Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Tìm hiểu cách đặt bút danh của các nhà thơ, nhà văn việt nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.91 KB, 61 trang )


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN




NGÔ THỊ SÁNG



TÌM HIỂU CÁCH ĐẶT BÚT DANH
CỦA CÁC NHÀ THƠ, NHÀ VĂN VIỆT
NAM HIỆN ĐẠI



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học




HÀ NỘI - 2014

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN





NGÔ THỊ SÁNG



TÌM HIỂU CÁCH ĐẶT BÚT DANH
CỦA CÁC NHÀ THƠ, NHÀ VĂN VIỆT
NAM HIỆN ĐẠI


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. GVC. LÊ KIM NHUNG




HÀ NỘI - 2014
LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình thực hiện đề tài khóa luận, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn - Th.S Lê Kim Nhung, sự góp ý, tạo
điều kiện của các thầy cô giáo trong tổ Ngôn ngữ cùng toàn thể các thầy cô
giáo trong khoa Ngữ Văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Lê Kim Nhung cùng toàn thể các
thầy cô trong khoa Ngữ Văn đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành khóa
luận này!
Do khuôn khổ thời gian có hạn nên khóa luận khó tránh khỏi những

hạn chế. Chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô và bạn bè để
có thể tiếp tục hoàn thiện trong quá trình học tập và giảng dạy sau này.

Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Người thực hiện

Ngô Thị Sáng










LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khoá luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, không trùng lặp với bất kỳ khóa luận hay đề tài nghiên cứu khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Người thực hiện


Ngô Thị Sáng


















MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 1
3. Mục đích nghiên cứu 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
5. Đối tượng nghiên cứu 4
6. Phạm vi nghiên cứu 4
7. Phương pháp nghiên cứu 4
8. Bố cục khóa luận 4
NỘI DUNG 5
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 5
1.1. Phong cách học văn bản 5
1.1.1. Khái quát “phong cách học văn bản” 5
1.1.2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của phong cách học văn bản 6

1.2. Các yếu tố có vai trò định hương giao tiếp 7
1.2.1. Tính “định hướng giao tiếp” của văn bản 7
1.2.2. Các yếu tố có vai trò định hướng trong giao tiếp của văn bản 8
1.2.2.1. Đầu đề văn bản 8
1.2.2.2. Cách trình bày bìa 9
1.2.2.3. Những trường hợp đặc biệt trong tổ chức đồ hình của văn bản 9
1.2.2.4. Bút danh tác giả 11
1.3. Bút danh tác giả 13
1.3.1. Khái niệm bút danh 13
1.3.2. Một số cách đặt bút danh 13
1.3.2.1. Bút danh gắn liền với kỉ niệm quê hương 13
1.3.2.3. Chơi chữ trong đặt bút danh 15
1.3.2.4. Bút danh thể hiện hàm ý về khuynh hướng sáng tác, quan niệm nghệ
thuật, cá tính nhà văn 18
CHƢƠNG 2. KẾT QUẢ THỐNG KÊ 20
2.1. Kết quả thống kê 20
2.1.1. Kết quả 20
2.1.2. Nhận xét 21
2.2.1. Đặt bút danh bằng thủ pháp chơi chữ 24
2.2.1.1. Nói lái để đặt bút danh 24
2.21.2. Viết tắt và tỉnh lược để tạo bút danh 27
2.2.1.3. Xáo chữ để đặt bút danh 30
2.2.2. Đặt bút danh thể hiện sự gắn bó với những kỉ niệm về quê hương, sự
gắn bó với người thân 34
2.2.2.1. Lấy những kỉ niệm gắn bó với quê hương để đặt bút danh 34
2.2.2.2. Lấy những kỉ niệm gắn bó với người thân để đặt bút danh 39
2.2.3. Đặt bút danh bằng những hàm ẩn, hàm ý về khuynh hướng sáng tác,
quan điểm nghệ thuật, phong cách nhà văn 47
2.2.3.1. Đặt bút danh hàm ẩn về quan điểm sáng tác 48
2.2.3.2. Đặt bút danh thể hiện phong cách sáng tác 49

KẾT LUẬN 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Tác phẩm văn học là một địa hạt rộng lớn, bí ẩn, luôn đòi hỏi sự tìm
tòi, sáng tạo, khám phá. Để tiếp cận tác phẩm văn học có nhiều con đường,
một trong những hướng quen thuộc, thuận tiện nhất là đi từ tác giả đến tác
phẩm. Khi tìm hiểu tác giả bên cạnh những yếu tố như: thời đại, gia đình, bản
thân… thì bút danh tác giả sử dụng trong từng giai đoạn, thời kỳ sáng tác
cũng là một hướng tiếp cận góp phần giúp người đọc giải mã tác phẩm.
Bút danh không đơn thuần chỉ là tên gọi của người sáng tác chọn ghi
trên tác phẩm của mình mà hơn thế nữa với nhiều cách đặt bút danh khác
nhau, mỗi bút danh thể hiện vẻ riêng, sự độc đáo, gắn với cá tính, sở thích của
mỗi người. Nghiên cứu về bút danh tác giả là sự đi khai mở những dụng ý ấy,
từ đó nâng cao hiểu biết về tác giả, lĩnh hội trọn vẹn sáng tác của họ.
Không chỉ vậy đối với công tác giảng dạy Ngữ văn ở trường trung học
phổ thông, việc cung cấp tri thức về bút danh tác giả còn là cách lôi cuốn học
sinh vào bài giảng.
Tìm hiểu bút danh tác giả tiếp cận từ góc độ ngôn ngữ là một đề tài hàm
chứa nhiều bất ngờ, thú vị, thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn, chúng tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu cách đặt
bút danh của các nhà thơ, nhà văn Việt Nam hiện đại”.
2. Lịch sử vấn đề
Đặt bút danh là những việc làm thường thấy không chỉ của tác giả Việt
Nam mà còn của nhiều tác giả trên thế giới. Vì vậy bên cạnh một số ít tác giả
dùng tên thật của mình khi sáng tác thì đại bộ phận các nhà văn, nhà thơ có

