ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
LÊ TRỌNG TOÁN
CHI TRẢ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG RỪNG VÀ SINH KẾ
CỘNG ĐỒNG: TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU TẠI XÃ
CHIỀNG CỌ, THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
Hà Nội – Năm 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
LÊ TRỌNG TOÁN
CHI TRẢ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG RỪNG VÀ SINH KẾ
CỘNG ĐỒNG: TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU TẠI XÃ
CHIỀNG CỌ, THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA
Chuyên ngành: Môi trường trong Phát triển bền vững
(Chương trình đào tạo thí điểm)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGHIÊM THỊ PHƯƠNG TUYẾN
Hà Nội – Năm 2014
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và luận văn tốt nghiệp này, trước hết tôi xin
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự hướng dẫn tận tình, truyền đạt kiến thức,
những góp ý và hỗ trợ quý giá của các thầy, cô giáo, ban lãnh đạo cùng các đồng
nghiệp trong Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia
Hà Nội. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Quỹ Học Bổng Nagao đã hỗ trợ kinh phí,
các thành viên trong Ban Quản lý Dự án “Nghiên cứu và nâng cao năng lực về
REDD+, sinh kế và tính dễ bị tổn thương ở Việt Nam: Xây dựng công cụ phân tích
xã hội và quy hoạch phát triển” đã tạo điều kiện để tôi được tham gia nghiên cứu
thực địa, thu thập số liệu tại hiện trường nghiên cứu.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới TS. Nghiêm Thị Phương Tuyến,
giáo viên hướng dẫn, đã dành rất nhiều thời gian quý báu và tâm huyết của mình để
góp ý về nội dung luận văn.
Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới GS.TS. Lê Trọng Cúc, ThS.
Hàn Tuyết Mai, ThS. Võ Thanh Giang đã bớt chút thời gian quý giá đọc và góp ý
về mặt nội dung cho luận văn.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn từ đáy lòng mình đến gia đình bên nội, bên
ngoại, vợ, con và bạn bè của mình, những người đã luôn bên cạnh, hỗ trợ và động
viên tôi vượt qua những khó khăn để hoàn thành khóa học cao học này.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2014
HỌC VIÊN
Lê Trọng Toán
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn là của riêng cá nhân tôi, các
số liệu là trung thực; không sử dụng số liệu của các tác giả khác chưa được công bố;
các kết quả nghiên cứu chưa từng được công bố trên các phương tiện truyền thông
khác.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2014
HỌC VIÊN
Lê Trọng Toán
iii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN i
LỜI CAM ĐOAN ii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC CÁC BẢNG vii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ viii
MỞ ĐẦU…… 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu của nghiên cứu 4
3. Câu hỏi nghiên cứu 4
4. Đối tượng nghiên cứu 5
5. Phạm vi nghiên cứu 5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 6
7. Cấu trúc của luận văn 6
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHI TRẢ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG VÀ SINH KẾ
CỘNG ĐỒNG 7
1.1. Một số khái niệm 7
1.1.1.
Dịch vụ môi trường và chi trả dịch vụ môi trường 7
1.1.2.
Dịch vụ môi trường rừng và chi trả dịch vụ môi trường rừng 9
1.1.3.
Cộng đồng và lâm nghiệp cộng đồng 10
1.1.4.
Sinh kế và khung sinh kế bền vững 12
1.2. Nguyên tắc và hình thức của cơ chế chi trả dịch vụ môi trường 14
1.2.1.
Nguyên tắc chi trả dịch vụ môi trường 14
1.2.2. Nguyên tắc người được hưởng lợi phải trả tiền 15
1.2.3. Các hình thức chi trả dịch vụ môi trường rừng 15
1.2.4. Sự sẵn lòng chi trả 16
1.3. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu 17
1.3.1.
Trên thế giới 17
iv
1.3.2.
Tại Việt Nam 18
1.3.3.
