Nam có Công ty Mua bán nợ Việt Nam
(DATC) trực thuộc Bộ Tài chính, Công ty Quản lý tài sản của các Tổ chức tín dụng
(TCTD) Việt Nam (VAMC) thuộc Ngân hàng Nhà nước và khoảng 20 công ty mua bán
nợ tư nhân (AMC) trực thuộc các NHTM.
Đa số các công ty mua bán nợ có vốn điều lệ là vài trăm tỷ đồng. Chỉ có 2 công ty
là DATC của Bộ Tài chính và AMC của Eximbank có số vốn trên 1000 tỷ.Số liệu cho
thấy, quy mô các công ty mua bán nợ là khá nhỏ so với tổng số nợ xấu cần xử lý
khoảng 10 tỷ USD.Với số vốn khiêm tốn, thực tế hoạt động của các công ty này vẫn
chưa hiệu quả.Ngay cả công ty lớn như DATC cũng khó đáp ứng nhu cầu xử lý nợ xấu
Trang 17
khổng lồ và cấp bách của nền kinh tế.Sau 10 năm hoạt động, DATC mới chỉ thực hiện
được trên 120 vụ mua bán nợ và tài sản với giá trị tương đương khoảng trên 10.000 tỷ
đồng.

Để đối phó với tình hình nợ xấu tăng mạnh, Chính phủ đã thành lập thêm VAMC
để thực hiện việc mua lại nợ của các NHTM, các TCTD. VAMC được thành lập và
hoạt động theo Nghị định 53/2013/ NĐ-CP của Chính phủ, Quyết định số 843/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 1459/ QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam. VAMC hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên và có
vốn điều lệ là 500 tỷ đồng. Tuy vốn điều lệ không lớn nhưng VAMC có cơ chế đặc biệt
để mua bán nợ của các TCTD.Ngoài các công ty chuyên nghiệp trong xử lý nợ xấu thì
cũng tồn tại hoạt động mua bán nợ của các DN khác nhằm tái cơ cấu lại DN qua hình
thức mua bán và sáp nhập (M&A).
 Mua bán nợ xấu phục vụ tái cơ cấu doanh nghiệp:
Trong quá trình thực hiện phương án tái cấu trúc DN, theo quy trình chuẩn thì cần
chủ động kiểm soát chặt chẽ rủi ro, từ việc phải tự tìm hiểu thông tin về DN; đàm phán
mua nợ từ các chủ nợ và đàm phán với chủ sở hữu DN để chuyển nợ thành vốn góp tại
DN (đây là cách cơ cấu lại nguồn vốn và nợ của DN, làm giảm nhẹ gánh nặng trả nợ
cho DN và cũng là khâu quan trọng nhất quyết định mức độ thành công của hoạt động
tái cơ cấu); tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược tham gia góp vốn vào DN để tận dụng
những kinh nghiệm quản trị, trình độ kỹ thuật, kênh phân phối, nhằm hỗ trợ DN sau tái
cơ cấu; chuyển đổi mô hình DN thành công ty cổ phần; tái cơ cấu bộ máy quản lý điều
hành và nguồn nhân lực của DN; tái cơ cấu hoạt động SXKD, cơ cấu thị trường tiêu
thụ, vùng nguyên liệu; hỗ trợ hoạt động sau chuyển đổi như điều chỉnh kế hoạch trả nợ,
xây dựng thể chế, xây dựng mục tiêu chiến lược để duy trì và phát triển hoạt động
SXKD…
Do sự phức tạp của hoạt động mua bán nợ xấu đồng thời với việc tái cơ cấu lại
DN nên hầu hết việc mua bán nợ xấu của các AMC và VAMC mới chỉ giúp cho các
TCTD làm sạch bảng tổng kết tài sản chứ chưa thực sự tham gia vào quá trình tái cơ
cấu DN. Hiện nay, hoạt động mua bán nợ có tái cơ cấu lại DN chủ yếu được DATC
thực hiện.
