Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Đánh giá khả năng triển khai cách tiếp cận nông nghiệp thông minh với khí hậu trong kế hoạch phát triển các vùng cà phê chè ở Tây Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (849.54 KB, 72 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SAU ĐẠI HỌC







NGUYỄN ANH TUẤN







ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG TRIỂN KHAI CÁCH TIẾP CẬNNÔNG
NGHIỆP THÔNG MINH VỚI KHÍ HẬU TRONG KẾ HOẠCH PHÁT
TRIỂN CÁC VÙNG CÀ PHÊ CHÈỞ TÂY NGUYÊN







LUẬN VĂN THẠC SĨ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU













HÀ NỘI– 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SAU ĐẠI HỌC







NGUYỄN ANH TUẤN






ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG TRIỂN KHAI CÁCH TIẾP CẬN
NÔNG NGHIỆP THÔNG MINH VỚI KHÍ HẬU TRONG KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN CÁC VÙNG CÀ PHÊ CHÈỞ TÂY NGUYÊN






LUẬN VĂN THẠC SĨ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Chuyên ngành: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Mã số: Chương trình đào tạo thí điểm





Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Nguyễn Văn Viết







HÀ NỘI – 2014



LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sỹ khoa học chuyên ngành Biến đổi khí hậu: “Đánh giá
khả năng triển khai cách tiếp cận nông nghiệp thông minh với khí hậu trong
kế hoạch phát triển các vùng cà phê chè ở Tây Nguyên”được hình thành và
hoàn thiện, ngoài nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được những sự trợ giúp tận

tình của thầy cô, đồng nghiệp, bạn bè và gia đình.
Đầu tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS. Nguyễn
Văn Viết, người đã tận tình hướng dẫn học viên từ khi hình thành ý tưởng và
hoàn thiện luận văn. Bên cạnh đó là sự góp ý chân thành và bổ ích của PGS.TS.
Phạm Văn Cự, TS. Bùi Đại Dũng và TS. Ngô Đức Thành trong quá trình phản
biện đề cương. Tôi cũng xin cảm ơn những ý kiến đóng góp của hội động chấm
luận văn thạc sỹ do GS.TS. Phan Văn Tân làm chủ tịch đã giúp tôi nhận thức
và chỉnh sửa luận văn của mình được hoàn chỉnh hơn.
Tôi cũng hết sức biết ơn lãnh đạo và toàn thể cán bộ của 2 đơn vị thuộc
Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường: Trung tâm Nghiên cứu
Khí tượng Nông nghiệp - nơi tôi đang công tác, và Trung tâm Nghiên cứu Khí
tượng - Khí hậu đã tạo điều kiện thuận lợi và cung cấp tài liệu, số liệu giúp học
viên hoàn thành luận văn này.
Cũng trong quá trình học tập và làm luận văn, tôi đã nhận được sự giúp
đỡ, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo và cán bộ Khoa sau đại học - Đại học
Quốc gia Hà Nội và đặc biệt là tập thể lớp K1-BĐKH, đây là những động lực cả
về chuyên môn lẫn tinh thần giúp tôi có thể vượt qua những khó khăn trong quá
trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, những người đã luôn ở bên
học viên từ khi được sinh ra cho đến ngày hôm nay!
Hà Nội, ngày 29 tháng 08 năm 2014
Học viên





Nguyễn Anh Tuấn



MỤC LỤC

STT Nội dung Trang

Danh mục ký hiệu viết tắt 1
Danh mục bảng 2
Danh mục hình 3

Mở đầu 4
1 Tính cấp thiết của đề tài 4
2 Mục tiêu của đề tài 7
2.1 Mục tiêu tổng quát 7
2.2 Mục tiêu cụ thể 7
3 Phạm vi nghiên cứu 7
4 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 8
5 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 8
6 Cấu trúc của luận văn 8
1 Chương 1: Tổng quan về cách tiếp cận nông nghiệp
thông minh với khí hậu
9
1.1 An ninh lương thực và Biến đổi khí hậu - Những thách
thức đối với nông nghiệp
9
1.1.1 Bảo đảm an ninh lương thực 9
1.1.2 Tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp 11
1.1.3 Tác động của nông nghiệp đến biến đổi khí hậu 12
1.2 Hướng đến các hệ thống hiệu quả và có sức chống chịu tốt
hơn
14
1.2.1 Các hệ thống sử dụng hiệu quả tài nguyên 14

1.2.2 Các hệ thống có sức chống chịu tốt hơn 16
1.2.2.1 Những rủi ro 17
1.2.2.2 Tính dễ bị tổn thương 19
1.2.2.3 Sức chống chịu 20
1.2.2.4 Xây dựng sức chống chịu 21
1.2.3 Hiệu quả và sức chống chịu 22
1.2.3.1 Cách tiếp cận cảnh quan 24
1.2.3.2 Cách tiếp cận theo chuỗi giá lương thực 25
1.3 Nhận định về cách tiếp cận nông nghiệp thông minh với
khí hậu
27
2 Chương 2: Đánh giá sơ bộ khả năng đáp ứng về điều kiện
tự nhiên cho việc thực hiện nông nghiệp thông minh
trong các dự án phát triển cà phê chè ở Tây Nguyên
29
2.1 Tổng quan về điều kiện tự nhiên khu vực Tây Nguyên 29
2.2 Dẫn luận những nội dung nghiên cứu chính 30
2.2.1 Sơ bộ phân vùng khí hậu nông nghiệp Tây Nguyên và việc
đơn giản hóa các chỉ tiêu cho cây cà phê chè
30
2.2.2 Đánh giá điều kiện thổ nhưỡng với định hướng khả năng cố
định carbon trong đất
34

2.3 Kết quả đánh giá 37
2.3.1 Nguồn số liệu 37
2.3.2 Các kết quả 38
2.3.3 Đánh giá chung 44
3 Chương 3: Đánh giá mức độ phù hợp về mặt chính sách
để phát triển các vùng cà phê chè theo cách tiếp cận nông

nghiệp thông minh
45
3.1 Chính sách biến đổi khí hậu và nông nghiệp trên thế giới 45
3.1.1 Tài chính 45
3.1.2 Công nghệ 46
3.1.3 Xây dựng năng lực và tăng cường thể chế 47
3.2 Chính sách biến đổi khí hậu và nông nghiệp ở Việt Nam 49
3.2.1 Giai đoạn trước NTP 2008 49
3.2.2 Giai đoạn thực hiện NTP 2008 50
3.2.3 Giai đoạn thực hiện Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu
năm 2011
53
3.3 Cơ hội chính sách biến đổi khí hậu và nông nghiệp 58
3.3.1 Xây dựng cơ sở niềm tin - chỉ rõ những hành động cụ thể
theo từng quốc gia
59
3.3.2` Thiết kế những chính sách quốc gia tạo điều kiện cho việc
chấp nhận các kỹ thuật mới
59
3.3.3 Thiết kế những chính sách quốc gia có tính liên kết và phối
hợp
60
3.3.4 Xây dựng, sắp xếp thể chế quốc gia có khả năng hỗ trợ 60
3.3.5 Tiếp cận tài chính và đầu tư 61
3.3.6 Các chiến lược quốc gia và khung hành động 62
3.4 Đánh giá chung 62
4 Kết luận và kiến nghị 64
Tài liệu tham khảo 66













DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

ANLT
An ninh lương thực
ANLT&DD

An ninh lương thực và dinh dưỡng
BĐKH
Biến đổi khí hậu
CDM
Cơ chế phát triển sạch
COPs
Hội nghị các bên về biến đổi khí hậu
CSA
Nông nghiệp thông minh với khí hậu
CTCN
Trung tâm và Mạng lưới công nghệ khí hậu
DDSH
Đa dạng sinh học
KNK

Khí nhà kính
FAO
Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên hiệp quốc
GDP
Tổng thu nhập quốc nội
HLPE
Ban chuyên gia cao cấp
HST
Hệ sinh thái
IFAD
Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế
IPCC
Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu
KT-XH
Kinh tế - Xã hội
KTX
Kinh tế xanh
NAMAs
Kế hoạch hành động giảm nhẹ phù hợp với điều kiện quốc gia
NAPAs
Kế hoạch hành động thích ứng phù hợp với điều kiện quốc gia
NN&PTNT
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
NTP
Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu
ODA
Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức
OECD
Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển
PTBV

Phát triển bền vững
REDD
Giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng
và suy thoái rừng
SLM
Quản lý đất đai bền vững
TEC
Hội đồng điều hành công nghệ
TM
Cơ chế công nghệ
TNTN
Tài nguyên thiên nhiên
UNFCCC
Công ước khung của Liên hiệp quốc về Biến đổi khí hậu
WFP
Chương trình lương thực thế giới








DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1

Các chỉ tiêu khí hậu cơ bản với cây cà phê chè 34
Bảng 2.2


Các nhóm đất chính ở Tây Nguyên 34
Bảng 2.3

Các nhân tố thổ nhưỡng cơ bản ảnh hưởng đến khả năng cố
định carbon trong đất (độ sâu 30 cm)
37
Bảng 2.4

Tỷ lệ diện tích phù hợp trồng cà phê chè về mặt khí hậu
theo tỉnh (thời kỳ cơ sở, %)
39
Bảng 2.5

Tỷ lệ diện tích phù hợp trồng cà phê chè về mặt khí hậu
theo tỉnh (thời kỳ dự tính, %)
40
Bảng 2.6

Tỷ lệ diện tích đất phù hợp triển khai CSA (%) 41
Bảng 2.7

Tỷ lệ diện tích phù hợp về khí hậu và thổ nhưỡng cho việc
triển khai CSA (thời kỳ cơ sở, %)
42
Bảng 2.8

Tỷ lệ diện tích phù hợp về khí hậu và thổ nhưỡng cho việc
triển khai CSA (thời kỳ dự tính, %)
43





















DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1

Sơ đồ phân vùng khí hậu nông nghiệp Tây Nguyên 33
Hình 2.2

Các nhóm đất chính vùng Tây Nguyên 35
Hình 2.3


Phân vùng thích nghi khí hậu cho cây cà phê chè - thời kỳ
cơ sở 1990-2010 (%)
39
Hình 2.4

Phân vùng thích nghi khí hậu cho cây cà phê chè - thời kỳ
dự tính 2020-2040 (màu đậm: thích hợp, màu nhạt: không
thích hợp)
40
Hình 2.5

Các vùng thổ nhưỡng thích hợp cho việc triển khai CSA 41
Hình 2.6

Các vùng thích hợp về khí hậu và thổ nhưỡng cho việc triển
khai CSA trong thời kỳ cơ sở (màu đậm: thích hợp, màu
nhạt: không thích hợp)
42
Hình 2.7

Các vùng thích hợp về khí hậu và thổ nhưỡng cho việc triển
khai CSA trong thời kỳ dự tính (màu đậm: thích hợp, màu
nhạt: không thích hợp)
43





















MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là nền tảng thiết yếu của an ninh lương thực (ANLT), hơn
thế nữa, ở nhiều quốc gia, nó còn là một nguồn quan trọng đóng góp vào tổng
thu nhập. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH), các hệ thống nông nghiệp
khác nhau luôn phải chịu các tác động theo thời gian. Và hơn nữa, ở Việt Nam,
nông nghiệp là ngành phát thải khí nhà kính (KNK) lớn nhất, đó là chưa kể
những mối liên quan mật thiết của lĩnh vực này với hai lĩnh vực khác là năng
lượng và sử dụng đất-lâm nghiệp.
Trên bình diện quốc tế, nhất là đối với các nước đang phát triển, các tổ
chức lớn trên thế giới đều thống nhất đặt lĩnh vực nông nghiệp làm “trái tim”
trong chính sách BĐKH. Với quan điểm đó, Tổ chức Lương thực và Nông
nghiệp Liên hiệp quốc (Food and Agriculture Organization - FAO, 2010) đã đưa
ra cách tiếp cận mới về nông nghiệp trong bối cảnh BĐKH: nông nghiệp thông
minh với khí hậu (Climate-Smart Agriculture - CSA), được định nghĩa là nền

nông nghiệp làm tăng sản lượng, sức chống chịu (thích ứng với BĐKH), giảm
phát thải KNK một cách ổn định và góp phần thực hiện các mục tiêu ANLT
cũng như các mục tiêu phát triển khác của quốc gia.
Ở Việt Nam, các chính sách của ngành nông nghiệp và phát triển nông
thôn (NN&PTNT) cũng đang hướng đến những mặt khác nhau của cách tiếp cận
này. Tiêu biểu là những chính sách sau:
- Quyết định số 543/QĐ-BNN-KHCN ngày 23 tháng 03 năm 2011 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Ban hành Kế hoạch hành động ứng phó
với BĐKH của ngành NN&PTNT giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến 2050
với mục tiêu chung là nâng cao năng lực ứng phó với BĐKH của ngành
NN&PTNT giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến 2050, nhằm giảm thiểu mức
độ thiệt hại do BĐKH và tham gia giảm phát thải KNK, đảm bảo được sự phát
triển bền vững (PTBV) các lĩnh vực thuộc ngành trên phạm vi toàn quốc; bảo vệ

cuộc sống của nhân dân, phòng, tránh, giảm nhẹ thiên tai do BĐKH, nước biển
dâng gây ra, đồng thời tạo ra cơ hội phát triển bền vững các lĩnh vực của ngành
NN&PTNN trong điều kiện BĐKH, trong đó chú trọng đến:
+ Ổn định, an toàn dân cư cho các thành phố, các vùng, miền, đặc biệt là
vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, ven biển miền Trung;
+ Sản xuất nông, lâm, diêm nghiệp và thuỷ sản ổn định, ít phát thải và
PTBV;
+ Bảo đảm ANLT, ổn định diện tích đất lúa 3,8 triệu ha, trong đó ít nhất
3,2 triệu ha canh tác lúa 2 vụ trở lên;
+ Đảm bảo an toàn hệ thống đê điều, các công trình dân sinh, hạ tầng kinh
tế kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai;
+ Giữ vững mức độ tăng trưởng ngành 20%, giảm tỷ lệ đói nghèo 20% và
giảm phát thải KNK 20% trong từng giai đoạn 10 năm.
- Quyết định số 3119/QĐ-BNN-KHCN ngày 16 tháng 12 năm 2011 Phê
duyệt đề án giảm phát thải KNK trong nông nghiệp, nông thôn đến năm 2020
với mục tiêu:

+ Thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp xanh theo hướng an toàn, ít
phát thải, PTBV, đảm bảo ANLT quốc gia, góp phần giảm nghèo và ứng phó có
hiệu quả với BĐKH;
+ Đến năm 2020, giảm phát thải 20% lượng KNK trong nông nghiệp,
nông thôn; đồng thời đảm bảo mục tiêu tăng trường ngành và giảm tỷ lệ đói
nghèo theo chiến lược phát triển ngành.
- Quyết định số 799/QĐ-TTg ngày 27 tháng 06 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ Phê duyệt chương trình hành động quốc gia về “Giảm phát thải KNK
thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững tài
nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các bon rừng” (REDD+) giai đoạn
2011-2020.
Dự án chính thức đầu tiên của Việt Nam về CSA là “Nông nghiệp thích
ứng thông minh với khí hậu” có tổng ngân sách 5,3 triệu Euro, được thực hiện

tại Malawi, Việt Nam, và Zambia, nhằm chuyển tiếp sang cách tiếp cận “thích
ứng thông minh với khí hậu" trong hoạt động nông nghiệp. Liên minh Châu Âu
tài trợ 3,3 triệu Euro cho nỗ lực này, FAO đóng góp 2 triệu Euro còn lại. Cơ
quan đồng thực hiện phía Việt Nam là Viện Khoa học Nông lâm nghiệp Miền
núi Phía bắc (NOMAFSI), thuộc Bộ NN&PTNT. Các hoạt động của dự án đã và
đang diễn ra tại Điện Biên, Sơn La, và Yên Bái. Hướng mục tiêu của dự án sẽ
dựa trên 2 yếu tố chính: (1) Các vùng có tổn thương do BĐKH, đối với nông
nghiệp là rủi ro chính đối với ANLT ở cấp độ hộ gia đình và (2) Những khu vực
có đủ số liệu để phân tích các rào cản chấp nhận hoạt động CSA và cung cấp các
tư vấn về chính sách dựa trên bằng chứng.
Tuy nhiên, với những mục tiêu của CSA trong tích hợp các thách thức và
cơ hội của BĐKH vào các kế hoạch phát triển nông nghiệp, việc xây dựng các
chiến lược CSA quốc gia từ những chiến lược và chính sách phát triển nông
nghiệp hiện có là rất cần thiết (FAO, 2012a). Nhìn chung, các chiến lược quốc
gia về phát triển nông nghiệp và BĐKH đều đã có những nội dung hỗ trợ cho
việc phát triển và thực thi CSA. Do đó, xây dựng một chiến lược CSA quốc gia

là một cơ hội để thúc đẩy sự phối hợp giữa các bên liên quan chủ chốt làm việc
trong lĩnh vực nông nghiệp và BĐKH, mang lại cho họ cơ hội cùng nhau tạo ra
một tầm nhìn tổng thể về phát triển nông nghiệp trong bối cảnh BĐKH.
Mặc dù vậy, với thực tế ở Việt Nam, cần một cách tiếp cận trung gian,
làm cầu nối trước khi xây dựng một chính sách CSA ở cấp độ quốc gia. FAO
(2012c) đã đề xuất cách tiếp cận cảnh quan để lồng ghép CSA. Cảnh quan
thường bao gồm một tập hợp duy nhất các đặc trưng kinh tế-xã hội và sinh thái
cũng như sự tương tác giữa chúng. Tuy nhiên, với phạm vi của một luận văn
thạc sỹ, cách tiếp cận này đã được đơn giản hoá với nội dung chủ yếu là việc
phát triển các vùng cà phê chè ở Tây Nguyên. Điều này đảm bảo về mặt sinh
thái của khu vực là một vùng riêng biệt của Việt Nam và việc phát triển các
vùng cà phê chè ở Tây Nguyên cũng đang là một hướng đi mới, nên luận văn sẽ
có những ý nghĩa nhất định đối với quy hoạch của vùng. Hơn nữa, cà phê chè
cũng là cây có giá trị kinh tế lớn hơn cà phê vối, do vậy, nếu tích hợp được cách

tiếp cận CSA vào các kế hoạch phát triển loại cây này, những đồng lợi ích sẽ
được phát huy một cách rõ ràng hơn. Với những lý do đó, đề tài :“Đánh giá khả
năng triển khai cách tiếp cận nông nghiệp thông minh với khí hậu trong kế
hoạch phát triển các vùng cà phê chè ở Tây Nguyên” đã được lựa chọn.
2. Mục tiêu của đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá được khả năng triển khai cách tiếp cận nông nghiệp thông minh
với khí hậu trong kế hoạch phát triển các vùng cà phê chè ở Tây Nguyên.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được mức độ phù hợp về điều kiện tự nhiên để phát triển các
vùng cà phê chè theo cách tiếp cận CSA;
- Đánh giá mức độ phù hợp về mặt chính sách để phát triển các vùng cà
phê chè theo cách tiếp cận CSA.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: khu vực Tây Nguyên (về mặt hành chính gồm 5 tỉnh Kon

Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng);
- Thời gian: tối đa 50 năm (1981-2030);
- Giới hạn nội dung nghiên cứu:
+ Điều kiện tự nhiên: điều kiện sinh thái của cây cà phê chè (đặc biệt là
khí hậu), những tác động của BĐKH, khả năng giảm phát thải KNK;
+ Bối cảnh chính sách: các chính sách phát triển nông nghiệp và BĐKH
trong nước;
+ CSA: theo lý thuyết của FAO.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: cách tiếp cận CSA của FAO;
- Các phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp đánh giá tác động của BĐKH đến nông nghiệp;
+ Phương pháp phân tích không gian;

+ Phương pháp phân tích, lồng ghép chính sách theo hướng dẫn của FAO.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học: Đưa ra phương pháp luận để đánh giá khả năng phát triển
một cây trồng cụ thể trong bối cảnh BĐKH;
- Đóng góp thực tiễn: Kết quả đề tài là cơ sở để quy hoạch phát triển vùng cà
phê chè ở Tây Nguyên; là tiền để để xây dựng chiến lược CSA quốc gia cho
Việt Nam.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận-kiến nghị, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về cách tiếp cận nông nghiệp thông minh với khí hậu;
Chương 2: Đánh giá sơ bộ khả năng đáp ứng về điều kiện tự nhiên cho việc
thực hiện nông nghiệp thông minh với khí hậu trong các dự án phát triển cà phê
chè ở Tây Nguyên;
Chương 3: Đánh giá mức độ phù hợp về mặt chính sách để phát triển các vùng
cà phê chè theo cách tiếp cận nông nghiệp thông minhvới khí hậu.
















CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁCH TIẾP CẬN NÔNG NGHIỆP
THÔNG MINH VỚI KHÍ HẬU

1.1. An ninh lương thực và Biến đổi khí hậu - Những thách thức đối với
nông nghiệp
Nông nghiệp và các hệ thống sản xuất lương thực cần phải cải thiện và đảm bảo
ANLT, để làm được điều đó chúng cần phải thích ứng với BĐKH cũng như góp
phần giảm nhẹ BĐKH. Những thách thức này đang được liên kết với nhau và
cần phải được giải quyết liên tục (FAO, 2013).
1.1.1. Bảo đảm an ninh lương thực
Thế giới đang sản xuất đủ lương thực nhưng trong giai đoạn 2010-2012 vẫn có
gần 870 triệu người thiếu ăn (FAO và ctv, 2012). Thêm vào đó, 1 tỷ người khác
bị suy dinh dưỡng, thiếu những vi chất cần thiết. Mâu thuẫn là trong cùng một
thời điểm, phần lớn dân số - chủ yếu là ở những nước giàu - dư thừa dinh
dưỡng, gây nên những vấn đề sức khoẻ lâu dài và 60% những người suy dinh
dưỡng thực tế là các nhà sản xuất lương thực, các nông hộ. Với những người sản

xuất nghèo, lương thực không chỉ là nhu cầu cơ bản mà nó còn là thứ duy nhất
giúp họ duy trì sinh kế. Có 32 nước, 20 trong số đó ở châu Phi, đối mặt với
khủng hoảng lương thực và cần sự hỗ trợ quốc tế khẩn cấp. Ở hầu hết những
nước này, nông nghiệp là một phần quan trọng, nếu không nói là chủ yếu, của
nền kinh tế.
Từ nay đến năm 2050, dân số thế giới sẽ tăng thêm 1/3. Hầu hết trong số 2 tỷ
người này sẽ sống ở những nước đang phát triển. Trong khi đó, nhiều người sẽ
sống ở thành phố hơn (70% so với 50% hiện tại). Toàn cầu hoá và tăng thu nhập
ở những nước đang phát triển đang dẫn đến sự tăng tiêu dùng các sản phẩm
động vật (FAO, 2009a). Ngoài những xu thế trên, FAO ước tinh sản xuất nông
nghiệp phải tăng 60% vào năm 2050 để đáp ứng nhu cầu lương thực và thức ăn.
Nhu cầu nhiên liệu sinh học, một nhân tố quan trọng khác cho thị trường toàn
cầu, rất phụ thuộc vào các chính sách quốc gia và được cho là sẽ tăng.

Theo định nghĩa về ANLT tại Hội nghị thượng đỉnh về lương thực thế giới năm
1996, ANLT tồn tại khi tất cả mọi người, ở mọi thời điểm có khả năng tiếp cận
với lương thực (cả về tự nhiên và kinh tế) đủ an toàn và dinh dưỡng đáp ứng các
nhu cầu bữa ăn và sở thích lương thực cho một cuộc sống năng động và khỏe
mạnh. Từ định nghĩa này có thể nhận dạng 4 chiều cạnh chính của ANLT:
- Sự sẵn có tự nhiên của lương thực: Sự sẵn có lương thực giải quyết mặt cung
ứng của khái niệm ANLT và được xác định bởi mức độ sản xuất lương thực, các
cấp độ dự trữ và mạng lưới thương mại;
- Tiếp cận kinh tế và tự nhiên với lương thực: Một sự cung ứng lương thực phù
hợp ở cấp độ quốc gia và quốc tế không tự nó đảm bảo ANLT ở cấp độ hộ gia
đình, những mối quan tâm về khả năng tiếp cận không hợp lý đã dẫn đến một sự
tập trung chính sách lớn hơn đến thu nhập, chi tiêu, thị trường và giá cả để đạt
được các mục tiêu ANLT;
- Sử dụng lương thực: Sử dụng thường được hiểu là cách mà cơ thể tạo ra hầu
hết các chất dinh dưỡng khác nhau từ lương thực. Sự hấp thụ năng lượng và
dinh dưỡng phù hợp bởi mỗi người là kết quả của các thực hành chăm sóc và ăn

uống tốt, chuẩn bị lương thực, sự đa dạng hóa bữa ăn và sự phân phối lương
thực trong hộ gia đình. Kết hợp với việc sử dụng lương thực sinh học, điều này
sẽ xác định hiện trạng dinh dưỡng của cá nhân;
- Sự ổn định của các chiều cạnh trên theo thời gian: Kể cả nếu sự hấp thụ lương
thực của con người phù hợp hàng ngày, một người vẫn có thể bị xem là bất
ANLT nếu không được tiếp cận phù hợp với lương thực hàng ngày. Các điều
kiện thời tiết bất lợi, sự bất ổn chính trị hoặc các nhân tố kinh tế (thất nghiệp,
tăng giá lương thực) có thể có tác động đến hiện trạng ANLT.
Với mục tiêu là đảm bảo ANLT trên toàn thế giới, việc đảm bảo sự sẵn có lương
thực và sự phù hợp trong sản xuất toàn cầu là chưa đủ, chúng ta cũng cần đảm
bảo đủ lương thực mà mọi người đều có khả năng tiếp cận ở bất cứ nơi nào, cả
về tự nhiên và kinh tế. Thêm vào đó, chúng ta cần đảm bảo rằng lương thực này
được sử dụng phù hợp với đúng chất lượng và sự đa dạng. Do đó cần phải

thưởng xuyên đảm bảo 3 hợp phần ANLT&: sự sẵn có, khả năng tiếp cận và sử
dụng.
1.1.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp
BĐKH đã có những tác động đáng kể đến nông nghiệp và được cho là sẽ tác
động nhiều hơn một cách trực tiếp và gián tiếp đến sản xuất lương thực. Sự tăng
nhiệt độ trung bình, những thay đổi trong chế độ mưa, tăng các dao động của
nhiệt độ và phân bố mưa, thay đổi sự sẵn có của nước, nhiễu động trong các hệ
sinh thái (HST) sẽ có những tác động mạnh mẽ đến nông nghiệp, lâm nghiệp và
ngư nghiệp. Sự tăng cường của những tác động này sẽ phụ thuộc không chỉ vào
cường độ và thời gian của những thay đổi mà còn vào sự kết hợp của chúng
trong điều kiện địa phương. Việc dự đoán phù hợp những tác động của BĐKH
đến nông nghiệp cần dữ liệu, công cụ và mô hình ở quy mô không gian phù hợp
với diện tích sản xuất thực tế.
Những tác động của BĐKH sẽ có những ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông
nghiệp với sự giảm sản xuất ở vùng này nhưng lại sẽ làm tăng sản xuất và mở
rộng canh tác cây trồng ở vùng khác. Nói rộng hơn, BĐKH có thể sẽ làm tăng

