Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

bài dự thi vận dụng kiến thức liên môn giải quyết tình huống ứng phó với biến đổi khí hậu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 32 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẬN LONG BIÊN
TRƯỜNG THCS ÁI MỘ

Địa chỉ: số 34 ngõ 298 đường Ngọc Lâm, quận Long Biên, thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0436501810
Tên tình huống:
ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Môn học chính được vận dụng để giải quyết tình huống: Địa lý.
Các môn học tích hợp: Sinh học, Hóa học, Vật lí, Giáo dục công dân, Giáo
dục nếp sống văn minh thanh lịch.
Thông tin về nhóm học sinh:
1. Họ và tên : Mai Mạnh Tân
Ngày sinh: 05/03/2001 Lớp: 8B
2. Họ và tên: Phạm Hồng Quang
Ngày sinh: 01/01/2001 Lớp: 8B
1. TÊN TÌNH HUỐNG.
ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Hiện nay ô nhiễm môi trường đã và đang dần phá hủy hành tinh tươi đẹp của
chúng ta, gây ra những hậu quả vô cùng to lớn đối với đời sống con người. Một trong
những hậu quả to lớn đó là hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu. Hậu quả này không
chỉ riêng của quốc gia nào mà nó mang tính chất toàn cầu, các nước trên thế giới đã
nhóm họp với nhau để tìm cách ứng phó với biến đổi khí hậu. Là một đất nước có một
mặt giáp biển, Việt Nam chúng ta không nằm ngoài những ảnh hưởng đó. Vậy chúng
ta phải làm gì để ứng phó với biến đổi khí hậu?
2. MỤC TIÊU GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG.
Vận dụng kiến thức liên môn để:
* Về kiến thức:
- Hiểu khái niệm biến đổi khí hậu.
- Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu.
- Hậu quả của biến đổi khí hậu đối với tự nhiên và đời sống con người.


- Các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.
* Về thái độ:
- Đồng tình với chủ trương của Nhà nước và thế giới về ứng phó với biến đổi
khí hậu.
- Có ý thức tham gia các hoạt động bảo vệ, tuyên truyền người thân và cộng
đồng cùng có ý thức bảo vệ môi trường: ngày trái đất, giờ trái đất, giảm lượng khí
thải……
- Phê phán, tố cáo những hành vi làm ô nhiễm môi trường.
* Về kĩ năng:
- Rèn kỹ năng tự học, tư duy, sáng tạo, thu thập xử lí thông tin, phân tích tổng
hợp kiến thức.
- Biết giúp đỡ mọi người cùng tham gia bảo vệ môi trường và thực hiện pháp
luật của Nhà nước.
3. TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI QUYẾT TÌNH
HUỐNG.
Để có thể giải quyết tình huống một cách hiệu quả ta cần áp dụng những kiến thức
liên môn sau:
* Môn sinh học:
- Lớp 6:
+ Bài: Quang hợp.
+ Bài: Thực vật góp phần điều hòa khí hậu.
- Lớp 9:
+ Ô nhiễm môi trường.
+ Sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên.
+ Luật bảo vệ môi trường.
* Môn Hoá học:
- Lớp 8:
+ Không khí - sự cháy.
+ Tính chất hóa học của nước.
- Lớp 9:

+ Tính chất hóa học của oxit.
+ Nhiên liệu.
+ Cacbon.
+ Các oxit của cacbon.
* Môn Giáo dục công dân:
- Lớp 7: Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
* Môn Địa lí:
- Lớp 7:
+ Bài: Ô nhiễm môi trường ở đới ôn hòa.
+ Bài: Hoạt động nông nghiệp, công nghiệp ở đới ôn hòa.
+ Bài: Hoạt động nông nghiệp, công nghiệp ở đới ôn hòa.
- Lớp 6:
+ Bài: Tác động của nội lực và ngoại lực lên bề mặt trái đất.
+ Bài: Lớp vỏ khí.
+ Bài: Khí áp và gió.
+ Bài: Hơi nước trong không khí.
*Môn Vật lí:
- Lớp 7:
+ Bài: Bức xạ ánh sáng.
- Lớp 8:
+ Bài: Bức xạ nhiệt.
+ Bài: Đối lưu.
+ Bài: Sự nổi.
*Giáo dục nếp sống văn minh thanh lịch:
+ Bài: Ứng xử với môi trương thiên nhiên.
4. Giải pháp giải quyết tình huống.
- Viết bài phân tích về biến đổi khí hậu.
- Sưu tầm tranh ảnh có nội dung liên quan đến biến đổi khí hậu .
5. Thuyết minh tiến trình giải quyết tình huống
a. Tóm tắt quá trình thực hiện:

- Xác định các nội dung chính.
- Tìm hiểu thực tiễn.
- Trao đổi với bạn bè thầy cô.
- Viết bài.
b. Tư liệu sử dụng: Sách giáo khoa Sinh học 6,9, Hóa học 8,9, Địa lí 6,7, Vật lí 7,
Vật lí 8, Công dân 7, Tài liệu thanh lịch văn minh 8.
c. Ứng dụng CNTT: phần mềm tìm kiếm google, báo mạng…
Bước 1: Xác định các nội dung chính.
- Khái niệm biến đổi khí hậu.
- Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu.
- Hậu quả của biến đổi khí hậu đối với tự nhiên và đười sống con người.
- Một số giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.
Bước 2: Tìm hiểu thực trạng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tại Việt Nam
* Em đã sưu tầm một số hình ảnh về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tại Việt Nam:
đó là hiện tượng triều cường tại Thành phố Hồ Chí Minh và các cơn bão hằng năm chúng
ta phải gánh chịu.
Bước 3: Trao đổi với bạn bè và thầy cô.
Bước 4: Từ những ý kiến của thày cô, bạn bè kết hợp với kiến thức liên môn
và các thông tin thu thập được  Viết bài phân tích.
ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
I.Định nghĩa:
"Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển,
sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân
tạo".
Môi trường trước đây
Môi trường hiện tại
“Biến đổi khí hậu là “những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu”, là những biến đổi
trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành
phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý
hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của

con người”.(Theo công ước chung của LHQ về biến đổi khí hậu).
II.Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu:
1. Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra
các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính
như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự biến
đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto nhằm hạn chế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu
bao gồm: CO
2
, CH
4
, N
2
O, HFCs, PFCs và SF
6
.
- CO
2
phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn khí
nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO
2
cũng sinh ra từ các
hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và cán thép.
- CH
4
sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ thống
khí, dầu tự nhiên và khai thác than.
- N
2
O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
- HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là sản

phẩm phụ của quá trình sản xuất HCFC-22.
- PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
- SF
6
sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.
Khí thải công nghiệp
2. Chặt phá rừng bừa bãi:
Khí thải công nghiệp
Khí thải giao thông
III.Các biểu hiện của biến đổi khí hậu:
- Sự nóng lên của khí quyển và Trái đất nói chung.
- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của
con người và các sinh vật trên Trái đất.
- Sự dâng cao mực nước biển do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng đất
thấp, các đảo nhỏ trên biển.
- Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác
nhau của Trái đất dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật, các hệ
sinh thái và hoạt động của con người.
- Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình
tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
- Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần
của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.
IV. Một số hiện tượng của biến đổi khí hậu:
1. Hiệu ứng nhà kính
* Vậy hiệu ứng nhà kính là gì?
"Kết quả của sự của sự trao đổi không cân bằng về năng lượng giữa trái đất với không
gian xung quanh, dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển trái đất được gọi là Hiệu
ứng nhà kính"
Hiệu ứng nhà kính, dùng để chỉ hiệu ứng xảy ra khi năng lượng bức xạ của tia sáng mặt
trời, xuyên qua các cửa sổ hoặc mái nhà bằng kính, được hấp thụ và phân tán trở lại thành

nhiệt lượng cho bầu không gian bên trong, dẫn đến việc sưởi ấm toàn bộ không gian bên
trong chứ không phải chỉ ở những chỗ được chiếu sáng.
Nguyên nhân gây hiệu ứng nhà kính:
Có nhiều khí gây hiệu ứng nhà kính, gồm CO
2
, CH
4
, CFC, SO
2
, hơi nước Khi ánh sáng
mặt trời chiếu vào Trái Đất, một phần được Trái Đất hấp thu và một phần được phản xạ
vào không gian. các khí nhà kính có tác dụng giữ lại nhiệt của mặt trời, không cho nó
phản xạ đi, nếu các khí nhà kính tồn tại vừa phải thì chúng giúp cho nhiệt độ Trái Đất
không quá lạnh nhưng nếu chúng có quá nhiều trong khí quyển thì kết quả là Trái Đất
nóng lên.
Vai trò gây nên hiệu ứng nhà kính của các chất khí được xếp theo thứ tự sau: CO
2
=>
CFC => CH
4
=> O
3
=> NO
2
Phân loại:
* Hiệu ứng nhà kính khí quyển:
Các tia bức xạ sóng ngắn của mặt trời xuyên qua bầu khí quyển đến mặt đất và được phản
xạ trở lại thành các bức xạ nhiệt sóng dài. Một số phân tử trong bầu khí quyển, trong đó
trước hết là điôxít cacbon và hơi nước, có thể hấp thụ những bức xạ nhiệt này và thông
qua đó giữ hơi ấm lại trong bầu khí quyển. Hàm lượng ngày nay của khí đioxit cacbon