Trang 18
Tính đến nay, DATC đã mua được gần 7.000 tỷ đồng nợ tồn đọng, trong đó hơn
90% là nợ được mua từ các NHTM Nhà nước và khoảng 92% được mua từ năm 2007

đến nay gắn với tái cơ cấu DN khách nợ. Việc mua bán nợ gắn với tái cơ cấu các DN
khách nợ đã giúp đẩy mạnh hoạt động mua bán nợ với các ngân hàng, qua đó giúp các
NHTM xử lý nhanh lượng nợ lớn tồn đọng, nâng cao năng lực tài chính.Ngoài việc
mua nợ và thanh toán bằng tiền, DATC cũng thực hiện việc chuyển nợ thành vốn góp
cổ phần, tham gia vào hội đồng quản trị DN nhằm hỗ trợ cho hoạt động tái cơ cấu lại
DN.
Hiện nay, DATC đã và đang triển khai mua bán nợ, xử lý tài chính, tái cơ cấu để
hỗ trợ cổ phần hóa cho khoảng 20 Tổng công ty là những DN 100% vốn Nhà nước
thành công ty cổ phần, tích cực góp phần thực hiện lộ trình cổ phần hóa DN 100% vốn
Nhà nước của Chính phủ. Lũy kế từ năm 2007 đến năm 2013, DATC đã mua nợ để tái
cơ cấu cho 89 DN khách nợ, gồm 62 DN đã hoàn thành và 27 DN đang triển khai thực
hiện (gồm: 33 DN 100% vốn Nhà nước và 29 Công ty Cổ phần, là những DN được cổ
phần hóa từ DN 100% vốn nhà nước và Nhà nước đang giữ cổ phần chi phối hoặc nhà
đầu tư chiến lược, các DN này có tiềm năng, thị trường phát triển), với giá trị các
Trang 19
khoản nợ theo sổ sách kế toán là 8.680 tỷ đồng, giá vốn mua nợ là 2.284 tỷ đồng (tỷ lệ
mua nợ bình quân là 26,3%), đã thu hồi được 2.245,6 tỷ đồng, đạt tỷ lệ thu hồi là
98,3% ( bao gồm cả chuyển nợ thành vốn góp cổ phần tại 62 DN tái cơ cấu thành công
là 709,3 tỷ đồng).
Hiện nay, DATC đã và đang triển khai mua bán nợ, xử lý tài chính, tái cơ cấu để
hỗ trợ cổ phần hóa cho khoảng 20 Tổng công ty là những DN 100% vốn Nhà nước
thành công ty cổ phần, tích cực góp phần thực hiện lộ trình cổ phần hóa DN 100% vốn
Nhà nước của Chính phủ.
Với VAMC, số nợ mua về rất lớn song có rất ít các khoản nợ được xử lý qua việc
tái cơ cấu DN. Tính đến hết tháng 8/2014, VAMC đã mua tổng cộng 58.937 tỷ đồng nợ
xấu, với 3.536 khoản nợ với giá trị mua là 48.976 tỷ đồng. VAMC đã phát hành 12.019
tỷ đồng trái phiếu đặc biệt trong 8 tháng đầu năm 2014, nâng tổng giá trị trái phiếu đặc
biệt đã phát hành lên 42.966 tỷ đồng.
3.4 Giải pháp cho thị trường mua bán nợ tại các NHTM Việt Nam
Để thúc đẩy thị trường mua bán nợ ở Việt Nam thật sự phát triển và đóng góp vai

trò quan trọng trong phát triển kinh tế, thiết nghĩ các cơ quan quản lý, NHTM, DN vay
vốn cần thực hiện một số biện pháp sau:
 Về phía cơ quan quản lý:
• Nhà Nước cần hoàn thiện khung pháp lý cho việc hình thành, phát triển và quản lý thị
trường mua bán nợ hoặc nợ xấu, gồm những quy định đặc thù so với thị trường vốn
nói chung để tạo thuận lợi cho việc mua và bán các khoản nợ và đặc biệt là nợ xấu.