bút danh riêng. Có những tác giả chỉ dùng một nhưng lại có những tác giả
dùng nhiều bút danh khác nhau trong suốt hành trình sáng tác. Hầu hết các bút
2

danh đều có nguồn gốc, xuất xứ, đều biểu hiện, nói lên đôi điều về con người
mang các tên ấy. Nếu như nói tới nghệ thuật là nói tới cá tính sáng tạo thì
trong việc đặt bút danh cho mình, các nhà văn, nhà thơ cũng thể hiện vẻ riêng,
sự độc đáo, gắn với sở thích, cá tính của mỗi người. Tìm hiểu về xuất xứ, gốc
tích bút danh của mỗi nhà văn, ta sẽ thấy hiện lên bóng dáng, chân dung nhà
văn ấy, sẽ hiểu thêm về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp của họ. Do vậy có nhiều
nhà nghiên cứu đã dày công, dành nhiều thời gian để nghiên cứu vấn đề bút
danh tác giả. Có thể đó mới chỉ là những bài viết rải rác trên báo điện tử
nhưng nội dung các bài viết đã cho thấy sự đầu tư công phu, quá trình tìm
hiểu cẩn thận của người nghiên cứu.
Tác giả Đinh Trọng Lạc trong cuốn Phong cách học văn bản đã đề cập
đến những chỉ dẫn về bút danh tác giả và tính định hướng trong giao tiếp văn
bản. Theo Đinh Trọng Lạc, các yếu tố có vai trò định hướng trong giao tiếp
văn bản gồm: tên nhân vật, đầu đề văn bản, những trường hợp đặc biệt trong
tổ chức đồ hình văn bản… và bút danh tác giả cũng là một trong các yếu tố
đóng vai trò định hướng giao tiếp. Tác giả Lê Hữu Tỉnh - Phạm Khải đã biên
soạn cuốn Kể chuyện bút danh nhà văn. Trong cuốn sách này hai tác giả đã
cung cấp nhiều tư liệu quý, thú vị, hấp dẫn xoay quanh các bút danh tác giả.
Tác giả Lê Hữu Tỉnh và tác giả Phạm Khải đã kể chuyện về bút danh của 49
nhà văn, nhà thơ. Hai tác giả đều kể một cách tỉ mỉ nhất về các bút danh của
các tác giả đồng thời đưa ra những lời nhận xét chân thực. Với giọng điệu
hóm hỉnh, lôi cuốn, đan xen những bình luận chân xác, sắc sảo, công trình của
Lê Hữu Tỉnh - Phạm Khải là một đóng góp đáng kể cho việc nghiên cứu vấn
đề bút danh. Tuy nhiên đây mới chỉ là cuốn sách kể chuyện về bút danh tác
giả mà chưa đi sâu phân tích bút danh như một trong các yếu tố đóng vai trò
định hướng giao tiếp trong văn bản nghệ thuật. Trong một công trình nghiên

cứu riêng, nhà nghiên cứu Lê Hữu Tỉnh cũng biên soạn cuốn sách về các bút
3

danh nhà văn: cuốn Về bút danh của một số nhà văn, nhà thơ (Giáo dục và
thời đại, 1993). Ngoài ra, cuốn Tiếng Việt thực hành của tác giả Nguyễn Minh
Thuyết (chủ biên) và Nguyễn Văn Hiệp có dẫn lại Chơi chữ trong đặt bút
danh của tác giả Lê Trung Hoa làm tư liệu trong phần bài tập. Trong cuốn
sách này, chơi chữ trong đặt bút danh được trình bày một cách tỉ mỉ với nhiều
lối chơi chữ khác nhau như: nói lái để đặt bút danh, nói ngược để đặt bút
danh, cách xáo chữ để đặt bút danh… Tuy nhiên đây mới chỉ là một cách đặt
bút danh thường thấy trong những cách đặt bút danh của các văn nghệ sĩ.
Như vậy, cho tới nay các công trình nghiên cứu chuyên sâu về bút danh
tác giả vẫn còn rất ít, việc nghiên cứu mới chỉ manh nha hình thành hoặc nằm
rải rác trong một số bài viết.
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu thì có thể khẳng định vấn đề này còn những
khoảng trống cần phải lấp đầy. Tiếp thu ý kiến của các tác giả đi trước, chúng
tôi bắt đầu tiếp cận đề tài: “Tìm hiểu cách đặt bút danh của các nhà thơ,
nhà văn Việt Nam hiện đại” với hi vọng đóng góp một phần nào đó để quá
trình tìm hiểu về bút danh tác giả nói riêng và về phong cách, quan niệm của
tác giả nói chung được cụ thể và toàn diện hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này góp phần tìm hiểu, lý giải đầy đủ hơn về vấn đề bút danh tác
giả từ góc độ ngôn ngữ.
Ngoài ra tìm hiểu cách đặt bút danh nhà thơ, nhà văn đề tài còn góp
phần phân loại, thể hiện mối quan hệ bút danh nhà văn, nhà thơ với định
hướng giao tiếp văn học. Mặt khác, qua các cách đặt bút danh, độc giả thấy
được tài năng, cá tính sáng tạo của nhà văn.
Tìm hiểu bút danh nhà thơ, nhà văn giúp người nghiên cứu làm quen
với phương pháp nghiên cứu khoa học đồng thời nâng cao khả năng đánh giá,
cảm thụ văn học, phục vụ cho quá trình giảng dạy môn Ngữ văn ở trường