vào khoảng 0,036% đã đủ để tăng nhiệt độ thêm khoảng 30°C. Nếu không có hiệu ứng
nhà kính tự nhiên này nhiệt độ trái đất của chúng ta chỉ vào khoảng - 15°C.
Có thể hiểu một cách sơ lược như sau: ta biết nhiệt độ trung bình của bề mặt trái đất được
quyết định bởi cân bằng giữa năng lượng mặt trời chiếu xuống trái đất và lượng bức xạ
nhiệt của mặt đất vào vũ trụ. Bức xạ nhiệt của mặt trời là bức xạ có sóng ngắn nên dễ
dàng xuyên qua tầng ozon và lớp khí CO
2
để đi tới mặt đất, ngược lại bức xạ nhiệt từ trái
đất vào vũ trụ là bước sóng dài, không có khả năng xuyên qua lớp khí CO
2
dày và bị
CO
2
+ hơi nước trong khí quyên hấp thụ. Như vậy lượng nhiệt này làm cho nhiệt độ bầu
khí quyển bao quanh trái đất tăng lên. Lớp khí CO
2
có tác dụng như một lớp kính giữ
nhiệt lượng tỏa ngược vào vũ trụ của trái đất trên quy mô toàn cầu. Bên cạnh CO
2
còn có
một số khí khác cũng được gọi chung là khí nhà kính như NO
x
, Metan, CFC.
* Hiệu ứng nhà kính nhân tạo:
Từ khoảng 100 năm nay con người tác động mạnh vào sự cân bằng nhạy cảm này giữa
hiệu ứng nhà kính tự nhiên và tia bức xạ của mặt trời. Sự thay đổi nồng độ của các khí
nhà kính trong vòng 100 năm lại đây (điôxít cacbon tăng 20%, mêtan tăng 90%) đã làm
tăng nhiệt độ lên 2°C.
Những ảnh hưởng có thể xảy ra do hiệu ứng nhà kính:
Việc tăng nồng độ các khí nhà kính do loài người gây ra, hiệu ứng nhà kính nhân loại, sẽ

làm tăng nhiệt độ trên toàn cầu (sự nóng lên của khí hậu toàn cầu) và như vậy sẽ làm thay
đổi khí hậu trong các thập kỷ và thập niên kế đến.
Một số hậu quả liên đới với việc thay đổi khí hậu do hiệu ứng này có thể gây ra:
Các nguồn nước : Chất lượng và số lượng của nước uống, nước tưới tiêu, nước cho kỹ
nghệ và cho các máy phát điện, và sức khỏe của các loài thủy sản có thể bịảnh hưởng
nghiêm trọng bởi sự thay đổi của các trận mưa rào và bởi sự tăng khí bốc hơi. Mưa tăng
có thể gây lụt lội thường xuyên hơn. Khí hậu thay đổi có thể làm đầy các lòng chảo nối
với sông ngòi trên thế giới.
Các tài nguyên bờ biển: Chỉ tại riêng Hoa Kỳ, mực nước biển dựđoán tăng 50 cm vào
năm 2100, có thể làm mất đi 5.000 dặm vuông đất khô ráo và 4.000 dặm vuông đất ướt.
Sinh vật: Sự nóng lên của trái đất làm thay đổi điều kiện sống bình thường của các sinh
vật trên trái đất. Một số loài sinh vật thích nghi với điều kiện mới sẽ thuận lợi phát triển.
Trong khi đó nhiều loài bị thu hẹp về diện tích hoặc bị tiêu diệt.
Sức khỏe: Nhiều loại bệnh tật mới đối với con người xuất hiện, các loại dịch bệnh lan
tràn, sức khoẻ của con người bị suy giảm. Số người chết vì nóng có thể tăng do nhiệt độ
cao trong những chu kì dài hơn trước. Sự thay đổi lượng mưa và nhiệt độ có thể đẩy
mạnh các bệnh truyền nhiễm.
Lâm nghiệp : Nhiệt độ cao hơn tạo điều kiện cho nạn cháy rừng dễ xảy ra hơn.
Năng lượng và vận chuyển: Nhiệt độ ấm hơn tăng nhu cầu làm lạnh và giảm nhu cầu làm
nóng. Sẽ có ít sự hư hại do vận chuyển trong mùa đông hơn, nhưng vận chuyển đường
thủy có thể bịảnh hưởng bởi số trận lụt tăng hay bởi sự giảm mực nước sông.
Xa hơn nữa nếu nhiệt độ của quả đất đủ cao thì có thể làm tan nhanh băng tuyết ở Bắc
Cực và Nam Cực và do đó mực nước biển sẽ tăng quá cao, có thể dẫn đến nạn hồng thủy
Các biện pháp để giảm trừ hiệu ứng nhà kính:
Một trong những cố gắng đầu tiên của nhân loại để giảm mức độ ấm dần do khí thải kỹ
nghệ là việc các quốc gia đã tham gia bàn thảo và tìm cách kí kết một hiệp ước có tên là
Nghị định thư Kyoto.
Tuy nhiên, về phía nội bộ nước Mỹ và các nước tiên tiến khác, nhiều nỗ lực để giảm khí
độc mà chủ yếu thải ra từ xe máy nổ và các nhà máy kỹ nghệ đã được áp dụng khá mạnh
mẽ. Ở Hoa Kỳ, hầu hết các tiểu bang đều có luật bắt buộc các phương tiện giao thông