trong cả sản lượng trồng trọt và chăn nuôi ở những vùng vĩ độ trung bình đến
cao (IPCC, 2007a) và sự giảm ở những vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Các
vùng bị ảnh hưởng nhiều nhất là các nước bị tổn thương kinh tế vốn đã ở trong
tình trạng bất ANLT và một số nước xuất khẩu lương thực quan trọng. Điều này
sẽ tạo ra những thay đổi đáng kể trong thương mại, tác động đến giá và hiện
trạng mạng lưới nhập khẩu lương thực. Do đó, BĐKH được cho là sẽ tăng
khoảng cách giữa những nước phát triển và đang phát triển như là kết quả của
những tác động ngày càng khắc nghiệt ở những vùng đang phát triển vốn đã bị
tổn thường, cùng với năng lực kỹ thuật và kinh tế tương đối thấp để ứng phó với
những mối đe doạ mới (Padgham, 2009).
Về mặt tác động, cần thiết phải phân biệt giữa sự gia tăng các dao động và
những thay đổi xuất hiện chậm. Các tác động tiềm tàng của sự gia tăng các dao
động thường ít được nhấn mạnh hơn những thay đổi xuất hiện chậm vì nhiều lý
do. Những tác động của sự gia tăng các dao động được đặt giữa nhóm cực trị và

nhóm dao động thực tế. Một hiện tượng cực đoan chính xác là gì? Điều gì làm
cho một hiện tượng được xem là cực đoan? Đó có phải là cường độ, tần suất của
một hiện tượng khí tượng? Với nông nghiệp, một sự thay đổi nhỏ với nhiệt độ ở
giai đoạn mấu chốt của sự sinh trường cây trồng có thể đe doạ đến năng suất,
sản lượng. Do đó, việc phân biệt giữa 2 nhóm tác động này là quan trọng để
nhấn mạnh 2 cách thích ứng, với các khoảng thời gian khác nhau: tăng sức
chống chịu cho những dao động mạnh hơn và tăng năng lực thích ứng và phòng
ngừa cho những thay đổi xuất hiện chậm. Hơn nữa, việc chuẩn bị cho sự tăng
các dao động cũng là một cách chuẩn bị cho bất cứ sự thay đổi nào khác.
1.1.3. Tác động của nông nghiệp đến biến đổi khí hậu
Ngành nông nghiệp phải sản xuất nhiều lương thực hơn và nó sẽ chịu những tác
động nhất định do BĐKH. Là một phần thiết yếu của kinh tế, nó cũng được kêu
gọi đóng góp vào việc giảm nhẹ BĐKH (UNFCCC, 2008). Câu hỏi đặt ra là các
hệ thống nông nghiệp và lương thực có thể đóng góp vào giảm nhẹ BĐKH như
thế nào mà không ảnh hưởng đến ANLT&DD.

Vào năm 2005, nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi) chiếm 13,5% lượng phát
thải KNK toàn cầu (IPCC, 2007b). Con số này dựa trên các hoạt động diễn ra
trên đồng ruộng và chăn nuôi. Nhưng vai trò của nông nghiệp trong BĐKH và
đặc biệt là tiềm năng giảm nhẹ của nó cần được xem xét ở phương diện rộng
hơn là các hệ thống lương thực. Chúng bao gồm tác động của các hệ thống này
đến rừng, năng lượng và giao thông. Mở rộng sự quan tâm về vai trò của nông
nghiệp trong BĐKH là hợp lý vì một vài trong số các loại hình phát thải nông
trại không nằm trong số 13.5% nhưng được nhóm vào các lĩnh vực khác như
điện năng được sử dụng trong các công trình ở nông trại và nhiên liệu sử dụng
trong các thiết bị nông trại và vận chuyển lương thực. Nông nghiệp cũng là một
nguyên nhân chính của việc phá rừng, được tính đến 17% phát thải KNK toàn
cầu (IPCC, 2007b). Đó là lý do tại sao nông nghiệp nằm trong những nghiên cứu
về các nguyên nhân phá rừng được yêu cầu bởi COP 17. Cuối cùng, trong các hệ
thống lương thực, việc giảm phát thải ở một số lĩnh vực này có thể dẫn đến tăng
ở lĩnh vực khác. Ví dụ, dựa vào hiệu quả của các hệ thống sản xuất, các chuỗi

lương thực ngắn hơn có thể giảm chi phí vận tải nhưng lại tăng phát thải trong
nông nghiệp. Do đó, khi nhìn nhận những thách thức và cơ hội giảm phát thải
KNK từ nông nghiệp, cần thiết phải đánh giá ngoài nông trại, theo toàn bộ chuỗi
lương thực và qua quá trình sử dụng đất.
Các nguồn phát thải KNK trực tiếp trong ngành nông nghiệp không chỉ là CO
2
.
Nông nghiệp là một nguồn N
2
O, chiếm 58% tổng phát thải, chủ yếu từ đất và
thông qua sử dụng phân bón và CH
4
, chiếm 47% tổng phát thải, chủ yếu từ chăn
nuôi và canh tác lúa. Những nguồn này phụ thuộc vào các quá trình tự nhiên và

hoạt động nông nghiệp - làm cho chúng thêm khó kiểm soát và đo lường. Nói
cách khác, nông nghiệp là một ngành quan trọng mà, cùng với lâm nghiệp, nếu
được quản lý hiệu quả có thể dẫn đến sự cố định và lưu trữ carbon trong sinh
khối và đất, gọi là các bể carbon. Việc quản lý chúng có thể đóng một vai trò
thiết yếu trong quản lý BĐKH (IPCC, 2007b).
Do sản xuất nông nghiệp được dự tính sẽ tăng ở những nước đang phát triển nên
phát thải trong nông nghiệp cũng sẽ tăng. IPCC ước tính phát thải N
2
O sẽ tăng
35-60% vào năm 2030 và CH
4
là 60% (IPCC, 2007b). IPCC cũng dự tính diện
tích đất tiếp tục được chuyển đổi sang nông nghiệp.
Có 2 cách để sản xuất nông nghiệp góp phần giảm nhẹ BĐKH mà vẫn song
hành cùng mục tiêu ANLT. Cách thứ nhất là cải thiện hiệu quả thông qua việc
tách hẳn sự tăng trưởng sản xuất ra khỏi sự tăng phát thải. Nó liên quan đến
giảm phát thải trên kg sản phẩm lương thực (bao gồm trong cách tính toán này là
những ảnh hưởng phát thải từ việc giảm phá rừng trên kg lương thực). Cách thứ
hai là tăng cường các bể carbon trong đất. IPCC ước tính tiềm năng giảm nhẹ kỹ
thuật toàn cầu từ nông nghiệp có thể đạt tương đương 5500-6000 tấn CO
2
/năm
vào năm 2030 (IPCC, 2007b). Con số này tương đương ¾ tổng phát thải của
ngành trong năm 2030 (khoảng 8200 tấn CO
2
). Khoảng 70% trong đó được nhận
dạng có tiềm năng ở các nước đang phát triển, 20% ở các nước OECD. IPCC
ước tính 9/10 tiềm năng phát thải toàn cầu trong nông nghiệp là có sự kết nối với
việc quản lý các bể carbon trong đất. Nó liên quan đến việc tăng cường cố định