Đồng thời, có các quy định đối với các TCTD trích lập dự phòng rủi ro,
• Đồng thời, Nhà Nước cần hoàn thiện các quy định tài chính về hoạt động sáp nhập,
hợp nhất, mua lại, cổ phần hóa, xóa nợ, cơ cấu lại nợ, hoán đổi nợ thành vốn chủ sở
hữu đối với DN. Đối với các giải pháp tái cấu trúc DN nhất là trong mua bán, sáp
nhập cần chú trọng tới sự tương thích về mô hình kinh doanh và tổ chức. Đối với các
khoản nợ xấu, NN cần có các quy định cụ thể trong việc quy định cách xử lý của các
NHTM và TCTD theo hướng tập trung bán nợ, khống chế thời gian xử lý nợ, nếu quá
thời hạn thì phải bán theo giá của các tổ chức thẩm định trung gian.
• Nhà Nước cần tăng cường giám sát hiệu quả chống nguy cơ lũng đoạn thị trường trong
hoạt động mua bán nợ. Hoạt động mua bán và sát nhập (M&A) của các công ty/NH
diễn ra theo hai hướng chính: thứ nhất là các công ty/ NH hoạt động yếu kém, nhỏ lẻ
Trang 20
và đáp ứng theo yêu cầu vốn tự có theo tiêu chuẩn Basel nhằm nâng cao sức cạnh
tranh và thứ hai là các đại gia trong ngành muốn nâng cao vị thế của mình ở thị
trường trong nước và vươn xa ra thế giới. Từ đó, thực tế sẽ tạo ra các tập đoàn kinh tế
lớn có khả năng thâu tóm và chi phối độc quyền đối với sự phát triển của ngành và tác
động không tốt đến nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Do đó, NN cần chú ý
thực hiện, một mặt khuyến khích các doanh nghiệp tiến hành các vụ M&A nhưng mặt
khác cũng cần ban hành các quy định pháp luật nhằm kiểm soát mức độ độc quyền,
chống gây nguy cơ lũng đoạn thị trường.
• Nhà Nước cần quốc tế hóa các chuẩn mực kế toán tạo hành lang cho thị trường mua
bán nợ hoạt động hiệu quả. Các chuẩn mực kế toán Việt Nam vẫn còn nhiều khác biệt
khá lớn so với chuẩn mực kế toán quốc tế. Chính vì vậy, trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế, VN cần quốc tế hóa các chuẩn mực kế toán của mình. Điều này tạo điều

kiện thuận lợi hơn rất nhiều trong việc chuyển đối các chuẩn mực kế toán và cũng xử
lý chính xác các khoản mục tài chính trong báo cáo tài chính, làm cơ sở cho công tác
định giá, M&A diễn ra thuận lợi , dễ dàng và hiệu quả hơn. Đối với việc trích lập dự
phòng trong DN và cách xử lý cũng như việc sử dụng các quỹ này. Đồng thời, hiện tại
Luật kinh tế Việt Nam chưa quy định chặt chẽ nên đã tạo điều kiện cho một số công
ty lợi dụng lách luật bằng cách trích lập dự phòng rất lớn nhằm làm giảm giá trị
doanh nghiệp,…Ngoài ra, các vấn đề kế toán rất phức tạp trong hoạt động M&A vì
liên quan đến lợi ích của 2 bên tham gia nhưng hiện nay chưa có văn bản nào quy
định vấn đề này một cách đầy đủ và chi tiết, đây là một thiếu sót rất lớn trong việc
hoàn thiện cơ chế trong hoạt động M&A.
• Nhà nước cần có cơ chế chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, NH nước
ngoài tham gia thị trường mua bán nợ. Các NH nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài
với tiềm lực tài chính mạnh, quản trị doanh nghiệp tốt, kinh nghiệm tốt mua lại các
NH yếu kém với tỷ lệ nợ xấu rất cao.
• NN cần ban hành các chính sách, quy định về miễn, giảm thuế mua, bán tài sản bảo
đảm của TCTD để xử lý nợ xấu của TCTD cũng như miễn giảm các loại thuế GTGT,
TNDN,…cho hoạt động mua bán nợ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của
thị trường mua bán nợ. Chính việc miễn thuế trong hoạt động M&A sẽ làm giảm tổn
Trang 21
thất về nợ xấu, thúc đẩy các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào thị trường mua bán nợ.