Tại khu vực nghiên cứu 21
CHƯƠNG II: ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 23
2.1. Địa điểm nghiên cứu 23
2.1.1. Vị trí địa lý 23
2.1.2. Địa hình 23
2.1.3. Kinh tế-xã hội 24
2.1.4. Thực trạng công tác bảo vệ và phát triển rừng 26
2.1.5. Bản Dầu và bản Ót Nọi 27
2.2. Thời gian nghiên cứu 30
2.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 31
2.3.1. Phương pháp luận 31
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 41
3.1. Hiện trạng thực hiện chính sách PFES tại Sơn La 41
3.1.1. Lịch sử quá trình phát triển các chính sách quản lý tài nguyên rừng tại Sơn La41
3.1.2. Cơ cấu tổ chức quản lý PFES 45
3.1.3. Phương thức thu,chi của PFES 51
3.1.4. Kết quả thực hiện PFES 55
3.2. Tác động của PFES lên các nguồn lực sinh kế cộng đồng 57
3.2.1. Tác động đến nguồn lực con người 57
3.2.2. Tác động đến nguồn lực tự nhiên 59
3.2.3. Tác động đến nguồn lực tài sản, vật chất 61
3.2.4. Tác động tới nguồn lực tài chính 62
3.2.5. Tác động đến nguồn lực xã hội 64
3.3. Đánh giá chung tác động đến năm nguồn lực 65
3.4. Đề xuất các giải pháp góp phần phát triển sinh kế bền vững 67
3.4.1. Cơ sở pháp lý 68
3.4.2. Cơ cấu tổ chức 68
v
3.4.3. Sinh kế bền vững 68
3.4.4. Năng lực của cán bộ 70
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 70
Khuyến nghị 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
PHỤ LỤC…… 80
vi
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Bộ NN&PTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
DFID Ủy ban Phát triển Quốc tế Anh
FAO Tổ chức Nông Lương Thế giới
FLEGT Tăng cường Thực thi Lâm luật, Quản trị rừng và Thương mại
lâm sản
PES Chi trả dịch vụ môi trường
PFES Chi trả dịch vụ môi trường rừng
REDD Giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất
rừng và suy thoái rừng
REDD+ Giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất
rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững tài nguyên rừng,
bảo tồn và tăng cường trữ lượng các-bon rừng
QBVPTR Quỹ Bảo vệ và Phát triển Rừng
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Tỷ lệ đói nghèo xã Chiềng Cọ 24
Bảng 2.2. Cơ cấu sử dụng đất tại xã Chiềng Cọ 25
Bảng 2.3. Một số thông tin về bản Ót Nọi và bản Dầu, xã Chiềng Cọ 27
Bảng 2.4. Thông tin cơ bản về đói nghèo hai bản nghiên cứu 28
Bảng 2.5. Cơ cấu sử dụng đất tại hai bản 30
Bảng 3.1. Doanh thu của dự án PFES từ năm 2009-2013 55
Bảng 3.2. Mức tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng tại xã Chiềng Cọ 56
Bảng 3.3. Tác động của chính sách PFES đến nguồn lực con người 58
Bảng 3.4. Các mức tác động của chính sách PFES đến nguồn lực tự nhiên 60
Bảng 3.5. Các mức tác động của chính sách PFES đến nguồn lực tài sản vật chất 61
Bảng 3.6. Các mức tác động đến nguồn lực tài chính trong cộng đồng 63
Bảng 3.7. Các mức tác động của chính sách PFES đến nguồn lực xã hội 64
Bảng 3.8. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của chính sách PFES đến các nguồn lực sinh
kế của cộng đồng 66
viii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 1.1. Mô hình xác định mức chi trả dịch vụ môi trường 17
Hình 2.1. Vị trí xã Chiềng Cọ 23
Hình 2.2. Tỷ lệ đói nghèo của hai bản Dầu và Bản Ót Nọi 28
Hình 2.3. Sơ đồ mô phỏng các bên liên quan thực hiện chính sách PFES 32
Hình 2.4. Khung sinh kế bền vững của DFID 33
Hình 3.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức quản lý rừng theo phân cấp ở Việt Nam 46
Hình 3.2. Sơ đồ hệ thống tổ chức quản lý về PFES tại tỉnh Sơn La trong giai đoạn thí
điểm 48
Hình 3.3. Cơ cấu tổ chức thực hiện PFES tại tỉnh Sơn La sau năm 2011 49
Hình 3.4. Sự tác động của chính sách PFES đến năm nguồn lực sinh kế cộng đồng xã
Chiềng Cọ 66
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các hệ sinh thái rừng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với con người trong việc
duy trì môi trường sống, đóng góp vào sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
Rừng không chỉ cung cấp nguyên liệu như gỗ, củi, lâm sản ngoài gỗ, mà còn có các
lợi ích trong việc duy trì và bảo vệ môi trường, đó là điều hòa khí hậu, hạn chế xói
mòn và bồi lắng, bảo vệ bờ biển, điều tiết nguồn nước và hạn chế lũ lụt. Hạn chế
biến đổi khí hậu thông qua nguyên lý làm bồn chứa lưu trữ các bon, cắt giảm phát
thải khí nhà kính.