carbon trong đất, giảm làm đất, cải thiện quản lý chăn thả, phục hội hữu cơ trong
đất và đất thoái hoá.
Việc giảm phát thải trên kg của một sản phẩm nhất định cũng có lợi cho ANLT
và nông nghiệp, một trong những mục tiêu lớn. Các kết quả trực tiếp thông qua
tăng hiệu quả cũng ẩn chứa một loạt các kết quả gián tiếp khác. Những kết quả
này gồm việc giảm phát thải từ phá rừng do việc sản xuất sử dụng ít đất đai hơn.
Những lợi ích gián tiếp còn bao gồm việc giảm phát thải từ sản xuất phân bón
hoặc đầu vào năng lượng sử dụng trong nông trại. Tiềm năng giảm tương đương
770 tấn CO
2
/năm vào 2030 đã được nhận dạng từ việc giảm sử dụng nhiên liệu
hóa thạch thông qua cải thiện hiệu quả năng lượng nông trại (IPCC, 2007b).
Thêm vào đó, có những tiềm năng giảm phát thải thông qua cải thiện hiệu quả
trong các chuỗi lương thực, bao gồm cả giảm thất thoát sau thu hoạch.
Để giải quyết những thách thức trên, các hệ thống lương thực cần phải hướng
đến việc hoạt động hiệu quả hơn và được xây dựng sức chống chịu tốt hơn, điều
này sẽ được thảo luận ở phần 1.2 của luận văn.
1.2. Hướng đến các hệ thống hiệu quả và có sức chống chịu tốt hơn
Để giải quyết 3 thách thức đan xen, các hệ thống lương thực cần trở nên hiệu
quả và có sức chống chịu tốt hơn ở mọi quy mô từ nông trại đến hệ thống lương
thực toàn cầu. Chúng cần phải trở nên hiệu quả hơn trong sử dụng tài nguyên:
đất, nước và đầu vào để sản xuất được nhiều lương thực hơn một cách bền vững,
và có sức chống chịu tốt hơn với những thay đổi và đột biến của khí hậu.
1.2.1. Các hệ thống sử dụng hiệu quả tài nguyên
Hầu hết phát thải KNK của ngành nông nghiệp có nguyên nhân trực tiếp là sử
dụng tài nguyên: diện tích đất mới được chuyển đổi do phá rừng hoặc từ đồng
trồng cỏ thành đất canh tác, phân bón, chăn nuôi, năng lượng. Việc tăng hiệu
quả sử dụng tài nguyên (ví dụ sản xuất nhiều sản phẩm hơn nhưng dùng ít đầu
vào hơn) là chìa khoá để giảm phát thải tích luỹ trên kg sản phẩm. Nó cũng là
chìa khoá để cải thiện ANLT, đặc biệt là ở những vùng thiếu tài nguyên.


Trước khi xem xét cách thức cải thiện hiệu quả tài nguyên trong các hệ thống
lương thực chúng ta cần có một nhận thức chung về ý nghĩa của sự hiệu quả.
Nông nghiệp và các hệ thống lương thực không chỉ sử dụng rất nhiều dạng tài
nguyên mà còn tạo ra rất nhiều dạng sản phẩm khác nhau. Chúng cung cấp các
sản phẩm tự nhiên, thu nhập và việc làm cho nông dân, trong các ngành công
nghiệp nông nghiệp và là một tác nhân cho nền kinh tế nông thôn phi nông trại.
Từ phương diện ANLT, 3 sản phẩm này là quan trọng như nhau. Nó ngụ ý về
một khái niệm hiệu quả tài nguyên phức tạp hơn, theo đó việc làm - một đầu vào
quan trọng trong các khái niệm kinh tế thuần tuý - có thể được nhìn nhận là một
đầu ra cơ bản. Khái niệm này hàm ý một sự chuyển đổi từ các mục tiêu kinh tế
truyền thống về sản lượng lao động hướng đến sử dụng hiệu quả tài nguyên với
sự tập trung lao động, do một hệ thống có thể được điều chỉnh nếu chúng sử
dụng một lượng TNTN tương đương nhưng lại cung cấp nhiều việc làm hơn.
Nông nghiệp cũng tạo ra các dịch vụ môi trường ở cấp độ cảnh quan, ví dụ,
thông qua cải thiện việc quản lý đất, nông nghiệp có thể tăng lượng carbon dự
trữ trong đất. Sản phẩm cuối cùng của nông nghiệp cũng có thể được xác định là
chất lượng các bữa ăn cho con người.
Tăng hiệu quả trong sử dụng tài nguyên cũng là một trong những nguyên tắc
định hướng của CSA. Phát thải KNK từ nông nghiệp được kết nối với việc sử
dụng tài nguyên. 3 nhân tố sản xuất có ảnh hưởng quan trọng đến tổng lượng
phát thải KNK trong nông nghiệp: (i) diện tích do chuyển đổi đất đai sang canh
tác sẽ yêu cầu phá rừng hoặc đồng cỏ, tạo phát thải CO
2
; (ii) phân bón, việc sản
xuất phân bón là nguồn CO
2
đáng kể và nó cũng chuyển đổi sang dạng phát thải
N
2

O trên đồng ruộng; và (iii) chăn nuôi: một nguồn phát thải CH
4
và N
2
O quan
trọng. Vốn vật chất như các công trình và máy móc cũng là một nhân tố, trực
tiếp qua sử dụng năng lượng và gián tiếp qua sản xuất chúng. Việc tăng hiệu quả
sử dụng một trong những nhân tố sản xuất này sẽ giảm phát thải tích lũy trong
sản phẩm. Do tưới tiêu thường cần đáng kể năng lượng nên hiệu quả sử dụng
nước cũng là một nhân tố quan trọng khác để tăng sản xuất, thích ứng với
BĐKH và giảm phát thải.

