Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Mối quan hệ giữa pháp luật và phong tục tập quán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.31 KB, 4 trang )

Pháp luật và phong tục tập quán là những quy phạm xã hội đã tồn tại song hành với
nhau trong xã hội và được mọi người tuân theo. Giữa chúng có những điểm giống nhau cơ bản
,những điểm khác biệt rõ ràng đến những mối liên hệ qua lại đặc biệt. Bài luận “Pháp luật và
Phong tục tập quán” của chúng tôi dưới đây mang ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tế nhằm
giúp cho việc nhận thức đầy đủ hơn về hai phạm trù lý luận này, từ đó xây dựng cơ sở cho việc
đánh giá thực trạng giữa 2 yếu tố này ở Việt Nam.
1.Định nghĩa:
-Phong tục tập quán (PTTQ) là những thói quen trong suy nghĩ ứng xử, những tục lệ đã
ăn sâu thành nếp trong đời sống xã hội, trong sinh hoạt thường ngày và được mọi người công
nhận, làm theo thông qua những hoạt động về mặt dư luận niềm tin, tín ngưỡng của cá nhân
với cộng đồng hoặc các biện pháp xử lý do cộng đồng áp đặt vào từng cá nhân có hành vi vi
phạm.
-Pháp luật (PL) là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và
đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội và là yếu tố điểu chỉnh các
mối quan hệ trong xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định xã hội.
2.Phân biệt :
a. Trước hết, PL và PTTQ tồn tại những điểm chung cơ bản :
- Chúng đều là những quy phạm xã hội.
- Mang tính khuôn mẫu chuẩn mực bắt buộc.
- Điều chỉnh hành vi con người, là công cụ duy trì sự ồn định đời sống cộng đồng và bảo đảm
trật tự xã hội.
b. Bên cạnh đó PL và PTTQ có những điểm khác biệt cơ bản qua các phương diện nguồn gốc,
chủ thể ban hành, đặc trưng, phạm vi điều chỉnh - tác động và biện pháp bao đảm thực hiện.
Phương diện Pháp luật PTTQ
Nguồn gốc -Ra đời song song cùng nhà nước.
-Là kết quả của chế độ tư hữu tư liệu sản
xuất, sự phân chia giai cấp và mâu thuẫn
giai cấp xã hội ngày càng gay gắt.
-PL ra đời như một thứ công cụ sắc bén
cho giai cấp thống trị điều hòa mâu thuẫn
ấy, củng cố duy tri địa vị quyền lợi của


mình
>Tạo nên tính giai cấp của PL.
-Ra đời từ rất sớm,trước khi có sự
xuất hiện của nhà nước.
-Ra đời một cách tự phát, tất yếu
như một nhu cầu không thể thiếu
của đời sống con người: điều chỉnh
quan hệ xã hội giữa con người với
nhau, đảm bảo ổn định đời sống xã
hội
>Tính mạc nhiện trong hình thành.
Chủ thể ban
hành
-Nhà nước hay chính là giai cấp thống trị
-PL là ý chí của giai cấp thống trị nâng lên
thành luật
>Tính ý chí giai cấp của PL.
-Một hay vài cá nhân có uy tín trong
cộng đồng hoặc toàn cộng đồng
cùng bàn bạc đặt ra ,thừa nhận
>Tính cộng đồng của PTTQ
Đặc trưng
Đặc trưng
-Tính quyền lực nhà nước :
+Hình thành bằng con đường nhà nước
+Các quy phạm pháp luật do nhà nước
đặt ra hoặc thừa nhận và bảo vệ bằng
biện pháp mang tính quyền lực nhà nước
-Không tồn tại tính quyền lực nhà
nước vì PTTQ không ra đời bằng

con đường nhà nước .
-Tính quy phạm phổ biến :
+PL là khuôn mẫu, chuẩn mực hướng
dẫn cách xử sự cho mọi người trong xã
hội.
+Mọi cá nhân tổ chức trong xã hội bắt
buộc phải tôn trọng thực hiện.
-Tính quy phạm chưa cao :
+PTTQ là những ứng xử hành vi
,thói quen nếp sống hàng ngày ,tục
lệ ăn sâu vào tiềm thức con người .
+Đòi hỏi sự tự giác của con người
là chính.
-Tính hệ thống:
+Bản thân PL là hệ thống quy tắc xử sự
chung, các nguyên tắc, các định hướng
để điều chỉnh các quan hệ xã hội ở các
lĩnh vực khác nhau trong đời sống.
+Các quy định PL không tồn tại một
cách biệt lập mà giữa chúng có mối quan
hệ nội tại và thống nhất, tạo ra một chính
thể là hệ thống PL.
-Không tồn tại tính hệ thống:
+Các PTTQ chủ yếu tồn tại ở
dạng đơn lẻ, cụ thể, gắn liền với
hành vi, thói quen sinh hoạt thường
ngày.
+Mỗi một PTTQ thường ứng dụng
vào một trường hợp cụ thể, tách
biệt.