Các dịch vụ hệ sinh thái rừng có liên quan mật thiết với sinh kế người nghèo và tất
cả các cộng đồng, được cho là những mối quan hệ nhân quả quan trọng giữa sự biến
đổi sinh kế nông thôn và độ che phủ rừng. Người nghèo ở các vùng sâu, vùng xa ở
nông thôn phụ thuộc khá nhiều vào nguồn hàng hóa và dịch vụ môi trường từ rừng
tự nhiên, những lợi ích lớn thông qua việc chuyển đổi đất rừng thành đất nông
nghiệp, khai thác và bán gỗ, cũng như các sản phẩm từ rừng khác. Tiền thu được
làm vốn và chi trả các dịch vụ thiết yếu trong sinh hoạt hàng ngày [Sunderlin và
Huỳnh Thu Ba, 2005].
Mặc dù các lợi ích môi trường do rừng đem lại là rất đáng kể, nhưng việc quản lý
bền vững tài nguyên rừng vẫn là những thách thức. Nạn chặt phá rừng và chuyển
đổi rừng sang mục đích nông nghiệp, công nghiệp, chăn nuôi và các mục đích khác
đang diễn ra ở mức báo động. Trong giai đoạn 1990-2000, tổng diện tích rừng trên
toàn thế giới mất đi khoảng 8,9 triệu ha, trong giai đoạn 2000-2005 mất đi khoảng
7,5 triệu ha [FAO, 2005]. Ở Việt Nam, diện tích rừng cũng bị giảm đi nhanh chóng,
trong giai đoạn 1943-1990, khoảng 5 triệu ha [Bộ NN&PTNT, 2005]. Theo Quyết
định 1739 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ngày 31 tháng 7 năm 2013
công bố hiện trạng rừng toàn quốc cho thấy, tính đến hết năm 2012, Việt Nam hàng
năm có khoảng trên 30.000 ha rừng tự nhiên bị chuyển đổi sang các mục đích nông
2
nghiệp và phi nông nghiệp. Diện tích rừng trồng được khai thác hàng năm khoảng
gần 57.000 ha.
Chính vì vậy, các nước trên thế giới cũng như Việt Nam đã không ngừng đề ra các
chính sách nhằm phát triển bền vững, hài hòa giữa bảo vệ các dịch vụ môi trường
rừng và phát triển kinh tế cho các cộng đồng sống gần rừng. Với những nỗ lực của
Chính phủ và người dân, Việt Nam đã vạch ra những chiến lược phát triển thông
qua các chính sách như Chương trình trồng rừng trên đất trống đồi núi trọc, bãi bồi
ven biển và mặt nước (gọi tắt là Chương trình 327), Dự án trồng mới năm triệu ha
rừng (gọi tắt là Dự án 661), Chương trình giao đất giao rừng, v.v Trong những
năm qua, diện tích rừng của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh, từ 28,8% (năm
1998), lên 36,7% (năm 2004) và 39,7% (năm 2011) [Võ Quý, 2011; Bộ
NN&PTNT, 2012]. Năm 2013 cũng là năm ghi dấu ấn khi ngành lâm nghiệp triển
khai thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng và phát triển bền vững. Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng theo Nghị
định số 99/2010/NĐ-CP tiếp tục được thực hiện trên quy mô cả nước và bước đầu
có hiệu quả tích cực đến công tác bảo vệ rừng. Ngành lâm nghiệp Việt Nam tiếp tục
nhận được sự hỗ trợ tài chính to lớn từ cộng đồng quốc tế, đặc biệt cho việc thực
hiện sáng kiến Giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và
suy thoái rừng, quản lý bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và tăng cường trữ lượng
các-bon rừng (REDD+) và Tăng cường Thực thi Lâm luật, Quản trị rừng và Thương
mại lâm sản (FLEGT) [Tô Xuân Phúc & Trần Hữu Nghị, 2014]
Giá trị sản xuất lâm nghiệp phát triển tương đối ổn định, tăng 6,04% so với năm
2012. Tổng kim ngạch xuất khẩu lâm sản năm 2013 ước đạt 5,5 tỷ USD, tăng
25,1% so với kế hoạch, tăng 15,24% so với cùng kỳ năm 2012. Công tác quản lý
bảo vệ rừng có nhiều chuyển biến tích cực trên tất cả các mặt: bảo vệ rừng, phòng
cháy, chữa cháy rừng, mua bán, vận chuyển và chế biến lâm sản, quản lý động vật
hoang dã và chuyển đổi mục đích sử dụng rừng. Số vụ vi phạm và diện tích rừng bị
thiệt hại đều giảm so với năm 2012 [Bộ NN&PTNT, 2014].