Đồng thời, thực hiện giải pháp này sẽ không làm giảm tốn kém cho NSNN.
• Lành mạnh hóa hoạt động mua bán nợ. Ngoài việc nâng cao trình độ chuyên môn,
nguồn lực tài chính và quy mô hoạt động của DATC trong việc xử lý nợ xấu và tài sản
tồn đọng của các DNNN thuộc diện sắp xếp lại, tái cấu trúc cũng như nâng cao vai trò
của DATC trong tái cấu trúc các DN thuộc các thành phần kinh tế khác trong đó ưu
tiên tái cấu trúc gắn với xử lý nợ xấu ngân hàng. Cần thiết phải cho phép thành lập
thêm các công ty mua bán nợ theo hướng xã hội hóa, ngoài DNNN mới tham gia
được vào thị trường này thì tư nhân cũng có thể được tham gia thông qua phát triển
thị trường trái phiếu để các công ty mua nợ rồi bán cho nước ngoài hoặc các tổ chức
đầu tư khác để tổ chức. Từ đó, nó góp phần đẩy nhanh quá trình giải quyết nợ xấu

trong nền kinh tế xuống mức thấp.
• NN cần thực hiện các giải pháp phát triển thị trường mua bán nợ (nhất là thị trường
thứ cấp) với sự đa dạng về công cụ và phương thức mua bán nợ. Đồng thời, cần hoàn
thiện quy định pháp luật về hoạt động mua bán nợ của DATC, VAMC cũng như các
tổ chức mua bán nợ hiện hành khác để các chủ thể này hoạt động hiệu quả. Mặt khác,
tạo điều kiện để các tổ chức xử lý nợ được mở rộng các chức năng phù hợp với yêu
cầu và nhiệm vụ phù hợp với bản chất các tổ chức này đồng thời khuyến khích số
lượng nhiều hơn các tổ chức tương tự DATC tham gia vào quá trình xử lý nợ gắn với
tái cấu trúc DN để xây dựng thị trường mua bán nợ tương xứng với quy mô nợ và nợ
xấu gắn với ngân hàng và DN ở Việt Nam hiện nay.
 Về phía NHTM:
• Các NHTM cần coi trọng đúng mức đến việc hạn chế nợ xấu nảy sinh như: rà soát
phân loại nợ, tiến tới việc phân loại nợ theo thông lệ quốc tế, hoàn thiện hệ thống tín
nhiệm nội bộ theo tiêu chuẩn Basel II tiến tới theo Basel III, giám sát định kỳ việc
triển khai hệ thống xếp hạng, nâng cao chất lượng thông tin đầu vào và nâng cấp hệ
thống công nghệ thông tin đảm bảo hoạt động có hiệu quả và tránh tình trạng sai sót
vô tình hay cố ý gây ảnh hưởng đến việc xếp hạng tín nhiêm sai và ra quyết định cho
vay không đạt chuẩn.
• TCTD cần có cơ chế chuyển nợ xấu thành vốn góp hoặc cổ phần của DN có nợ tại
TCTD, đồng thời tham gia cơ cấu lại DN. Theo đó, TCTD lập bộ phận chuyên trách
Trang 22
có trình độ quản trị về ngành nghề kinh doanh của DN khách nợ hoặc tìm kiếm đối
tác có được kỹ năng này để chủ động tham gia tái cấu trúc DN trước, trong và sau khi
chuyển nợ xấu thành vốn góp.
• Đồng thời, TCTD cần tích cực bán nợ xấu cho các tổ chức có kinh nghiệm, năng lực
và chức năng tái cấu trúc DN như DATC. Ngân hàng Nhà nước cần ban hành chính
sách và cơ chế cụ thể về quy trình NHTM Nhà nước bán cho DATC các khoản nợ xấu
của DNNN để xử lý trong quá trình sắp xếp, cơ cấu lại DNNN.