Trung học Phổ thông.
4

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những lý do trên, đề tài thực hiện một số nhiệm vụ sau:
+ Tập hợp những vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài.
+ Phân loại, thống kê các bút danh tác giả.
+ Phân tích hiều quả của cách đặt bút danh tác giả từ góc độ ngôn ngữ.
Từ đó rút ra những kết luận cần thiết.
5. Đối tƣợng nghiên cứu
Tìm hiểu cách đặt bút danh nhà văn, nhà thơ hiện đại.
6. Phạm vi nghiên cứu
Do giới hạn của đề tài, chúng tôi tìm hiểu cách đặt bút danh của một số
nhà thơ, nhà văn hiện đại (từ đầu thế kỷ XX đến nay).
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng những phương pháp sau:
7.1. Phương pháp tổng hợp
7.2. Phương pháp thống kê, phân loại
7.3. Phương pháp phân tích
8. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận
gồm hai chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Phân tích kết quả thống kê





5


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. Phong cách học văn bản
1.1.1. Khái quát “phong cách học văn bản”
Để hiểu khái niệm phong cách học văn bản trước hết ta đi tìm hiểu khái
niệm văn bản. Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn bản:
Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán - Trần Đình Sử -
Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) thì văn bản được hiểu là:
“Với nghĩa rộng: 1) Bản ghi bằng chữ viết hoặc chữ in, một phát ngôn
hoặc một thông báo ngôn từ (phân biệt với thực hiện phát ngôn hoặc thông
báo ấy bằng nói miệng); 2) Phương diện tri giác cảm xúc của tác phẩm được
biểu đạt và ghi nhận bằng các kí hiệu ngôn ngữ; 3) Đơn vị nhỏ nhất tương đối
(có tính thống nhất tương đối và tính độc lập tương đối) của giao tiếp bằng
ngôn từ.
Với nghĩa hẹp: Văn bản là một chỉnh thể nghĩa, một khối thống nhất có
tổ chức của các yếu tố hợp thành, một thông báo mà tác giả (người phát) gửi
tới người đọc, người xem (người nhận). Nghĩa của văn bản được xác định bởi
quan hệ của nó với thực tại ngoài văn bản với các văn bản khác, với từng cá
nhân, với kí ức và các phẩm chất khác nữa của người phát và người nhận
thông báo. Văn bản thực hiện ba chức năng chính: truyền thông tin, chế biến
thông tin mới và bảo quản thông tin (ghi nhớ)” [2, Tr.395].
Có định nghĩa cho rằng: Văn bản là đơn vị giao tiếp lớn nhất của kiểu
lời nói viết, nó xuất hiện vừa như là bản in của quá trình hoạt động lời nói,
như là kết quả hoặc sản phẩm của quá trình này, vừa như là “công cụ” được
sử dụng trong quá trình hoạt động lời nói làm phương tiện cơ bản để đạt tới
một mục đích dụng học nhất định.
6


Khi hiểu văn bản là một phạm trù tín hiệu học đại cương thì văn bản và
phong cách có mối tương quan với nhau trước hết như là những đặc trưng của
hoạt động lời nói. Nếu phong cách là thuộc tính quan trọng của hoạt động của
con người nói chung, và của hoạt động lời nói nói riêng, thì văn bản - đơn vị
giao tiếp lớn nhất của kiểu lời nói viết - xuất hiện như là dấu tích (bản in) của
quá trình hoạt động lời nói, đồng thời như là kết quả của hoạt động lời nói hoặc
sản phẩm của nó, đồng thời như là công cụ được sử dụng trong quá trình hoạt
động lời nói, như là phương tiện để đạt đến mục đích dụng học nhất định.
Phong cách là thuộc tính quan trọng của hoạt động lời nói, là những
khuôn mẫu xây dựng lớp ngôn bản trong đó thể hiện vai của người giao tiếp
trong một lĩnh vực hoạt động xã hội nhất định. Ngoài ra phong cách còn được
hiểu là kết quả, sản phẩm của hoạt động lời nói, là toàn bộ các biện pháp sử
dụng ngôn ngữ thích hợp với một thể loại văn bản nhất định. Các thể loại văn
bản được phân biệt trên cơ sở sự khác biệt về kết cấu, về tu từ.
1.1.2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của phong cách học văn bản
Lĩnh vực ngữ pháp văn bản ngày càng thu hút sự chú ý của các nhà
ngôn ngữ học nghiên cứu ở những bộ môn rất khác nhau thuộc nhiều xu
hướng: từ ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ âm đến phong cách học. Với sự ra đời
của Ngữ pháp văn bản, Ngôn ngữ học đã được nâng lên tầm một khoa học
bao quát hết đối tượng của mình. Cũng vậy, Phong cách học - một bộ môn
trong ngành ngôn ngữ học - đã được nâng lên tầm một lí thuyết bao quát hết
đối tượng của mình. Phong cách học tiếng Việt những năm đầu của thập kỉ 80
chỉ nghiên cứu đến những phương tiện và biện pháp tu từ ở cấp độ câu. Cấp
độ trên câu không được nói đến. Năm 1993, trong Phong cách học tiếng Việt
đã xuất hiện một quan niệm mới có hệ thống trong việc xác định, phân loại và
miêu tả các phương tiện tu từ và các biện pháp tu từ một cách nhất quán ở tất
cả các cấp độ của ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp và văn bản.
7