dùng động cơ nổ phải có giấy chứng nhận qua được các thử nghiệm định kì về việc đạt
tiêu chuẩn nhả khói của hệ thống xe.
Trồng nhiều cây xanh (nhất là những loại cây hấp thụ nhiều CO
2
trong quá trình quang
hợp) nhằm làm giảm lượng khí CO
2
trong bầu khí quyển, từ đó làm giảm hiệu ứng nhà
kính khí quyển.
Hãy tiết kiệm điện: Một phần điện năng được sản xuất từ việc đốt các nhiên liệu hóa
thạch, sinh ra một lượng khí CO
2
lớn. Hãy sử dụng ánh sáng tự nhiên, dùng bóng đèn tiết
kiệm điện, tắt hết các thiết bịđiện khi ra khỏi phòng.
Khi cần di chuyển những quãng đường gần, hãy đi bộ thay vì dùng xe máy. Sử dụng các
phương tiện giao thông công cộng, đi học bằng xe đạp, vừa bảo vệ được túi tiền lại vừa
bảo vệ môi trường!
Hãy cho những cái bếp than hay bếp dầu “cổ lổ” đi vào quá khứ, sử dụng bếp gas vừa
nhanh lẹ vừa tốt cho môi trường.
Hãy dùng Hàng Việt Nam chất lượng cao. Tại sao chúng ta lại ăn nho Mĩ, táoNew
Zealand trong khi đất nước ta bốn mùa đều có trái cây tươi ngon, không có chất bảo
quản? Việc vận chuyển hàng hóa giữa các nước tạo ra một lượng khí CO
2
khổng lồ và đó
rõ ràng là một sự lãng phí tài nguyên rất lớn.
Hãy tiết kiệm giấy (in giấy ở cả 2 mặt, sử dụng tập cũ để làm giấy nháp…), tái chế bao
nilông, vỏ chai nhựa sẽ giúp bảo vệ môi trường và giảm khí CO
2
trong quá trình sản xuất.
2. Mưa axit

* Vậy mưa axit là gì?
Mưa axit được phát hiện ra đầu tiên năm 1948 tại Thuỵ Ðiển. Nguyên nhân là vì con
người đốt nhiều than đá, dầu mỏ. Trong than đá và dầu mỏ thường chứa một lượng lưu
huỳnh, còn trong không khí lại rất nhiều khí nitơ.
Trong quá trình đốt có thể sinh ra các khí Sunfua đioxit (SO2), Nitơ đioxit (NO2).
Các khí này hoà tan với hơi nước trong không khí tạo thành các hạt axit sunfuaric
(H2SO4), axit nitơric (HNO3).
Khi trời mưa, các hạt axit này tan lẫn vào nước mưa, làm độ pH của nước mưa giảm.
Nếu nước mưa có độ pH dưới 5,6 được gọi là mưa axit.
Do có độ chua khá lớn, nước mưa có thể hoà tan được một số bụi kim loại và ôxit kim
loại có trong không khí như ôxit chì, làm cho nước mưa trở nên độc hơn đối với cây
cối, vật nuôi và con người.
Mưa axit ảnh hưởng xấu tới các thuỷ vực (ao, hồ). Các dòng chảy do mưa axit đổ vào hồ,
ao sẽ làm độ pH của hồ, ao giảm đi nhanh chóng, các sinh vật trong hồ, ao suy yếu hoặc
chết hoàn toàn. Hồ, ao trở thành các thuỷ vực chết.
Mưa axit ảnh hưởng xấu tới đất do nước mưa ngầm xuống đất làm tăng độ chua của đất,
hoà tan các nguyên tố trong đất cần thiết cho cây như canxi (Ca), Magiê (Mg), làm suy
thoái đất, cây cối kém phát triển. Lá cây gặp mưa axit sẽ bị "cháy" lấm chấm, mầm sẽ
chết khô, làm cho khả năng quang hợp của cây giảm, cho năng suất thấp.
Mưa axit còn phá huỷ các vật liệu làm bằng kim loại như sắt, đồng, kẽm, làm giảm tuổi
thọ các công trình xây dựng.
3.Thủng tầng ôzon
* Vậy tầng ôzôn là gì?
Khí Ozon gồm 3 nguyên tử oxy (0
3
). Tầng bình lưu nằm trên tầng đối lưu với ranh giới
trên dao động trong khoảng độ cao 50 km. Ở ÐỘ CAO KHOẢNG 25 KM TRONG
TẦNG bình lưu tồn tại một lớp không khí giàu khí Ozon (O3) thường được gọi là tầng
Ozon. Hàm lượng khí Ozon trong không khí rất thấp, chiếm một phần triệu, chỉ ở độ cao
25 - 30 km, khí Ozon mới đậm đặc hơn (chiếm tỉ lệ 1/100.000 trong khí quyển). Người ta