Riêng với lĩnh vực trồng trọt, do đây là nguyên nhân quan trọng của phá rừng
nên việc giảm mở rộng nông nghiệp thông qua thâm canh bền vững ở những
diện tích đất canh tác sẵn có có thể có ảnh hưởng lớn đến việc giảm nhẹ. Các
nghiên cứu cho thấy ở cấp độ toàn cầu, từ 1961-2005, sản lượng trồng trọt tăng
160%, năng suất tăng 135% và diện tích tăng 27% (Burney và nnk, 2010). Sự
thâm canh này cho phép nông dân tăng sản xuất lương thực trong khi đó phát
thải ít hơn khoảng 590 giga tấn CO
2
. Họ kết luận rằng phát thải do thay đổi sử
dụng đất là quan trọng hơn nhiều so với phát thải trực tiếp từ các hệ thống nông
nghiệp. Do đó, việc cải thiện năng suất cây trồng có thể trở nên quan trọng ở
mọi chiến lược giảm nhẹ. Hơn nữa, những cải tiến này cũng góp phần bảo tồn
các bể carbon ở rừng và duy trì năng lực lưu trữ carbon của chúng trong thời hạn
dài.
Các chất dinh dưỡng cho sản xuất nông nghiệp cũng cần thiết để tăng năng suất.
Nhưng việc sản xuất phân bón tổng hợp rất tiêu tốn năng lượng, với lượng phát
thải CO
2

và chi phí cao. Thêm vào đó, khi sử dụng, phân bón góp phần vào phát
thải N
2
O. Do đó, cần cải thiện sử dụng và hạn chế chi phí kinh tế và phát thải
cùng lúc. Việc cải thiện hiệu quả phân bón là cần thiết. Điều này có thể được
thực hiện thông qua nhiều kỹ thuật khác nhau. Ví dụ như việc đáp ứng một cách
chính xác hơn dinh dưỡng với cây trồng, chia tổng lượng thành các phần nhỏ.
Các kỹ thuật khác bao gồm canh tác chính xác và đưa các chất dinh dưỡng gần
rễ cây hơn, như việc bón phân ure cho lúa sâu hơn.
1.2.2. Các hệ thống có sức chống chịu tốt hơn
BĐKH sẽ ảnh hưởng mạnh tới các điều kiện hoạt động nông nghiệp ở mỗi vùng
cụ thể. Nó sẽ ảnh hưởng đến những rủi ro hiện tại và bổ sung thêm những rủi ro
bất định mới trong tương lai. Như được chỉ ra bởi Ban chuyên gia cao cấp (High
Level Panel of Experts - HLPE) về ANLT&DD (HLPE, 2012), các mô hình
không thể dự tính được những ảnh hưởng của BĐKH một cách chính xác, hoặc
về thời gian hoặc về không gian cần cho những người ra quyết định. Hơn nữa,
các mô hình khí hậu không xử lý ảnh hưởng của các dao động tăng cường, tác
động của sự kết hợp các sức ép, ảnh hưởng của BĐKH đến toàn bộ HST nông

nghiệp bao gồm cây trồng, sâu hại và thiên địch. Vì không thể dự đoán chính
xác những thay đổi này nên thường khó để phân lập và đẩy mạnh các biện pháp
thích ứng chính xác. Một trong những cách tiếp cận hiệu quả nhất là chuẩn bị
cho những điều không chắc chắn và rủi ro mới - một cách tiếp cận “không hối
tiếc” chấp nhận tất cả những thay đổi xảy ra để giảm tổn thương và tăng sức
chống chịu của hệ thống (FAO và OECD, 2012; HLPE, 2012).
1.2.2.1. Những rủi ro
Sản xuất nông nghiệp thường gặp phải nhiều dạng rủi ro: các rủi ro liên quan
đến kinh tế và giá cả, khí hậu, môi trường, sâu bệnh ở những quy mô khác nhau
và thường gây bất ổn về chính trị. Rủi ro năng suất của những cây trồng chính là
đặc biệt quan trọng đối với các hộ gia đình sử dụng một phần lớn sản phẩm của

chính họ. Nông dân phải hứng chịu những rủi ro kinh tế bao gồm sự mất an toàn
trong giao đất, những biến động về khả năng tiếp cận các đầu vào (phân bón, hạt
giống, thuốc trừ sâu, thức ăn) cả về chất lượng và số lượng cũng như những biến
động về khả năng tiếp cận thị trường.
Thuật ngữ rủi ro được sử dụng ở đây là tiềm năng của những đột biến và sức ép
tác động theo nhiều cách khác nhau đến trạng thái của hệ thống, cộng đồng, hộ
gia đình hoặc cá nhân. Xác suất, sự không chắc chắn (khi xác suất xảy ra hoặc
thậm chí là bản chất của tác động chưa được nhận thức), cường độ, quy mô kinh
tế, các quy mô thời gian, các chi phí trực tiếp và gián tiếp là tất cả những yếu tố
cần được xem xét.
Những rủi ro ảnh hưởng đến các hoạt động nông nghiệp thường được chia theo
bản chất của các đột biến liên quan (ví dụ sinh ký, kinh tế ). Chúng cũng
thường được chia theo cường độ, tần suất và khả năng dự báo của những đột
biến liên quan. Chúng cũng có thể được chia theo tác động và bản chất, cũng
như tầm quan trọng theo không gian và thời gian. Thời tiết là một trong những
nguyên nhân rủi ro lớn và cũng có ảnh hưởng lớn đến các dạng rủi ro khác.
BĐKH được cho là sẽ ảnh hưởng đến bản chất, quy mô và cường độ của những
rủi ro, sâu bệnh và làm tê liệt các chức năng HST (HLPE, 2012; FAO và OECD,
2012).

Tác động của một rủi ro phụ thuộc vào chính đột biến của nó và sức chống chịu
của hệ thống nhận đột biến đó. Phụ thuộc vào sự tổn thương, các hệ thống khác
nhau sẽ bị ảnh hưởng khác nhau bởi cùng một đột biến. Phụ thuộc vào sức
chống chịu, các hệ thống khác nhau sẽ phục hồi khác nhau.
Các hệ thống lương thực về bản chất gồm có tính sinh thái và tính kinh tế-xã
hội. Mỗi chiều hướng có sự tổ chức riêng và tương tác với các chiều hướng
khác. Các hệ thống lương thực có thể được mô tả và phân tích theo các chiều
hướng riêng của chúng. Cũng có những lý thuyết cố gắng nhận thức và mô tả
các hệ thống phức tạp để đạt được sự mô tả tốt hơn cho khái niệm bền vững.
Kể cả khi xem xét một hệ thống nông trại đơn giản, một sức ép hoặc đột biến