Những phương tiện tu từ văn bản và những biện pháp tu từ văn bản đã được

miêu tả khá rõ trong giáo trình Phong cách học tiếng Việt và giáo trình Thực
hành phong cách học tiếng Việt của tác giả Đinh Trọng Lạc (chủ biên) và tác
giả Nguyễn Thái Hòa. Ngày nay, dưới ánh sáng của ngữ pháp văn bản, phong
cách học đi nghiên cứu cả phong cách học văn bản. Trong giáo trình Phong
cách học văn bản, tác giả Đinh Trọng Lạc không chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu cấp độ âm, từ, câu mà đã mở rộng phạm vi nghiên cứu thành văn bản,
nghiên cứu mọi vấn đề của văn bản. Văn bản là một chỉnh thể thống nhất, nói
đến văn bản là nói đến đầu đề văn bản, nói đến tên nhân vật, đến cách trình
bày bìa, những trường hợp đặc biệt trong tổ chức đồ hình của văn bản, và
cách đặt bút danh tác giả cũng được tác giả chú ý. Tác giả Đinh Trọng Lạc đã
đi sâu nghiên cứu bút danh tác giả với vai trò là một trong những nhân tố có
tính định hướng giao tiếp của văn bản.
1.2. Các yếu tố có vai trò định hƣơng giao tiếp
1.2.1. Tính “định hướng giao tiếp” của văn bản
Tính định hướng trong giao tiếp là một trong những phạm trù quan
trọng nhất của văn bản nói chung, bởi vì khi tạo lập ra một văn bản tác giả
bao giờ cũng - hoặc tự giác hoặc không tự giác - nhằm vào một nhóm người
đọc nhất định. Nói cách khác, tác giả của văn bản bắt buộc phải tính đến
“nhân tố địa chỉ”, hoặc đến những đặc điểm của quá trình tri giác, nhận thức
và những điều kiện cụ thể của sự giao thiệp bằng lời, vốn gắn với văn bản đã
cho. Giữa văn bản và độc giả hình thành những mối quan hệ về bản chất là có
tính chất đối thoại, những mối quan hệ giả thiết tính tích cực của sự tri giác.
Từ đó có thể thấy việc giải thích và bình giá văn bản nghệ thuật không
phải bắt đầu từ nhân tố “tiêu dùng” nó mà bắt đầu từ nhân tố lựa chọn nó có
mục đích.
8

1.2.2. Các yếu tố có vai trò định hướng trong giao tiếp của văn bản
Tính định hướng trong giao tiếp là một phạm trù quan trọng nhất của
văn bản. Khi sáng tạo ra bất kỳ một đứa con tinh thần bao giờ tác giả cũng

nhằm vào đối tượng nhất định. Giữa văn bản và độc giả luôn hình thành
những mối quan hệ nhất định. Một số yếu tố có vai trò định hướng trong giao
tiếp của văn bản như: đầu đề văn bản, tên nhân vật, cách trình bày bìa, bút
danh tác giả
1.2.2.1. Đầu đề văn bản
Đầu đề là một căn cứ để nhận ra tính hoàn chỉnh của một văn bản. Có
những đầu đề đặt theo đề tài, có những đầu đề đặt theo chủi đề hoặc trực tiếp,
hoặc gián tiếp, đặt theo cảm xúc. Đầu đề vừa có tác dụng nhận diện văn bản
vừa có tác dụng định hướng văn bản (theo tác giả Đinh Trọng Lạc) và theo Bùi
Mạnh Nhị nhận xét: Đầu đề đảm nhận vai trò tâm điểm của vòng đồng tâm từ
đó cảm xúc tỏa ra và trở về hội tụ. Nó hướng dẫn người đọc trong quá trình
lĩnh hội tác phẩm văn học. Có thể nói đầu đề của tác phẩm là một tín hiệu nghệ
thuật mang tính khái quát, người đọc có thể tiếp cận tác phẩm bắt đầu từ đầu đề
văn bản. Trong văn xuôi nghệ thuật, những đầu đề thành công nhất phải là
những đầu đề chứa đựng được cái tư tưởng - nghệ thuật của tác phẩm, nó đảm
nhiệm vai trò điểm xuất phát và cũng là điểm kết thúc của quá trình lĩnh hội tác
phẩm. Trong quá trình này, người đọc thường xuyên làm công việc liên hệ giữa
các sự kiện, hiện tượng được tường thuật, miêu tả với cái đầu đề vốn lúc đầu
khơi gợi những cách hiểu, những mức độ hiểu, cảm so với lúc đầu. Chẳng hạn
như tác phẩm Đôi mắt của nhà văn Nam Cao không chỉ là câu chuyện đơn
thuần miêu tả đôi mắt của một con người cụ thể nào mà đánh dấu bước đầu đổi
mới trong quan niệm sống và sáng tác của một nhà văn tích cực và chân thành
đi vào cách mạng và kháng chiến. Trong khi đọc và sau khi đọc người ta luôn
quay trở lại cái đầu đề để điều chỉnh lại cách hiểu, để hiểu rõ hơn, chính xác
hơn, sâu hơn cái ý nghĩa tư tưởng tác phẩm. Có thể nói đầu đề là tín hiệu thẩm
9

mĩ sáng chói nhất của tác phẩm văn xuôi nghệ thuật. Chính nó là dấu hiệu biểu
hiện tài nghệ kết cấu tác phẩm thành một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn của
người nghệ sĩ. Những tác phẩm văn xuôi nghệ thuật thành công đều chứng tỏ

điều đó. Ví dụ một số đầu đề như: Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng),
Thời xa vắng (Lê Lựu), Tiễn biệt những ngày buồn (Trung Trung Đỉnh), Phiên
chợ Giát (Nguyễn Minh Châu)
1.2.2.2. Cách trình bày bìa
Ngoài đầu đề văn bản, cách trình bày bìa của văn bản cũng được coi là
một tín hiệu thẩm mĩ khi nó có mối quan hệ hòa hợp với nội dung tác phẩm.
Trong khi nhận xét, đánh giá tác phẩm văn học, nhiều nhà phê bình đã không
quên cách trình bày cái bìa như là bộ phận không tách rời của văn bản nghệ
thuật, như là một khuôn mặt và tâm hồn của nó. Khi viết về truyện ngắn Hoa
thép của nhà văn Bùi Hiển (Văn học, Hà Nội, 1972), Nguyễn Đăng Mạnh viết:
“Người trình bày cái bìa sách cho Bùi Hiển có lẽ chưa đọc kỹ những truyện của
anh. Màu sắc xanh đỏ tươi quá, có phần hơi sặc sỡ”. Nhận xét cách trình bày bìa,
nhà phê bình cốt làm nổi bật những đánh giá của mình về nội dung, về phong
cách nhà văn: “Bút pháp của Bùi Hiển không phải như vậy. Đúng là anh có nói
đến hoa - từ đầu đến cuối toàn là thép và hoa. Nhưng đâu phải là hoa hồng, hoa
cúc, thược dược, hải đường phô trương rực rỡ. Anh chỉ thích hoa ngâu, hoa sói
“hữu hương vô sắc” thường thấy ở những ngôi chùa thanh vắng, hoặc là những
hoa cau, hoa bưởi tỏ chất hương say người vào lúc đêm khuya. Những nhân vật
của Bùi Hiển đúng là như thế: Hoa và thép của tâm hồn bao giờ cũng ẩn kín.
Câu chuyện của thế giới bên trong hay là phong cách hồn nhiên kín đáo của con
người Việt Nam ta? Chắc hẳn có cả hai lí do ấy” [4, Tr.68].
1.2.2.3. Những trường hợp đặc biệt trong tổ chức đồ hình của văn bản
Trong thơ ca đôi khi cũng gặp một cách tổ chức đặc biệt trong việc
trình bày văn bản đồ hình. Bài thơ được in ra như thế nào đó để cho toàn bộ
văn bản có dáng vẻ của một hình thù nào đó: một ngôi sao, một trái tim, một
10