gọi tầng khí quyển ở độ cao này là tầng Ozon.
Nếu tầng Ozon bị thủng, một lượng lớn tia tử ngoại sẽ chiếu thẳng xuống Trái đất. Con
người sống trên Trái đất sẽ mắc bệnh ung thư da, thực vật không chịu nổi nhiều tia tử
ngoại chiếu vào sẽ bị mất dần khả năng miễn dịch, các sinh vật dưới biển bị tổn thương
và chết dần. Bởi vậy các nước trên thế giới đều rất lo sợ trước hiện tượng thủng tầng
Ozon.
* Các nguyên nhân dẫn đến thủng tầng ôzon:
Tháng 10 năm 1985, các nhà khoa học Anh phát hiện thấy tầng khí ozon trên không trung
Nam cực xuất hiện một "lỗ thủng" rất lớn, bằng diện tích nước Mỹ. Năm 1987, các nhà
khoa học Ðức lại phát hiện tầng khí ozon ở vùng trời Bắc cực có hiện tượng mỏng dần,
có nghĩa là chẳng bao lâu nữa tầng ozon ở Bắc cực cũng sẽ bị thủng. Tin này nhanh
chóng được truyền khắp thế giới và làm chấn động dư luận.
Các nhà khoa học đều cho rằng, nguyên nhân này có liên quan tới việc sản xuất và sử
dụng tủ lạnh trên thế giới. Sở dĩ tủ lạnh có thể làm lạnh và bảo quản thực phẩm được lâu
là vì trong hệ thống ống dẫn khép kín phía sau tủ lạnh có chứa loại dung dịch freon thể
lỏng (thường gọi là "gas"). Nhờ có dung dịch hoá học này tủ lạnh mới làm lạnh được.
Dung dịch freon có thể bay hơi thành thể khí. Khi chuyển sang thể khí, freon bốc thẳng
lên tầng ozon trong khí quyển Trái đất và phá vỡ kết cầu tầng này, làm giảm nồng độ khí
ozon.
Không những tủ lạnh, máy lạnh cần dùng đến freon mà trong dung dịch giặt tẩy, bình cứu
hoả cũng sử dụng freon và các chất thuộc dạng freon. Trong quá trình sản xuất và sử
dụng các hoá chất đó không tránh khỏi thất thoát một lượng lớn hoát chất dạng freon bốc
hơi bay lên phá huỷ tầng ozon. Qua đó chúng ta thấy rằng, tầng zon bị thủng chính là do
các chất khí thuộc dạng freon gây ra, các hoá chất đó không tự có trong thiên nhiên mà
do con người tạo ra. Rõ ràng, con người là thủ phạm làm thủng tầng ozon, đe doạ sức
khoẻ của chính mình,
Sớm ngừng sản xuất và sử dụng các hoá chất dạng freon là biện pháp hữu hiệu nhất để
cứu tầng ozon. Nhiều hội thảo quốc tế đã bàn tính các biện pháp khắc phục nguy cơ
thủng rộng tầng ozon. 112 nước thuộc khối Cộng đồng Châu Âu (EEC) đã nhất trí đến
cuối thế kỷ này sẽ chấm dứt sản xuất và sử dụng các hoá chất thuộc dạng freon. Vì vậy