3
Kết quả trên đã góp phần đáng kể vào tăng trưởng chung của ngành nông nghiệp và
phát triển nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện điều kiện sống của cư
dân nông thôn, nhất là những người làm nghề rừng. Mặc dù vậy, sự hưởng lợi của
cộng đồng còn rất mong manh, thiếu bền vững, vì từ trước tới giờ chưa có cơ chế bù
đắp xứng đáng cho bên thực hiện bảo vệ và nâng cao chất lượng các dịch vụ hệ sinh
thái, ảnh hưởng đến ý thức và trách nhiệm của người bảo vệ và phát triển rừng.
Chính sách chi trả dịch vụ môi trường (payment for environment services – PES) ra
đời được xem là cơ chế nhằm thúc đẩy sự hưởng lợi của người dân thông qua việc
tạo ra và sử dụng các dịch vụ môi trường, kết nối người cung cấp dịch vụ và người
sử dụng dịch vụ. PES được coi là công cụ kinh tế thành công trong việc giải quyết
yêu cầu những người được hưởng lợi từ các dịch vụ hệ sinh thái chi trả cho những
người tham gia duy trì, bảo vệ và phát triển các chức năng của hệ sinh thái đó, nhằm
hạn chế sự suy thoái hệ sinh thái do mất rừng.
Sơn La là một trong hai tỉnh có diện tích rừng phòng hộ lớn nhất trong cả nước, là
tỉnh đầu tiên của Việt Nam được chọn thực hiện thí điểm chính sách chi trả dịch vụ
môi trường rừng (PFES) từ năm 2008. Cho đến nay, chính sách PFES đã được nhân
rộng trên địa bàn của tỉnh, góp phần vào việc nâng cao nhận thức bảo vệ và duy trì
các chức năng của hệ sinh thái rừng thông qua cơ chế tài chính đôi bên cùng có lợi.
Tuy nhiên, việc thực hiện PFES tại Sơn La đang gặp nhiều vấn đề bất cập. Trong
bốn loại dịch vụ môi trường phải chi trả được quy định trong Nghị định
99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính phủ, mới có hai loại dịch vụ có hướng
dẫn chi tiết và được thực hiện kể từ tháng 1 năm 2011, còn các dịch vụ khác cho
đến nay vẫn còn thiếu cơ sở pháp lý và hướng dẫn chi tiết để thực hiện. Tỷ lệ giải
ngân còn thấp, chỉ mới đạt 46%, do các công tác kiểm kê rừng chưa hoàn thiện.
Ngoài ra, còn một số vấn đề như giao đất, giao rừng chậm, số lượng lớn người cung
cấp dịch vụ sống rải rác tại các khu vực hẻo lánh, năng lực kỹ thuật và tài chính hạn
chế ở cả cấp trung ương và địa phương [Phạm Thu Thủy, 2013].
Cơ chế quản lý thực hiện chính sách PES tại Việt Nam đang theo hướng trực tiếp từ
trên xuống, Nhà nước đóng vai trò điều tiết chủ yếu. PES được xem là một công cụ
4
dựa vào thị trường, bắt buộc áp dụng trong một số điều kiện nhất định và được đưa
vào các quy định của Chính phủ [Nguyễn Tuấn Phú, 2009]. Tuy nhiên, PES trên
góc độ nào đó chưa được thành công cao khi áp dụng vào thực tế.
PES chưa được đánh giá một cách cụ thể trên một số khía cạnh như tác động đến
các nguồn lực sinh kế của các địa phương, nhận thức của cộng đồng trong việc bảo
vệ tài nguyên rừng, thay đổi nguồn vốn đất đai tự nhiên, tài nguyên rừng, tài sản
chung cộng đồng và các vấn đề kinh tế, xã hội khác.