chữ thập Trong thơ ca Việt Nam có thể bắt gặp những bài thơ viết theo hình
tam giác, hình quả trám… Ví dụ bài thơ hình tam giác:
“Tối

Tối
Đi hoài
Chân mỏi
Giăng ló ngàn
Chim về núi
Một mình lặn lội
Đèo ải bước gập ghềnh
Cảnh tình lòng bối rối
Đường xa gánh nặng ngại ngùng
Quãng vắng canh trường vòi vọi
Ô hay gai góc quãng đường đời
Vất vả thâu đêm đi chưa khỏi”
(Trần Huấn Trương)
Có thể thấy rằng hình thức đồ hình theo kiểu bài thơ trên không có gì
gắn với nội dung của bài thơ, do đó nó không thể được coi là hình thức có giá
trị về tu từ học. Bên cạnh đó còn có những trường hợp thù vị hơn nhưng cũng
hiếm hoi hơn, đó là những trường hợp mà hình thức đồ hình của văn bản có
sự gắn bó với nội dung của nó, nghĩa là được coi như một bản ghi hình. Trong
những trường hợp như thế ta có biện pháp tu từ, một cách trình bày văn bản
không chỉ miêu tả một cách khách thể hoặc một quá trình đó. Ví dụ trong bài
thơ Chiếc võng của bố, tác giả sắp xếp các khổ thơ phần nào miêu tả được
hình ảnh chiếc võng đung đưa khi đưa sang trái, khi đưa sang phải, “dập dình
như cánh sóng”:
11

“Bố ở chiến trường về
Bố cho em chiếc võng
Võng xanh màu lá cây
Dập dình như cánh sóng
Em nằm trên chiếc võng

Êm như tay bố nâng
Đung đưa chiếc võng kể
Chuyện đêm bố vượt rừng
Em thấy cả trời cao
Xuyên qua từng kẽ lá
Em thấy cơn mưa rào
Ướt tiếng cười của bố
Trăng treo ngoài cửa sổ
Có phải trăngTrường Sơn
Võng mang hơi ấm bố
Ru đời em lớn khôn”
(Phan Thế Cải)
1.2.2.4. Bút danh tác giả
Một trong các yếu tố có vai trò định hướng trong giao tiếp của văn bản
đó chính là bút danh tác giả. Bút danh là dấu ghi, dấu chỉ dẫn bao hàm nhiều ý
nghĩa, nó nói lên quan điểm, khuynh hướng, quan niệm, sở thích, chiều sâu
nghệ thuật của tác giả. Bởi vậy khi đặt bút danh, nhà văn không chỉ tìm cho
mình một tên gọi, kể cả khi đó là hệ quả của một cơn ngẫu hứng, một kiểu
chơi chữ mà đằng sau những âm thanh tưởng là trống rỗng kia, vẫn có thể
hàm ẩn một điều gì đó. Chẳng hạn như nhà văn Nguyễn Tuân, bút danh của
ông được tạo ra từ việc xáo trộn họ và tên riêng thành ba tiếng: Ân Ngũ
Tuyên. Bút danh của ông cũng phần nào nói lên phong cách sáng tác cũng
12

như sở trường của nhà văn. Nguyễn Tuân được mệnh danh là nghệ sĩ của
ngôn từ.
Có nhiều nhà văn không dùng bút danh mà dùng ngay tên thật của
mình để đề vào tác phẩm như: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Thị
Ngọc Tú, Lưu Quang Vũ nhưng cũng có nhiều nhà văn đặt bút danh cho
mình và dùng bút danh thay cho tên thật để đề vào tác phẩm cũng như để giao

tiếp trong xã hội. Ví dụ như tác giả của những bài thơ nổi tiếng: Tống biệt
hành, Chiều mưa đường số 5 đặt cho mình bút danh “Thâm Tâm”. Thâm
Tâm hay một tấm lòng thẳm sâu tình yêu đất nước, con người. Thơ ông cũng
sâu thẳm tình cảm, da diết nhớ thương như con người ông. Với bút danh trên
người đọc phần nào hiểu được quan niệm, khuynh hướng sáng tác cũng như
sở trường của Thâm Tâm đồng thời còn có thể hiểu nội dung thơ ông một
cách chính xác và đầy đủ nhất.
Có thể nói bút danh tác giả có chức năng định hướng, hướng tư duy của
độc giả đến ý định mà tác giả muốn trình bày, gợi ý cách hiểu về tác phẩm.
Thông qua bút danh tác giả, người đọc có thể hiểu một cách đầy đủ nhất,
chính xác nhất về nội dung tác phẩm. Đây là một cách tiếp cận tác phẩm độc
đáo, từ bút danh tác giả, bạn đọc có thêm hiểu biết về quan điểm văn chương,
khuynh hướng, sở trường sáng tác cũng như sự nghiệp văn chương của các
tác giả. Ví dụ như với bút danh Chế Lan Viên đã thể hiện được khuynh hướng
sáng tác của nhà văn trước cách mạng tháng Tám. Hay với bút danh đặt theo
lối triết tự Hàn Mặc Tử đã phần nào nói lên sự nghiệp văn chương của thi sĩ.
Trong bút danh Hàn Mặc Tử thì “Hàn” có nghĩa là ngọn bút lông, “Mặc” có
nghĩa là mực; “Hàn Mặc” có nghĩa là ngọn bút và thoi mực, là những đồ dùng
quen thuộc của văn nhân, có nghĩa bóng chỉ văn chương. Cả tổ hợp Hàn Mặc
Tử chỉ “anh chàng Bút Mực”; “người làm văn chương, có duyên nợ với văn
chương”. Thật vậy, kết thúc ở tuổi 28 nhưng Hàn Mặc Tử đã để lại một dấu
13