các nhà khoa học đang nghiên cứu sản xuất loại hoá chất khác thay thế các hoá chất ở
dạng freon, đồng thời sẽ chuyển giao công nghệ sản xuất cho các nước đang phát triển.
Có như vậy, việc ngừng sản xuất freon mới trở thành hiện thực. Muốn đạt được yêu cầu
thiết thực này, không chỉ riêng một vài nước mà cả thế giới đều phải cố gắng thì mới có
thể bảo vệ được tầng ozon của Trái đất.
4. Cháy rừng
* Nguyên nhân cháy rừng
Do người đi rừng thiếu ý thức như vứt tàn thuốc, đốt than, đốt rác hoặc gây cháy trong
lúc khai thác rừng trồng.
5. Lũ lụt
* Nguyên nhân lũ lụt
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến lũ lụt nhưng chủ yếu là do ý thức của con người gây
ra.
6. Hạn hán
*Hạn hán là gì ?
Hạn là một hiện tượng tự nhiên được coi là thiên tai, tạo thành bởi sự thiếu hụt nghiêm
trọng lượng mưa trong thời gian kéo dài, làm giảm hàm lượng ẩm trong không khí và
hàm lượng nước trong đất, làm suy kiệt dòng chảy sông suối, hạ thấp mực nước ao hồ,
mực nước trong các tầng chứa nước dưới đất gây ảnh hưởng xấu đến sự sinh trưởng của
cây trồng, làm môi trường suy thoái gây đói nghèo dịch bệnh nếu xắp xếp theo thứ tự
gây thiệt hại về tài sản và sinh mạng trên toàn cầu thì hạn hán đứng thứ 4 sau lũ lụt, động
đất và bão. Riêng đối với khu vực Tây Nguyên, hạn hán là thiên tai gây ảnh hưởng tiêu
cực nhất tới đời sống, sản xuất.
*Nguyên nhân gây ra hạn hán:
- Do khí hậu thời tiết bất thường gây nên lượng mưa thiếu hụt thường xuyên kéo dài
hoặc nhất thời thiếu hụt
Mưa rất ít, lượng mưa không đáng kể trong thời gian dài hầu như quanh năm, đây là
tình trạng phổ biến trên các vùng khô hạn và bán khô hạn. Lượng mưa trong khoảng thời
gian dài đáng kể thấp hơn rõ rệt mức trung bình nhiều năm cùng kỳ. Tình trạng này có
thể xảy ra trên hầu khắp các vùng, kể cả vùng mưa nhiều.

Mưa không ít lắm, nhưng trong một thời gian nhất định trước đó không mưa hoặc mưa
chỉ đáp ứng nhu cầu tối thiểu của sản xuất và môi trường xung quanh. Đây là tình trạng
phổ biến trên các vùng khí hậu gió mùa, có sự khác biệt rõ rệt về mưa giữa mùa mưa và
mùa khô.
- Do con người gây ra:
Trước hết là do tình trạng phá rừng bừa bãi làm giảm khả năng điều tiết nước mặt, hạ
thấp mực nước ngầm dẫn đến cạn kiệt nguồn nước; việc trồng cây không phù hợp, vùng
ít nước cũng trồng cây cần nhiều nước (như lúa) làm cho việc sử dụng nước quá nhiều,
dẫn đến việc cạn kiệt nguồn nước; thêm vào đó công tác quy hoạch sử dụng nước, bố trí
công trình không phù hợp, làm cho nhiều công trình không phát huy được tác dụng
Vùng cần nhiều nước lại bố trí công trình nhỏ, còn vùng thiếu nước (nguồn nước tự
nhiên) lại bố trí xây dựng công trình lớn. Cạnh đó, chất lượng thiết kế, thi công công trình
chưa được hiện đại hóa và không phù hợp. Thêm nữa, hạn hán thiếu nước trong mùa khô
cạn là do không đủ nguồn nước và thiếu những biện pháp cần thiết để đáp ứng nhu cầu sử
dụng ngày càng gia tăng do sự phát triển kinh tế - xã hội ở các khu vực, các vùng chưa có
quy hoạch hợp lý hoặc quy hoạch phát triển không phù hợp với mức độ phát triển nguồn
nước, không hài hoà với tự nhiên, môi trường vốn vẫn tồn tại lâu nay. Mức độ nghiêm
trọng của hạn hán thiếu nước càng tăng cao do nguồn nước dễ bị tổn thương, suy thoái lại
chịu tác động mạnh của con người.
*Tác hại của hạn hán:
Hạn hán có tác động to lớn đến môi trường, kinh tế, chính trị xã hội và sức khoẻ con
người. Hạn hán là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, bệnh tật thậm chí là chiến tranh do
xung đột nguồn nước.
Hạn hán tác động đến môi trường như huỷ hoại các loài thực vật, các loài động vật,
quần cư hoang dã, làm giảm chất lượng không khí, nước, làm gia tăng nguy cơ cháy
rừng, xói lở đất. Các tác động này có thể kéo dài và không khôi phục được.
Hạn hán tác động đến kinh tế xã hội như giảm năng suất cây trồng, giảm diện tích gieo
trồng, giảm sản lượng cây trồng, chủ yếu là sản lượng cây lương thực. Tăng chi phí sản
xuất nông nghiệp, giảm thu nhập của lao động nông nghiệp. Tăng giá thành và giá cả các
lương thực. Giảm tổng giá trị sản phẩm chăn nuôi. Các nhà máy thuỷ điện gặp nhiều khó