Đề tài “Chi trả dịch vụ môi trường rừng và sinh kế cộng đồng: Trường hợp
nghiên cứu tại xã Chiềng Cọ, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La” được đề xuất
nhằm tìm hiểu hiện trạng thực hiện chính sách PFES và tác động của nó đến sinh kế
cộng đồng tại Sơn La để góp phần bổ sung thêm cơ sở thực tiễn hỗ trợ cho việc
hoàn thiện chính sách PFES.
2. Mục tiêu của nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu hiện trạng thực hiện PFES và các tác động của PFES đến
sinh kế cộng đồng.
Mục tiêu cụ thể
1. Tìm hiểu hiện trạng thực hiện chính sách PFES tại Sơn La;
2. Tìm hiểu tác động của PFES tới 5 nguồn lực sinh kế cộng đồng tại xã Chiềng
Cọ, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La;
3. Trên cơ sở tìm hiểu tác động của chính sách PFES đến sinh kế của cộng đồng
địa phương, đề xuất một số giải pháp cải thiện việc thực thi PFES hiệu quả
hơn, nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý và tổ chức thực hiện chính sách.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung trả lời các câu hỏi sau:
- Chính sách PFES tại Sơn La được thực hiện như thế nào?
5
o PFES khác các chính sách quản lý rừng đã được thực hiện ở Sơn La như thế
nào?
o Hệ thống quản lý PFES có cơ cấu và chức năng như thế nào?
Quỹ Bảo vệ rừng
Ban quản lý và bảo vệ rừng các cấp.
o Phương thức thu và chi PFES tại Sơn La?
- Việc chi trả dịch vụ môi trường đã tác động như thế nào đến 5 nguồn lực sinh kế
của cộng đồng xã Chiềng Cọ?
o PFES có tác động đến nguồn nhân lực không, thông qua các hoạt động nào?
o PFES có giúp các hộ nghèo trong cộng đồng cải thiện hoạt động kinh tế?
o PFES có giúp cộng đồng tăng thêm nguồn thu nhập?
o PFES có hỗ trợ tăng cường hoạt động bảo vệ rừng trong cộng đồng?
o PFES có giúp cải thiện cơ sở vật chất của cộng đồng?
- Những tác động tới năm nguồn lực sinh kế có ý nghĩa đóng góp cho việc hoàn
thiện chính sách PFES như thế nào?
4. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung tìm hiểu tác động của chính sách PFES tới sinh kế cộng đồng.
Do vậy, nghiên cứu tập trung vào các nhóm đối tượng cộng đồng được tham gia
thực hiện chính sách PFES.
5. Phạm vi nghiên cứu
Chính sách quản lý và phát triển rừng cũng như chính sách PFES là một vấn đề lớn
và rộng trên cả quy mô không gian, thời gian và trên cả quy mô về địa lý. Nghiên
cứu này tập trung tìm hiểu những thay đổi do tác động của chính sách PFES mang
đến cho năm nguồn lực sinh kế của cộng đồng tại địa phương trong khoảng thời
6
gian từ 2008 (năm thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng tại tỉnh Sơn La) cho
đến nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Kết quả của nghiên cứu sẽ đóng góp cơ sở thực tiễn để hoàn thiện chính sách PFES
và triển khai chính sách này đến các cộng đồng có điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã
hội tương đồng.
Nghiên cứu được tiến hành tại xã Chiềng Cọ, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La với
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội cụ thể, nên sẽ có đóng góp cụ thể đến cải thiện
hoạt động thực hiện chính sách PFES tại địa phương.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chi trả dịch vụ môi trường và sinh kế cộng đồng
Chương 2: Địa điểm, thời gian, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và đề xuất giải pháp.