ấn khó phai mờ trong lịch sử văn học Việt Nam, cuộc đời kết thúc nhưng lại
bắt đầu sự sống, sự bất tử của một thi sĩ lớn - thi sĩ “Đồng trinh Hàn Mặc Tử”.
1.3. Bút danh tác giả
1.3.1. Khái niệm bút danh
Tác giả Lê Hữu Tỉnh trong cuốn Về bút danh của một số nhà văn, nhà
thơ, Nxb Giáo dục và thời đại, Hà Nội, đã định nghĩa:
Bút danh là dấu ghi, dấu chỉ dẫn bao hàm nhiều ý nghĩa, nói lên quan

điểm, khuynh hướng, quan niệm, sở thích, chiều sâu nghệ thuật của tác giả,
cũng như gắn với những kỉ niệm riêng tư ngọt ngào, đằm thắm, có khi cay
đắng trong cuộc đời nhà văn.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán - Trần Đình Sử -
Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) thì bút danh được hiểu là “tên tác giả dùng
để công bố tác phẩm thay thế tên thật” [2, Tr.28 ].
Trong Từ điển tiếng Việt bút danh được hiểu là: tên riêng (khác với tên
thật) tác giả dùng để ghi vào tác phẩm của mình.
Thông qua các định nghĩa trên, chúng tôi khái quát thành một số đặc
điểm của bút danh tác giả:
- Bút danh là tên mà người sáng tác chọn để ghi trên tác phẩm của họ.
- Bút danh thể hiện quan điểm, khuynh hướng, quan niệm, sở thích,
chiều sâu nghệ thuật của tác giả.
1.3.2. Một số cách đặt bút danh
Theo kết quả khảo sát và dựa theo cách phân loại cách đặt bút danh của
tác giả Đinh Trọng Lạc, chúng tôi chu ý đến một số cách đặt bút danh sau:
1.3.2.1. Bút danh gắn liền với kỉ niệm quê hương
Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã viết lên những vần thơ chan chứa tình cảm
về quê hương:
“…Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu muồng tơi
14

Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương có ai không nhớ… ”
Lời thơ ấy như đã nói thay tấm lòng của bao người con nặng tình với
quê cha đất tổ. Cùng là bộc lộ tình cảm với quê hương nhưng mỗi người lại

thể hiện khác nhau. Với nhiều tác giả, để thể hiện lòng mình, họ đã lấy chính
những kỉ niệm về quê hương hay những địa danh về quê hương để đặt bút
danh cho mình.
Lấy những kỉ niệm về quê hương hay tên quê hương làm bút danh, Trần
Ninh Hồ, một người luôn tự coi mình là nhà thơ, độc giả cũng gọi anh là nhà thơ
nhưng lại rất có duyên với những giải thưởng về truyện ngắn, từng được giải Nhì
cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ năm 1971, Giải truyện ngắn hay của tạp chí
Văn nghệ quân đội năm 1975 cũng có bút danh gắn với quê hương bản quán.
Tên thật của Trần Ninh Hồ là Trần Hữu Hỷ. Anh sinh ra và lớn lên ở làng Mật
Ninh, xã Sen Hồ, huyện Việt Yên, Bắc Giang. Như vậy, Trần Ninh Hồ nghĩa là
“thi sĩ họ Trần ở làng Mật Ninh, xã Sen Hồ”. Một nhà văn khác: Bảo Ninh, tác
giả của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh nói về cuộc chiến tranh mà chúng ta đã
đi qua với một giọng điệu, một cái nhìn rất riêng - có tên thật là Hoàng Ấu
Phương. Quê gốc ở xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Như vậy
bút danh Bảo Ninh chính là tên làng quê của nhà văn.
Cùng với nhà thơ Trần Ninh Hồ còn rất nhiều tác giả đặt bút danh của
mình gắn với danh lam thắng cảnh, địa danh quê hương như: Võ Thanh An,
Thu Bồn, Nam Cao, Ngô Tất Tố… Nhà thơ Thu Bồn, tác giả của trường ca Bài
ca chim Chơrao, một trong những nhà thơ có sở trường về loại trường ca, có
tên thật là Hà Đức Trọng. Quê ông ở xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh
15