khăn trong quá trình vận hành.
Hạn hán có đặc điểm là hình thành chậm, thời gian ảnh hưởng kéo dài, có tác động tiêu
cực tới nhiều lĩnh vực bao gồm đời sống sinh hoạt, sản xuất, môi trường,vv. Ở Tây
Nguyên hầu như năm nào cũng bị hạn hán đe dọa. Năm bình thường hoặc có mưa khá thì
Tây Nguyên cũng phải chịu vài, ba tháng khô hạn (thường là từ giữa tháng 1 đến đầu
tháng 4) với trên 2/3 số vùng ảnh hưởng nắng hạn và thiếu nước. Đây là thời kỳ mà độ
ẩm không khí, lượng mưa và lượng dòng chảy đạt thấp nhất trong năm và cũng là thời kỳ
cao điểm của nắng nóng. Với đặc thù là lượng mưa năm có sự biến động khá lớn quanh
trị trung bình (năm mưa nhiều có thể có lượng lớn gấp đôi năm mưa ít), và lượng dòng
chảy trong sông suối lại phụ thuộc chủ yếu vào mưa nên những năm mưa ít thì tình trạng
hạn và thiếu nước trong mùa khô liền kề diễn ra rất gay gắt. Tần suất xuất hiện những
năm hạn nghiêm trọng ở Tây Nguyên vượt 20% tức khoảng 5 năm lại có một năm hạn
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Đập cạn
*Dự báo hạn:
Khác với các thiên tai khác, hạn phát triển chậm và thường chỉ được phát hiện khi con
người đã ít nhiều bị ảnh hưởng bởi hạn. Cho đến nay các nhà khoa học đã phác họa được
một số căn cứ khoa học quan trọng giúp ích cho dự báo hạn như:
Tương tác đại dương khí quyển và hiện tượng Elnino. Các Elnino và Lanina xảy ra ở
vùng xích đạo nhiệt đới Thái Bình Dương có quan hệ chặt chẽ với sự tăng hay giảm
mạnh mẽ lượng mưa ở các khu vực xung quanh Thái Bình Dương, đặc biệt đối với những
khu vực thuộc nhiệt đới. Ở nước ta hiệu ứng Elnino có xu hướng tăng cường khả năng
hạn hán trên một số khu vực, trong đó khu vực Tây nguyên có mức độ ảnh hưởng rõ nét
nhất.
Áp cao phó nhiệt đới Thái Bình Dương: Sự khống chế của hệ thống áp cao gắn liền với
thời kỳ ít mưa. Đối với những khu vực nhất định, hạn hán hình thành và kéo dài khi áp
cao Thái Bình Dương phát triển trên phần lớn đại dương nhiệt đới. Người ta bắt đầu xây
dựng và đưa vào thử nghiệm một số mô hình dự báo thời tiết hạn dài, cảnh báo hạn hán
dựa trên quá trình vận động của các trung tâm khí áp, trong đó có áp cao phó nhiệt đới

Thái Bình Dương.
*Phòng chống hạn:
Mặc dù hạn hán là một hiện tượng khắc nghiệt của thiên nhiên nhưng chúng ta vẫn có
thể giảm nhẹ những thiệt hại do hạn hán gây ra thông qua việc phòng, chống hạn hán một
cách có hiệu quả. Chúng ta cần phải sử dụng hợp lý tài nguyên nước trong sản xuất cũng
như trong sinh hoạt. Trong sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp, tiết kiệm nước cần
được thực hiện về cả 3 phương diện: quy hoạch tưới tiêu hợp lý, xây dựng đồng ruộng có
khả năng tăng cường giữ nước trong đất và tuyển lựa được các giống cây trồng có nhiều
khả năng chịu hạn. Xây dựng mới những hồ chứa có dung tích thích hợp nhằm tăng
cường dòng chảy kiệt cho các hệ thống sông. Xây dựng mới và nâng cấp các công trình
tưới tiêu, giành thế chủ động tưới tiêu trên phần lớn diện tích canh tác nông nghiệp, vừa
là giải pháp trước mắt vừa là giải pháp lâu dài phòng, chống hạn hán. Ngoài ra, một giải
pháp phòng chống hạn khác có hiệu quả lâu dài và bền vững là trồng rừng và bảo vệ
rừng.
7. Sa mạc hóa
* Sa mạc hóa là gì?
Sa mạc hóa là hiện tượng suy thoái đất đai ở những vùng khô cằn, gây ra bởi sinh hoạt
con người và biến đổi khí hậu. Khuynh hướng sa mạc hóa gần đây đã tăng nhanh trên
toàn thế giới phần vì áp lực dân số và nhu cầu trồng trọt và chăn nuôi. Ảnh hưởng lớn
nhất của nạn sa mạc hóa là nét đa dạng sinh thái bị suy giảm và năng suất đất đai cũng
kém đi. Nguyên do Một số nguyên do gây ra nạn sa mạc hóa, phần lớn là do tác động của
con người từ khoảng 10.000 năm nay (Thế Holocen). Việc lạm dụng đất đai trong các
ngành chăn nuôi gia súc, canh tác ruộng đất, phá rừng, đốt đồng, trữ nước, khai giếng,
tăng lượng thổ diêm (soil salinity) và biến đổi khí hậu toàn cầu đã góp sức làm sa mạc
hóa nhiều vùng trên trái đất. Đất sa mạc thường có biên giới rõ rệt với miền kế cận nhưng
cũng có khi vùng sa mạc tiếp giáp một vùng chuyển tiếp rồi mới đến vùng đất ẩm nên
miền ven sa mạc khó ấn định hơn. Vùng chuyển tiếp ở ven sa mạc này thường có hệ sinh
thái mong manh. Đây cũng là nơi có nhiều tiểu khí hậu. Thí dụ như: cồn cát cao có thể
che khuất gió cho một thửa đất trũng, và từ đó tạo điều kiện cho cây cỏ mọc xen vào. Đến
khi có mưa thì vùng có thảo mộc sẽ có nhiệt độ mát hơn. Hệ sinh thái ở vùng ven rất dễ