• NHTM cần xử lý từ nguồn trích lập dự phòng rủi ro theo quy định. Và cần chú trọng
việc tìm mọi biện pháp thích hợp nhằm thanh lý/phát mại tài sản bảo đảm cho các

khoản nợ xấu để thu hồi nợ.
• NHTM cần nhanh chóng xây dựng các quy định để thực hiện xếp hạng tín dụng nội bộ,
hướng theo thông lệ quốc tế. Song song với việc xây dựng, hoàn thiện xếp hạng tín
dụng nội bộ, cần có chính sách phát triển các đơn vị xếp hạng tín dụng độc lập làm cơ
sở tham chiếu chung trong công tác xếp hạng tín dụng. Kinh nghiệm của nhiều nước
trong khu vực cho thấy, việc phát triển các tổ chức xếp hạng tín dụng không do Nhà
nước quản lý để hạn chế việc chi phối của tổ chức hay cá nhân làm sai lệch kết quả
xếp hạng là rất quan trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
• NHTM cần nhanh chóng xử lý những bất ổn trong nội tại của một số ngân hàng, giám
sát dòng tiền luân chuyển trong nội bộ ngân hàng. Đây là một trong những nguyên
nhân cơ bản làm hệ thống ngân hàng luôn bất ổn, và tích tụ rủi ro hệ thống lớn. Khi
giám sát được dòng vốn ra khỏi vòng luẩn quẩn bởi một số ngân hàng, nợ xấu của các
ngân hàng thương mại có điều kiện được xử lý, điểm nghẽn về vốn sẽ được khắc
phục, việc tiếp cận vốn của DN sẽ dễ dàng hơn.
 Về phía DN:
• Giải quyết hàng tồn kho là vấn đề cấp bách hiện nay. Để xử lý hàng tồn kho, ngoài việc
hạ giá bán (chấp nhận lỗ) để thu hồi vốn về quay vòng thì một hình thức liên kết giữa
các DN, sử dụng các sản phẩm của nhau cũng là cách làm hiện nay.
• Bên cạnh đó, việc minh bạch thông tin tài chính, nâng cao khả năng quản trị DN, để
tạo niền tin trong quan hệ tín dụng với ngân hàng.
PHẦN IV: KHUYẾN NGHỊ
Theo quan điểm của Ủy ban Basel cho rằng sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng
của một quốc gia, cho dù quốc gia đó là nước phát triển hay đang phát triển, nó sẽ đe
Trang 23
dọa đến sự ổn định về tài chính trong nội bộ quốc gia đó. Vì vậy, nâng cao sức mạnh
của hệ thống tài chính là điều mà Ủy ban Basel quan tâm. Ủy ban Basel không chỉ bó
hẹp trong phạm vi các nước thành viên mà mở rộng mối liên hệ với các chuyên gia trên
toàn thế giới. Trên cơ sở tham khảo các nguyên tắc quản trị tín dụng của Basel, nhóm
cũng xin nêu một số gợi ý khuyến nghị nhằm góp phần hạn chế nợ xấu tại các ngân
hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay, như sau:

 Thứ nhất, NHTM cần áp dụng phương pháp phân loại nợ để có khả năng cảnh báo và
phòng ngừa sớm rủi ro tín dụng. Các ngân hàng cần phải xây dựng hệ thống xếp hạng
tín dụng nội bộ hỗ trợ cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng để từng bước
tiếp cận cách đánh giá rủi ro tín dụng và phân loại theo chuẩn quốc tế (Basel II) giúp
các ngân hàng nhận biết sớm được các khoản tín dụng có nguy cơ xảy ra rủi ro, từ đó
có thể đưa ra được các giải pháp để có thể hạn chế nợ xấu. Đối với những khoản nợ
vay đã phát sinh nợ xấu, Ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan thi hành án,
trung tâm đấu giá tài sản và các cơ quan bảo vệ pháp luật khác … để đẩy nhanh tiến độ
bán, xử lý các tài sản đảm bảo, thu hồi vốn.