Quảng Nam, nơi có con sông Thu Bồn trong xanh mát rượi chảy qua. Bút danh
của ông cũng chính là tên con sông Thu Bồn chảy qua quê hương nhà thơ.
Như vậy lấy kỉ niệm quê hương để đặt tên bút danh không chỉ thể hiện
tình yêu của nình đối với quê hương đất nước mà đây còn là một cách hướng
tới mục đích giao tiếp trong chính tác phẩm của các nhà thơ, nhà văn.
1.3.2.2. Bút danh thể hiện sự gắn bó với người thân
Đặt tên bút danh thể hiện sự gắn bó với người thân cũng là một cách
định hướng giao tiếp trong văn bản. Bởi lẽ có nhiều nhà thơ nặng lòng với

truyền thống gia đình, gắn bó sâu sắc với người thân và hơn cả là sáng tác hay
về gia đình, quê hương.
Nhà thơ Bùi Minh Quốc, tác giả của bài thơ Lên miền Tây, tập thơ
Mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ còn có bút danh Dương Hương Ly. Bút
danh này là tên vợ và tên con gái nhà thơ. Vợ anh là nhà văn Dương Thị Xuân
Quý - tác giả của tập truyện Chỗ đứng và tập truyện ký Hoa rừng.
Tiêu biểu cho cách đặt bút danh này còn kể tới Phan Tứ - một nhà văn một
chiến sĩ. Xuất thân là con thứ tư trong gia đình giáo sư Lê Ấm và mẹ là bà Phan
Thị Châu Liên. Phan Tứ là cháu ngoại của Phan Châu Trinh - một trí thức yêu
nước. Vì muốn kế tục truyền thống gia đình, noi gương ông ngoại và cha, Phan
Tứ tức Lê Khâm đã lấy họ của ông ngoại và vị trí thứ tư trong gia đình để đặt bút
danh. Điều này thể hiện sự tự hào về truyền thống gia đình, sự yêu thương gắn bó
với người thân đồng thời thể hiện được ý chí, quyết tâm của cây bút trẻ Phan Tứ.
Ngoài ra có thể kể tới một số bút danh theo cách này như: Y Phương,
Trần Huyền Trân, Lưu Quang Vũ…
1.3.2.3. Chơi chữ trong đặt bút danh
a. Khái niệm “Chơi chữ”
Chơi chữ là một nghệ thuật độc đáo trong ngôn ngữ nói chung và trong
Tiếng Việt nói riêng. Có nhiều định nghĩa, khái niệm, lời giải thích về thủ
pháp chơi chữ:
16

Theo Từ điển tiếng Việt giải thích: Chơi chữ là lợi dụng hiện tượng
đồng âm, đa nghĩa… trong ngôn ngữ nhằm gây một tác dụng nhất định (như
bóng gió, châm biếm, hài hước…) trong lời nói.
Từ điển thuật ngữ văn học gọi chơi chữ là “lộng ngữ” [2, Tr.61]. Và giải
thích là một biện pháp tu từ có đặc điểm: người sáng tác sử dụng những chỗ
giống nhau về ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự, văn cảnh để tạo ra sự bất ngờ thú vị
trong cách hiểu, trong dòng liên tưởng của người nghe. Các hình thức của lộng
ngữ rất phong phú, trong đó có: nói lái, dùng từ đồng âm hoặc gần âm, dùng từ

gần nghĩa, tách một từ thành các từ khác nhau (có thể xem đây là hình thức của
nghệ thuật chơi chữ). Các tác giả trong quyển “từ điển” này cho rằng: nhìn
chung các lộng ngữ đều mang tính hài hước, thường được sử dụng trong văn thơ
trào phúng.
Theo cách định nghĩa thuần túy ngôn ngữ học thì chơi chữ là hình thái
tu từ của lời nói được thể hiện bằng cách sử dụng linh hoạt những tiềm năng
của ngôn ngữ về mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp nhằm tạo ra những cách hiểu
bất ngờ, thú vị. Nói cụ thể hơn, chơi chữ trong tiếng Việt là một biện pháp tu
từ thể hiện sự vận dụng linh hoạt những tiềm năng của ngôn ngữ về mặt ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp của tiếng Việt nhằm tạo ra những cách hiểu bất ngờ,
thú vị. Từ lâu chơi chữ là một cái thú của những người được coi là nhiều chữ
nghĩa. Thi hào Nguyễn Du, bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ chẳng đã từng
chơi chữ khi viết:
“Chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Cái tên của “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương đã từng bị Chiêu Hổ
(tương truyền là Phạm Đình Hổ, tác giả của Vũ trung tùy bút, Tang thương ngẫu
lục ) dùng phép chiết tự, phép chơi chữ để châm chọc, trêu ghẹo:
“Người Cổ lại còn đeo thói Nguyệt
Bồng Xuân chi để lạnh mùi Hương”
(Trong tiếng Hán, chữ Cổ ghép với chữ Nguyệt tạo thành chữ Hồ).
17

Có thể nói chơi chữ là dùng các hiện tượng đồng âm, đa nghĩa, nói
lái… trong ngôn ngữ nhằm gây một tác dụng nhất định trong lời nói như: nói
bóng gió, châm biếm, hài hước… Chơi chữ có nhiều cách và xuất hiện trong
nhiều lĩnh vực.
b. Các kiểu chơi chữ trong đặt bút danh
Trong cách đặt bút danh của giới văn nghệ sĩ Việt Nam, chơi chữ cũng
khá đa dạng và thú vị.
b1. Nói lái để đặt bút danh

Tạo bút danh bằng cách nói lái được nhiều văn nghệ sĩ sử dụng. Có người
nói lái họ và tên riêng: Trinh Đường cho Trương Đình. Người khác nói lái họ,
tên riêng và giữ nguyên tên lót: Lữ Huy Nguyên cho Nguyễn Huy Lư. Hoàng
Ngọc Tuấn cũng nói lái như thế nhưng bỏ tên lót và một con chữ để khỏi sai
chính tả: Huấn Toàn. Còn Đặng Trần Thi, sau khi nói lái họ và tên riêng, bỏ một
yếu tố láy và ghép tên láy với yếu tố láy còn lại: (Thị) Trần Đăng.
Một số người nói lái tên lót và tên riêng. Chẳng hạn như Nguyễn Thứ Lễ
thì bỏ họ: Thế Lữ, còn Nguyễn Đức Thông thì giữ họ: Nguyễn Đông Thức. Có
nhiều văn nghệ sĩ sau khi lấy bút danh thứ nhất, nói lái thành bút danh thứ hai:
nhà báo Vũ Tuất Việt lấy bút danh Hồng Ba, rồi nói lái thành Hà Bông. Nhà văn
Trương Gia Thiều (tức Trần Bạch Đằng) lấy bút danh Hưởng Triều, rồi nói lái
và thêm một từ chỉ họ: Nguyễn Hiểu Trường.
b2. Xáo chữ để đặt bút danh
Bên cạnh việc nói lái để tạo bút danh thì cũng được nhiều nhà thơ, nhà
văn hay dùng. Họa sĩ Bùi Xuân Phái xáo trộn các chữ cái trong tên riêng và
bỏ dấu thành Hi Pa. Nhà thơ Nguyễn Văn Hàm cũng xáo trộn họ và tên riêng,
không dùng tên lót: Ngũ Hà Miên. Nhà văn Trần Khánh Giư đảo lộn tên lót
và tên riêng, không dùng họ: Khái Hưng. Còn nhà thơ Lê Văn bái thay đổi vị
trí các chữ cái của họ và tên riêng, bỏ các dấu và viết liền, rồi thêm một chữ
18