bị giao động bởi sinh hoạt con người như trong trường hợp chăn nuôi. Móng guốc của
loài mục súc thường nện chặt các tầng đất, làm giảm lượng nước thấm xuống các mạch
nước ngầm. Những lớp đất trên thì chóng khô, dễ bị gió mưa soi mòn. Con người còn gây
nên nạn đốn cây lấy củi cùng động tác của các loài gia súc gặm cỏ làm hư lớp rễ thảo
mộc vốn quyện lớp đất xuống. Đất vì đó dễ tơi lên, chóng bị khô và biến thành bụi. Hiện
tượng này diễn ra ở những vùng ven sa mạc khi con người chuyển từ lối sống du mục
sang lối sống ngụ canh. Các cồn cát sa mạc cũng có thể di chuyển góp phần vào hiện
tượng sa mạc hóa. Gió là động lực chính đẩy các cồn cát. Những hạt cát có thể lăn trên
mặt đất hoặc tung lên trên không rồi rơi xuống. Chính động tác tung lên sẽ làm giao động
thêm, khuếch đại lượng cát bị xô đẩy. Kết quả là lũ cát khi cả một cồn cát trườn vào. Khi
có gió mạnh làm bão cát thì lũ cát có thể làm cồn cát tiến lên hàng chục mét tương tự như
hiện tượng tuyết truồi (avalanche). Lũ cát còn có thể xảy ra khi cát dồn lên đến đỉnh cồn
sẽ trượt xuồng triền dốc bên kia, làm cồn cát tiến lên. Hạn hán có khi bị ngộ nhận là
nguyên do của tiến trình sa mạc hóa. Hạn hán phải nói là góp phần trong tiến trình đó
nhưng nguyên do chính là do áp lực sinh hoạt con người trên môi trường thiên nhiên.
Theo địa chất học thì trước thời kỳ văn minh nhân loại, không có bằng chứng khoa học
nào để nói rằng diện tích sa mạc đang lan rộng thêm. Chỉ sau khi con người thay đổi môi
sinh ta mới thấy hiện tượng sa mạc hóa.
8. Hiện tượng sương khói
V.Thực trạng và hậu quả của việc biến đổi khí hậu:
1. Các hệ sinh thái bị phá hủy
San hô bị tẩy trắng do nước biển ấm lên chỉ là một trong rất nhiều tác hại của biến đổi khí
hậu đến các hệ sinh thái.
2. Mất đa dạng sinh học
Cáo Bắc cực
Nhiệt độ trái đất hiện nay đang làm cho các loài sinh vật biến mất hoặc có nguy cơ tuyệt
chủng. Khoảng 50% các loài động thực vật sẽ đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng vào năm
2050 nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm từ 1,1 đến 6,4 độ C nữa
3. Chiến tranh và xung đột
Xung đột ở Darfur (Sudan) xảy ra một phần là do các căng thẳng của biến đổi khí hậu.

4. Các tác hại đến kinh tế
Các cơn bão lớn gây thiệt hại kinh tế đến hàng trăm tỉ đô la.
5. Dịch bệnh
Nhiệt độ tăng cùng với lũ lụt và hạn hán đã tạo điều kiện thuận lợi cho các con vật truyền
nhiễm như muỗi, ve, chuột,… sinh sôi nảy nở, truyền nhiễm bệnh gây nguy hại đến sức
khỏe của nhiều bộ phận dân số trên thế giới
6. Hạn hán
7. Bão lụt
Nhiệt độ nước ở các biển và đại dương ấm lên là nhân tố tiếp thêm sức mạnh cho các cơn
bão.
8. Những đợt nắng nóng gay gắt
Nắng nóng không những gây mệt mỏi mà nó còn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng
9. Các núi băng và sông băng đang teo nhỏ

×