-Tính xác định vè hình thức :
+PL thường được thể hiện ở hình thức
nhất định. Các hình thức cơ bản: tập
quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy
phạm PL.
+Các quy định PL thể hiện thành văn nên
thường rõ ràng cụ thể, thống nhất, được
người dân thông suốt trên một phạm vi
rộng lớn (VBQPPL).
>Đảm bảo tính minh bạch chính xác của
PL trong quá trình điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội.
-Tính uyển chuyển linh hoạt về hình
thức :
+Hình thức PTTQ thường rất đa
dạng. Một số hình thức:
\Bằng ngôn ngữ: truyền miệng, ca
dao, dân ca, thành ngữ, tục ngữ…
\Thói quen, ứng xử, kinh nghiệm
truyền lại dưới dạng thực hành xã
hội.
\Thành văn: hương ước, lệ làng.
>PTTQ dễ dàng ngấm sâu vào mỗi
con người như một phần máu thịt.
Phạm vi tác
động
-Rông lớn và phổ quát hơn so với PTTQ.
-PL chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội
có tầm quan trọng nhất định trong xã hội
và có thể tác động tới bất kỳ 1 cá nhân, tổ

chức và mọi vùng trên lãnh thổ quốc gia.
-Hẹp hơn so với PL.
-PTTQ mang tính cục bộ địa
phương nên khó được thực hiện
trên 1 phạm vi rộng.
+Mỗi địa phương đều có PTTQ
riêng và chỉ được áp dụng ở tại đó.
Phạm vi điều
chỉnh
-Rông lớn và phổ quát hơn so với PTTQ.
-PL chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội
có tầm quan trọng nhất định trong xã hội
và có thể tác động tới bất kỳ 1 cá nhân, tổ
chức và mọi vùng trên lãnh thổ quốc gia.
-Hẹp hơn so với PL.
-PTTQ mang tính cục bộ địa
phương nên khó được thực hiện
trên 1 phạm vi rộng.
+Mỗi địa phương đều có PTTQ
riêng và chỉ được áp dụng ở tại đó.
Biên pháp
bảo đảm
thực hiện
(Tính cưỡng
chế)
+Do nhà nước ban hành nên được nhà
nước đảm bảo thực hiện.
+Tùy điều kiện hoàn cảnh mà kết hợp các
biện pháp: tuyên truyền, giáo dục, hoạt
động tổ chức, biện pháp kinh tế, cưỡng

chế nhà nước để người dân nắm bắt điều
chỉnh hành vi theo ý muốn nhà nước.
+Nhà nước có các biện pháp hữu hiệu
bảo đảm cho các chủ thể thực hiện PL.
+Đảm bảo bởi sức mạnh bên trong
– sức mạnh thuộc sức mạnh của
thói quen xử sự và bên ngoài – dư
luận xã hội.
+Mọi người phải tuân thủ chặt chẽ
ai làm trái bị chê trách, dị nghị bởi
dư luận, phải chịu những hình phạt
từ cộng đồng. Từ đó đưa con
người vào khuôn khổ truyền thống.
3. Mối quan hệ giữa pháp luật và phong tục tập quán.
Pháp luật có 3 nguồn cơ bản là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy
phạm pháp luật. Phong tục tập quán cũng là bộ phận hình thành nên pháp luật cho
nên giữa phong tục tập quán và pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể
xem xét mối quan hệ này từ hai chiều ngược nhau.
Thứ nhất, quan hệ giữa pháp luật và phong tục tập quán
- Pháp luật ghi nhận, bảo vệ những tập tục tiến bộ và phù hợp với truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Có thể thấy rằng pháp luật là công cụ hữu hiệu
duy trì trật tự xã hội, điều hòa các mối quan hệ trong xã hội, nhưng pháp luật
cũng không phải là công cụ vạn năng có thể giải quyết hết mọi vấn dề nảy
sinh trong lòng đời sỗng xã hội, rất nhiều vấn đề, sự việc, pháp luật đã phải
sử dụng đến các tập tục, và các tập tục đã tỏ ra hữu hiệu hơn hẳn.
Ví dụ, pháp luật không quy định phải thành lập các tổ hòa giải nhưng mỗi thôn
bản đều có các tổ hòa giải làm việc rất hiệu quả không sử dụng đến các điều khoản
pháp luật mà thường là sử dụng tập tục phù hợp với pháp luật.
- Pháp luật hạn chế và loại trừ các tập tục lạc hậu, trái với thuần phong mĩ tục,
không phù hợp với lợi ích của nhà nước, cũng như của cộng đồng. Những