 Thứ hai, NHTM cần thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng. Bản thân hoạt động tín
dụng luôn chứa đựng nguy cơ rủi ro tiềm ẩn, chính vì vậy, các ngân hàng khi xem xét
cho vay đều phải thực hiện nghiêm ngặt quy trình quản lý tín dụng: từ khâu thẩm định,
giải ngân cho vay đến các khâu kiểm tra trước và sau khi cho vay… Việc thực hiện và
quản lý nghiêm ngặt quy trình quản lý tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng tránh được rủi ro
các khoản nợ xấu phát sinh, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các sai phạm và các thiếu
sót trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
 Thứ ba, NHTM cần thẩm định tín dụng chặt chẽ. Trước khi cho vay cần thẩm định các
điều kiện như tính pháp lý, khả năng tài chính và tính khả thi của phương án, dự án vay
vốn từ đó lựa chọn ra những khách hàng tốt, khách hàng tiềm năng. Bên cạnh đó, căn
cứ vào cơ sở xếp loại khách hàng, mức dư nợ cũng như ngành nghề ưu tiên đầu tư,
Ngân hàng xem xét và đưa ra chính sách lãi suất phù hợp với từng đối tượng khách
hàng theo nguyên tắc khách hàng vay có độ rủi ro thấp, có số dư nợ lớn hay thuộc
ngành nghề ưu tiên đầu tư thì áp dụng lãi suất cho vay thấp, nới lỏng một số điều kiện
cho vay và ngược lại.
Trang 24
 Thứ tư, nâng cao vai trò của CIC và các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập: Để các
ngân hàng Việt Nam có thêm cơ sở để ra quyết định tín dụng, bên cạnh kết quả phân
tích tín dụng và kết quả xếp hạng tín nhiệm nội bộ của mình, rất cần có thêm thông tin
và kết quả xếp hạng tín nhiệm của CIC và các công ty xếp hạng tín nhiệm độc lập.
Mặc dù Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước ngày càng

phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng trong cung cấp thông tin về khách hàng,
thực hiện phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp, cung cấp các thông tin cảnh
báo…, góp phần quan trọng cho sự phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam vì mục
tiêu an toàn, hiệu quả nhưng những đòi hỏi về thông tin của các ngân hàng vẫn chưa
được đáp ứng một cách đáng tin cậy, nhanh chóng và kịp thời.
Tuy nhiên, việc hạn chế tỷ lệ nợ xấu của NHTM ngoài các khuyến nghị về hạn
chế nợ xấu, NHTM cần đẩy nhanh quá trình xử lý các nợ xấu đang tồn đọng thông qua
bán nợ cho các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Đồng thời, để thị trường mua
bán nợ hoạt động được, đòi hỏi các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) của
các ngân hàng thương mại phải hoạt động tích cực hơn và tuân thủ theo nguyên tắc thị
trường. Bên cạnh đó, các công ty này thực hiện trong khuôn khổ pháp lý trong quy
định rõ luật chơi cho những người tham gia, cách xử lý tài sản đảm bảo và để thị
trường vận hành, bản thân người mua và người bán phải có cơ chế làm việc với nhau.
Nhà nước cũng cần tăng cường năng lực cho Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC)
để tham gia tích cực vào quá trình xử lý nợ của các tổ chức tín dụng hiện nay.
Kết quả hoạt động mua bán nợ gắn với tái cơ cấu các doanh nghiệp cho thấy, đây
là hình thức xử lý nợ rất hiệu quả và đặc biệt thích hợp trong bối cảnh hiện nay của nền
kinh tế, khi mà rất nhiều doanh nghiệp trong nước đang gặp khó khăn trong hoạt động
sản xuất kinh doanh với gánh nặng nợ phải trả rất lớn và nợ xấu trong hệ thống ngân
hàng đang gia tăng nhanh chóng. Việc xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu doanh nghiệp sẽ
góp phần làm giảm bớt mức độ tiêu cực của khủng hoảng, đồng thời hỗ trợ đắc lực cho
quá trình tái cấu trúc các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Trang 25

×