7
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHI TRẢ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG VÀ
SINH KẾ CỘNG ĐỒNG
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Dịch vụ môi trường và chi trả dịch vụ môi trường
Dịch vụ môi trường
Dịch vụ môi trường hay dịch vụ hệ sinh thái là
những
lợi
ích
trực
tiếp
hoặc
gián
tiếp
mà
con
người hưởng
thụ
từ
các
chức
năng
của
hệ
sinh
thái. Dịch vụ môi trường
đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, cải thiện sinh kế và sức
khỏe cho cộng động trên thế giới. Theo Báo cáo Đánh giá hệ sinh thái thiên niên
kỷ [
Millennium Ecosystem Assessment, 2005], h
ệ sinh thái được phân thành 4
nhóm chức năng, hay 4 loại dịch vụ của hệ sinh thái, với mục đích khác nhau về
kinh tế-xã hội, bao gồm:
- Dịch vụ sản xuất: thực phẩm, nước sạch, nguyên liệu, chất đốt, nguồn gen, v.v…
- Dịch vụ điều tiết: phòng hộ đầu nguồn, hạn chế lũ lụt, điều hòa khí hậu, điều tiết
nước, lọc nước, thụ phấn, phòng chống dịch bệnh, v.v…
- Dịch vụ văn hóa: giá trị thẩm mỹ, quan hệ xã hội, giải trí và du lịch sinh thái,
lịch sử, khoa học và giáo dục, v.v…
- Dịch vụ hỗ trợ: cấu tạo đất, điều hòa dinh dưỡng, v.v…
Các loại dịch vụ này đã được hơn 300 nhà khoa học trên thế giới công nhận và đã
được đưa vào nghị quyết và thực hiện các hành động chi trả về tài chính để duy trì
các hệ sinh thái này. Với cơ chế chi trả này, các nhà khoa học đã đưa ra khái niệm
tiếp theo, đó là chi trả dịch vụ môi trường.
Chi trả dịch vụ môi trường
Chi trả dịch vụ môi trường (payments for environmental services – PES) còn được
đề cập dưới các dạng khác nhau như chi trả dịch vụ sinh thái (payments for
8
ecological services) và chi trả dịch vụ hệ sinh thái (payments for ecosystem
services). Tuy có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng chúng có chung một số khái niệm:
Khái niệm đưa ra năm 2005: Chi trả dịch vụ môi trường là một giao dịch trên cơ sở
tự nguyện, mà ở đó dịch vụ môi trường được xác định cụ thể (hoặc hoạt động sử
dụng đất để đảm bảo có được dịch vụ này) đang được người mua (tối thiểu một
người mua) mua của người bán (tối thiểu một người bán) khi và chỉ khi người cung
cấp dịch vụ môi trường đảm bảo được việc cung cấp dịch vụ môi trường này
[Wunder, 2005].
Trong một báo cáo nghiên cứu năm 2008 có tiêu đề “Chi trả dịch vụ môi trường:
Kinh nghiệm và bài học tại Việt Nam”, PES được nêu ra với khái niệm hẹp hơn.
Theo báo cáo này, chi trả dịch vụ môi trường là cam kết tham gia hợp đồng trên cơ
sở tự nguyện có ràng buộc về mặt pháp lý và với hợp đồng này thì một hay nhiều
người mua chi trả cho dịch vụ hệ sinh thái xác định
1
nhiều người bán và người bán
này có trách nhiệm đảm bảo một loại hình sử dụng đất nhất định cho một giai đoạn
xác định, để tạo ra các dịch vụ hệ sinh thái thỏa thuận [Hoàng Minh Hà và nnk.,
2008].
Ở Việt Nam, chi trả dịch vụ môi trường được đưa ra trong Quyết định 380/QĐ-TTg
ngày 10/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết hơn về khái niệm chi trả
dịch vụ môi trường được áp dụng cho hoạt động trồng rừng. Theo đó, chi trả dịch
vụ môi trường là quan hệ kinh tế giữa người sử dụng các dịch vụ môi trường trả tiền
cho người cung ứng dịch vụ môi trường. Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ sử dụng
khái niệm chi trả dịch vụ môi trường được nêu trong Quyết định này.
1
“Dịch vụ hệ sinh thái” thường được hiểu là bao gồm “hàng hóa” (dịch vụ được cung cấp) và “dịch
vụ môi trường”.
9
1.1.2. Dịch vụ môi trường rừng và chi trả dịch vụ môi trường rừng
Dịch vụ môi trường rừng
Dịch vụ môi trường rừng (forest environmental services) là những dịch vụ và chức
năng được cung cấp bởi hệ sinh thái rừng có những giá trị nhất định về kinh tế.