tập tục lạc hậu có nội dung trái pháp luật có thể xảy ra hai trường hợp :
+ Một số tập tục tồn tại trước khi có pháp luật đã quy định không khoa học,
không công bằng, hoặc quy định những biện pháp trừng phát tàn bạo, xâm hại thô
bạo đến nhân phẩm, danh dự, tính mạng con người.
+ tập tục ấy ra đời vì quy định của pháp luật ấy đã quá lỗi thời, không phù
hợp nhưng chưa được sửa đổi hoặc hủy bỏ.
Ví dụ : Tập tục chôn chung, tập tục nối dây người chết…
Phong tục tập quán có đời sống thực tế rất phong phú đa dạng, cả về con
đường hình thành, phương thức tồn tại, giá trị phản ánh trong các tộc người khác
nhau. Các giai đoạn phát triển khác nhau cho nên phong tục tập quán khi được hình
thành cũng có những phong tục tiến bộ, những phong tục lạc hậu, cổ hủ, do vậy
pháp luật bảo vệ những tập tục tiến bộ, loại trừ những hủ tục lạc hậu là điều rất cần
thiết. Ví dụ : Điều 5 Hiến pháp 1992 quy định “Các dân tộc có quyền dùng tiếng
nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, và phát huy những phong tục tập quán ,
truyền thống văn hóa tốt đẹp của mình ” – Phần 2, mục B, điểm 3 Nghị định 32,
quy định cấm : “ Tập tục cướp vợ để ép người phụ nữ làm vợ”
Thứ hai : Quan hệ giữa tập tục và pháp luật.
- Tập tục có vai trò thay thế pháp luật trong nhiều lĩnh vực : Phong tục có thể
thay thế pháp luật trong mốt số quan hệ xử sự trong xã hội khi mà pháp luật
chưa tìm được cách thức truyền bá có khả năng tác dụng sâu sắc đến ý thức
của các cá nhân, cộng đồng các dân tộc. Trong điều kiện nào đó, tập tục phát
huy vai trò thay thế pháp luật không phải ở một hay vài lĩnh vực nhất định
mà nó thay thế pháp luật ở rất nhiều lĩnh vực như : Dân sự, hình sự, hôn
nhân gia đình, bảo vệ rừng, đất đai, tín ngưỡng, khai khoáng… Có rất nhiều
tập tục phù hợp với tinh thần của pháp luật nhưng nếu được nâng lên thành
các quy phạm thì tính hiệu quả của nó không cao.nhưng nếu vẫn để nguyên
là tập tục thì hiệu quả của nó lại rất cao. Ví dụ như : Tập tục bảo vệ rừng
thiêng của người H’ mông.
- Tập tục có vai trò bổ sung hỗ trợ pháp luật bởi vì pháp luật có hoàn thiện
đến mấy cũng không thể dự liệu hết mọi tình huống cụ thể, không thể len lỏi

vào mọi ngóc ngách của đời sống xã hội. Trong những trường hợp đó lại tỏ
ra rất hữu hiệu và cũng rất phù hợp với tinh thần của pháp luật. Ngoài ra tập
tục còn có vai trò làm chi tiết hóa các điều luật . Ví dụ : Pháp luật nghiêm
cấm đánh bắt thủy hải sản bằng các hình thức gây nguy hại cho nguồn lợi
thủy sản như xung điện, thuốc nổ, các loại hóa chất… Nhưng tập tục lại quy
định rất cụ thể về loại hình đánh bắt bị cấm và quy định loại thủy sản nào bị
cấm khai thác.
Như vậy vai trò bổ sung, hỗ trợ của tập tục là rất lớn. Nhìn chung về cơ bản
pháp luật không ngăn cấm, không loại trừ tập tục, pháp luật tồn tại đồng hành cùng
với tập tục trong một thời gian nhất định. Pháp luật sẽ tiêu vong khi cơ sở kinh tế -
xã hội cho sự tồn tại của nó không còn. Ngược lại, những phong tục tốt đẹp vẫn
còn mãi với đời sống con người, trong mọi xã hội. Pháp luật chỉ ngăn cấm và loại
bỏ những tập tục trái pháp luật, có hại cho xã hội và không phù hợp với tiến bộ xã
hội.
Gặp những trường hợp có sự mâu thuẫn giữa tập tục và pháp luật thì không
được theo nguyên tắc “phép vua thua lệ làng” mà phải theo nguyên tắc pháp luật.
Pháp luật phải có tính tối cao so với tập tục . Hay nói cách khác, việc áp dụng tập
quán không được trái với các quy tắc của nghành luật hoăc pháp luật đã quy định.

×