Pháp viết tắt vào trước cho có vẻ “tây”: Leiba. Sau cùng nhiều người cho rằng
nhà văn Đái Đức Tuấn đã viết tắt câu: “Tôi chưa yêu ai /Tôi chẳng yêu ai”
thành bút danh TCHYA. Dù thế nào bút danh này vẫn là một câu hỏi bí ẩn,
gợi cho người đọc sự tò mò, ham thích tìm hiểu, khám phá. Văn chương của
ông cũng là những câu chuyện li kì, hoang đường, hấp dẫn, lôi cuốn bạn đọc.
b3. Viết tắt hoặc tỉnh lược để tạo bút danh
Những bút danh được tạo ra bằng cách này thường gợi sự tò mò đối với
người đọc như bút danh TCHYA của nhà văn Đái Đức Tuấn hay bút danh của
chủ tịch Hồ Chí Minh: Q.T, XYZ, N.A.K Ngoài ra có một số tác giả tỉnh

lược tên thật của mình để tạo bút danh như: Vũ Bằng (Vũ Đăng Bằng),
Nguyễn Bính (Nguyễn Trọng Bính), Huy Cận (Cù Huy Cận), Hữu Mai (Trần
Hữu Mai)
Như vậy dùng cách chơi chữ để đặt bút danh đã thể hiện được tài năng
của người viết, đồng thời giúp người đọc hiểu hơn về văn chương của họ.
1.3.2.4. Bút danh thể hiện hàm ý về khuynh hướng sáng tác, quan niệm
nghệ thuật, cá tính nhà văn
Cách đặt bút danh thể hiện một hàm ý nào đó được nhiều tác giả
chuộng dùng. Bởi lẽ, chỉ thông qua bút danh người đọc đã nắm bắt được phần
nào khuynh hướng sáng tác, quan niệm nghệ thuật hay cá tính sáng tạo của
nhà văn. Ta có thể bắt gặp cách đặt tên này qua bút danh của Tố Hữu, Chế
Lan Viên, Thế Lữ, Thâm Tâm, Vũ Trọng Phụng…
Tiêu biểu cho cách đặt bút danh này phải kể đến “đương thời đệ nhất thi
sĩ” của phong trào thơ Mới - Thế Lữ. Tên ông là Nguyễn Đình Lễ, nhưng lại có
bút danh Thế Lữ với nhiều ý nghĩa. “Thế”: là cuộc đời, “Lữ”: là người khách bộ
hành. Nhà thơ tự nhận mình là một lữ khách trên đường đời vạn dặm.
“Tôi là khách bộ hành phiêu lãng
Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi”
19

Bút danh Thế Lữ đã phảng chất phiêu lãng, thoát li. Người say mê,
thưởng ngoạn tạo vật.
“Tôi chỉ một khách tình si
Ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể”
Thơ của Thế Lữ là thơ lãng mạn, mơ màng, huyền diệu với biết bao
cảnh đẹp, tình ý đẹp trên cõi đời. Dù tác giả có những vần thơ đẹp về cõi tiên
với tiếng sáo tiền, với dáng nét những nàng tiên kiều diễm thì ẩn sâu trong đó
thi sĩ vẫn nói chuyện trần thế. Người vẫn si mê cảnh đẹp trần gian muôn hình
muôn vẻ, dáng nét từ “cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ” tới “nét
mong manh thấp thoáng cánh hoa bay”. Cuối cùng Thế Lữ vẫn là nhà thơ của

“vườn trần thế”
Ngoài ra đặt tên bút danh theo cách thể hiện ẩn ý còn phải kể tới Chế
Lan Viên. Ông tên thật là Phan Ngọc Hoan quê ở Bình Định. Bút danh Chế
Lan Viên của ông mang một ẩn ý sâu sắc. Quê ông xưa là vành nôi văn hóa
Chăm, nơi trị vì của các vị vua họ Chế như: Chế Bồng Nga, Chế Mân… cùng
với sự mở rộng bờ cõi của triều Lê, đất nước Chiêm Thành nay không còn
nữa. Dấu tích còn lại chỉ là những tháp Chàm, những câu chuyện về ma
Hời… tất cả điều ấy in đậm trong tâm trí Phan Ngọc Hoan. Ông tư nhận mình
là khu vườn lan của vua Chế để khóc thương cho đất nước Chiêm Thành xưa
cũ nhưng thực chất là khóc thương dân tộc Việt Nam đang bị ngoại bang xâm
lược. Từ bút danh Chế Lan Viên, người đọc nhận ra tâm lòng yêu nước sâu
kín của ông. Ông tìm về quá khứ để nói hiện tại, chìm về tưởng tượng hư vô
để nói thực tại nhãn tiền của đất nước đau thương mất mát.
Có rất nhiều tác giả đã chọn cách đặt tên bút danh để kín đáo thể hiện
một hàm ý. Từ đó các tác giả muốn người đọc tìm hiểu tác phẩm và nhận ra
tâm tình tác giả gửi gắm ngay từ bút danh của mình. Đây cũng là những cơ sở
lí luận và là cơ sở để chúng tôi khảo sát đề tài này.

×