Theo Điều 4, Chương I, Quyết định 380/QĐ-TTg ngày 10/4/2008 của Thủ tướng
Chính phủ, dịch vụ môi trường rừng là việc cung ứng và sử dụng bền vững các giá
trị sử dụng của môi trường rừng, như điều tiết nguồn nước, bảo vệ đất, chống bồi
lắng lòng hồ, ngăn chặn lũ lụt, lũ quét, cảnh quan, đa dạng sinh học, cung cấp bãi
đẻ…
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 3 và Khoản 2, Điều 4 trong Nghị định số
99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ thì dịch vụ môi trường
rừng là công việc cung ứng các giá trị sử dụng của môi trường rừng để đáp ứng các
nhu cầu của xã hội và đời sống của nhân dân, bao gồm các loại dịch vụ:
- Bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối;
- Điều tiết và duy trì nguồn nước cho sản xuất và đời sống xã hội;
- Dịch vụ hấp thụ và lưu giữ cacbon của rừng, giảm phát thải khí gây hiệu ứng
nhà kính bằng các biện pháp ngăn chặn suy thoái rừng, giảm diện tích rừng và
phát triển rừng bền vững;
- Bảo vệ cảnh quan tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học của các hệ sinh thái
rừng, phục vụ cho dịch vụ du lịch;
- Dịch vụ cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn và con giống tự nhiên, sử dụng nguồn
nước từ rừng cho nuôi trồng thủy sản.
Trong đó, giá trị môi trường rừng được hiểu là giá trị mà rừng làm lợi cho môi
trường, do bản thân các khu rừng tạo ra, nhưng không chỉ được sử dụng bởi những
người quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, mà còn bởi toàn xã hội. Với việc xem xét
đến các dịch vụ môi trường rừng, các giá trị này được xem xét như một loại hàng
10
hóa công cộng, có thể do cả xã hội sử dụng, mà người làm rừng không quản lý và
điều tiết được quá trình khai thác và sử dụng chúng.
Chi trả dịch vụ môi trường rừng
Chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) là một giao dịch tự nguyện đối với một loại
dịch vụ môi trường cụ thể giữa ít nhất một bên sử dụng dịch vụ môi trường và
một bên cung ứng dịch vụ môi trường khi và chỉ khi bên cung ứng dịch vụ môi
trường có khả năng cung cấp dịch vụ (trong những điều kiện cụ thể) [Wunder,
2005].
Theo Điều 6 của Nghị định 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Thủ tướng Chính
phủ, PFES là quan hệ cung ứng và chi trả giữa bên sử dụng dịch vụ môi trường
rừng trả tiền cho bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng.
Trong nghiên cứu này, sẽ sử dụng khái niệm trong Nghị định 99/2010/NĐ-CP để
làm cơ sở phân tích các vấn đề liên quan đến chi trả dịch vụ môi trường rừng, đối
với cộng đồng và các cộng đồng quản lý và bảo vệ rừng. Để hiểu được những đối
tượng nào thuộc cộng đồng và cộng đồng quản lý rừng ta xem xét các khái niệm về
cộng đồng và lâm nghiệp cộng đồng sau.
1.1.3. Cộng đồng và lâm nghiệp cộng đồng
Cộng đồng
Theo Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Cộng đồng dân cư thôn có cùng
phong tục, tập quán, có truyền thống gắn bó cộng đồng với rừng về sản xuất, đời
sống, văn hoá, tín ngưỡng; có khả năng quản lý rừng; có nhu cầu và đơn xin giao
rừng [Quốc hội CHXHCNVN, 2004].
Phạm Hồng Tung (2009) dựa trên các tiêu chí và bản sắc riêng của cộng đồng đã
đưa ra một khái niệm chung nhất:
Cộng đồng là tập hợp người có sức bền cố kết nội tại cao, với những tiêu chí nhận
biết và quy tắc hoạt động, ứng xử chung dựa trên sự đồng thuận về ý chí, tình cảm,
11
niềm tin và ý thức cộng đồng, nhờ đó các thành viên của cộng đồng cảm thấy có sự
gắn kết họ với cộng đồng và với các thành viên khác của cộng đồng
Tác giả cũng phân chia ra nhiều loại cộng đồng theo bản chất, vị trí địa lý, cơ cấu tổ
chức, văn hóa, láng giềng, nghề nghiệp và tộc người, v.v [Phạm Hồng Tung,
2009].
Ngoài ra, còn có một số khái niệm khác được đưa ra trong một nghiên cứu gần đây
như: cộng đồng là một nhóm người sống trong một môi trường có những điểm
tương đối giống nhau, có những mối quan hệ nhất định với nhau, hay cộng đồng là
một thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức (chặt chẽ hoặc không chặt chẽ), hoặc cộng
đồng là một nhóm người cùng chia sẻ và chịu ràng buộc bởi các đặc điểm và lợi ích
chung được thiết lập thông qua tương tác và trao đổi giữa các thành viên [Nguyễn
Thị Hồng Mai, 2013].
Qua các khái niệm trên cho thấy, có nhiều quan điểm khác nhau về cộng đồng.