đơn lẻ cũng có thể có những tác động khác nhau đến bản chất và theo các quy
mô thời gian khác nhau. Tác động toàn cầu của một đột biến cũng thường phụ
thuộc vào sự truyền ảnh hưởng của nó từ một khía cạnh này sang các khía cạnh
khác và từ cấp độ này đến cấp độ khác. Ví dụ, một đợt hạn trong các hệ thống
chăn thả gia súc giảm sự sẵn có của nước và cỏ - cả trực tiếp và gián tiếp do các
điểm có nước bị giảm và không có khả năng tiếp cận - và do đó tăng nhu cầu
thức ăn. Sự tăng nhu cầu làm cho giá thức ăn tăng, tạo áp lực cho người chăn
nuôi phải bán gia súc. Sự bán với khối lượng lớn trong khi có sự giảm nhu cầu
đã giảm giá gia súc lại làm cho người sở hữu gia súc bán thêm gia súc đi. Điều
này ảnh hưởng đến giá cả, làm giảm thu nhập và vốn của nông trại và hộ gia
đình. Hơn nữa, chúng làm giảm giá trị của vốn (vật nuôi) và tư liệu sản xuất
trong tương lai. Hạn hán kéo dài hoặc lặp lại cũng có những ảnh hưởng nghiêm
trọng đến đất đai. Sự kết hợp của hạn hán và chăn thả quá mức, đặc biệt ở gần
những điểm trữ nước, sẽ phá hủy lớp phủ thực vật và tăng xói mòn đất.
1.2.2.2. Tính dễ bị tổn thương
Tác động cuối cùng một đột biến phụ thuộc không chỉ cường độ của chính đột
biến mà còn vào tính dễ bị tổn thương của hệ thống với dạng đột biến đó.
Tính dễ bị tổn thương có thể được xác định bởi xu hướng hoặc khuynh hướng
với tác động tiêu cực (IPCC, 2012). Đó là một khác niệm phức tạp cần được

xem xét xuyên quy mô và chiều cạnh. Nó có thể được xác định là tính dễ bị tổn
thương của cái gì với cái gì.
Mức độ của sự tổn thương cụ thể của một hệ thống do một dạng rủi ro cụ thể có
thể được phân tích bằng sự phơi lộ và độ nhạy với đột biến tiềm năng liên quan
đến rủi ro và cũng phụ thuộc vào năng lực thích ứng của hệ thống để ứng phó
với tác động của đột biến. Năng lực thích ứng cũng có thể bị tác động bởi một
đột biến bên ngoài. Trong một hệ thống, các đột biến trong một chiều cạnh có
thể phát tán sang chiều cạnh khác. Ví dụ, những đột biến sản xuất có thể chuyển
sang kinh tế - xã hội. Sự chuyển dịch này có thể là tuyến tính, tăng hoặc giảm
phụ thuộc vào các chính sách và thể chế.

Trong nhiều trường hợp, có thể có sự phóng đại hoặc những tương quan dương
giữa những ảnh hưởng của đột biến vốn có bản chất đa dạng. Trong những
trường hợp đó, việc giảm khả năng bị tổn thương với một dạng đột biến có thể
cũng giúp giảm tính dễ bị tổn thường với các dạng đột biến khác. Tính dễ bị tổn
thương cũng bị ảnh hưởng bởi các đột biến khác nhau. Thông qua việc giảm sức
khỏe gia súc, hạn hán cũng tăng tính dễ bị tổn thương của chúng với bệnh tật.
Thông qua việc giảm vốn của hộ gia đình, hạn hán cũng tăng tính dễ bị tổn
thương của họ với các dạng đột biến khác.
Các hệ thống có thể được định nghĩa ở những quy mô khác nhau. Một hệ thống
quy mô lớn thường gồm các hệ thống khác nhau ở quy mô nhỏ hơn. Ví dụ, từ
phương diện sinh lý, các hệ thống cảnh quan được hợp thành từ các hệ thống
nông trại. Tính dễ bị tổn thương của một hệ thống lớn phụ thuộc vào tính dễ bị
tổn thương của các hệ thống phụ trong nó. Nó cũng phụ thuộc vào các hệ thống
khác kết nối với nó như thế nào, gồm cả các hệ thống lớn hơn, trong sự tổn
thương và nhạy cảm với các đột biến. Ví dụ, tính dễ bị tổn thương của một nông
trại với một rủi ro cụ thể là tính dễ bị tổn thương của chính nó và tính dễ bị tổn
thương của cảnh quan chứa nó
1.2.2.3. Sức chống chịu

Sức chống chịu có thể được mô tả là năng lực của các hệ thống, cộng đồng, hộ
gia đình hoặc cá nhân để phòng ngừa, giảm thiểu hoặc đối phó với rủi ro và
phục hồi từ những đột biến. Sức chống chịu thoạt nghĩ sẽ là đối lập với tính dễ
bị tổn thương. Tuy nhiên, sức chống chịu có thêm chiều cạnh thời gian. Một hệ
thống là có khả năng chống chịu khi nó ít bị tổn thương với các đột biến theo
thời gian và có thể phục hồi. Điều thiết yếu với sức chống chịu là khả năng thích
ứng. Khả năng thích ứng gồm 2 hướng: phục hồi từ các đột biến và phản ứng
với những thay đổi để đảm bảo tính mềm dẻo của hệ thống. Ví dụ, một tổ chức
các hệ thống cung cấp hạt giống cho phép nông dân mất mùa có thể có hạt giống
trong mùa vụ sau. Nó cũng cho phép họ tiếp cận với hạt giống mới với khả năng
thích ứng với các điều kiện mới.

Cũng như với tính dễ bị tổn thương, sức chống chịu có thể được cụ thể là sức
chống chịu của cái gì với cái gì. Tuy nhiên, tập trung vào sức chống chịu này có
thể làm cho hệ thống mất sức chống chịu khác. Đó là lý do tại sao sức chống
chịu chung có thể được mô tả là đối phó với sự không chắc chắn theo tất cả các
phương thức. Và cũng như tính dễ bị tổn thương, sức chống chịu có thể được
xem xét ở những chiều cạnh và nhiều quy mô khác nhau. Cách mà các chiều
cạnh và quy mô tương tác với nhau là rất quan trọng vì tầm quan trọng trong sức
chống chịu chung để đối phó với điều không chắc chắn. Sức chống chịu có sự
tập trung hướng đến năng lực phục hồi và chuyển đổi của một hệ thống trong
thời đoạn dài, và thích ứng với sự thay đổi môi trường theo phương diện động
thái. Nó ngụ ý rằng không chỉ những đột biến - sự thay đổi tương đối so với một
giá trị trung bình - là cần phải xem xét mà còn cả những thay đổi của chính giá
trị trung bình đó.
1.2.2.4. Xây dựng sức chống chịu
Với nghĩa mở rộng, sự tăng sức chống chịu có thể đạt được thông qua việc giảm
tổn thương và tăng năng lực thích ứng. Điều này có thể được thực hiện thông
qua giảm sự phơi lộ với rủi ro, giảm độ nhạy và tăng khả năng thích ứng cho
mỗi dạng rủi ro. Nó có thể thực hiện trong mỗi phạm vi, sinh lý hoặc kinh tế - xã
hội. Một cách để đạt được sức chống chịu tốt hơn là giảm sự chuyển đổi các đột

×