Nghiên cứu này tìm hiểu các vấn đề liên quan đến tài nguyên rừng, các đối tượng
tham gia cũng là các đối tượng có ảnh hưởng tới tài nguyên rừng, do vậy, tác giả sử
dụng khái niệm “cộng đồng thôn” được định nghĩa trong Luật Bảo vệ và phát triển
rừng năm 2004 của Việt Nam.
Lâm nghiệp cộng đồng
Tổ chức Nông Lương Thế giới (FAO) năm 1978 định nghĩa lâm nghiệp cộng đồng
là một phạm vi rộng các hoạt động gắn người dân địa phương với rừng, các sản
phẩm và lợi ích từ rừng [FAO, 1978]. Hoặc theo (FAO) năm 2000 lâm nghiệp cộng
đồng là những hoạt động không chỉ giới hạn trong việc trồng cây rừng ở trang trại,
khu nhà ở hay ven đường, mà còn đề cập đến cả tập quán du canh, việc sử dụng và
quản lý rừng tự nhiên, việc cung cấp các sản phẩm lâm sản từ rừng tự nhiên, từ rừng
trồng hay nông lâm kết hợp. Lâm nghiệp cộng đồng cũng đề cập đến sự xác định
nhu cầu của địa phương, tăng cường quản lý sử dụng các sản phẩm lâm nghiệp để
cải thiện mức sống của người dân theo một phương thức bền vững, đặc biệt là cải
12
thiện điều kiện sống cho người nghèo [dẫn trong Dương Viết Tình và Trần Hữu
Nghị, 2012].
Theo Arnold (1992), lâm nghiệp cộng đồng là một thuật ngữ bao trùm hàng loạt các
hoạt động gắn kết người dân nông thôn với trồng rừng cũng như quản lý bảo vệ các
sản phẩm và lợi ích thu được từ rừng trồng và rừng tự nhiên [dẫn trong Dương Viết
Tình và Trần Hữu Nghị, 2012].
Ở Việt Nam, lâm nghiệp cộng đồng đề cập đến góc độ quản lý rừng: “Là các hình
thức quản lý, trong đó người dân địa phương cùng nhau quản lý các nguồn rừng tự
nhiên trong ranh giới cộng đồng của họ mà tại đó quyền sử dụng lâu dài đã được
chuyển giao sang cho những người quản lý rừng” [Wode và Bảo Huy, 2009]. Các
hình thức quản lý trong quản lý rừng bao gồm quản lý bản địa truyền thống và quản
lý rừng theo tổ chức hội, các hợp tác xã và các làng bản.
Trong các khái niệm về lâm nghiệp cộng đồng đề cập ở trên, khái niệm của FAO
năm 2000 thường được sử dụng rộng rãi nhất. Do vậy, nghiên cứu sẽ áp dụng khái
niệm này trong phân tích đánh giá tính chất liên quan đến lâm nghiệp cộng đồng.
1.1.4. Sinh kế và khung sinh kế bền vững
Sinh kế
Có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về sinh kế, tuy nhiên đa phần các ý
kiến cho rằng khái niệm sinh kế bao hàm nhiều yếu tố có ảnh hưởng đến hoạt động
sống của mỗi cá nhân hay hộ gia đình. Về căn bản, các hoạt động sinh kế là do mỗi
cá nhân hay nông hộ tự quyết định dựa vào năng lực và khả năng của họ, đồng thời
chịu sự tác động của các thể chế, chính sách và những quan hệ xã hội mà cá nhân
hoặc hộ gia đình đã thiết lập trong cộng đồng.
Frank Ellis (2000) cho rằng, một sinh kế bao gồm những tài sản (tự nhiên, phương
tiện vật chất, con người, tài chính và nguồn vốn xã hội), những hoạt động và cơ hội
được tiếp cận đến các tài sản và hoạt động đó (đạt được thông qua các thể chế và
13
quan hệ xã hội), mà theo đó các quyết định về sinh kế đều thuộc về mỗi cá nhân
hoặc mỗi nông hộ [Ellis, 2000].
Theo Ủy ban Phát triển Quốc tế Anh (DFID), sinh kế được hiểu là tập hợp tất cả các
nguồn lực (vốn con người, vốn vật chất, vốn tự nhiên, vốn tài chính và vốn xã hội)
và khả năng mà con người có được, kết hợp với những quyết định và hoạt động mà
họ thực thi, nhằm để kiếm sống cũng như để đạt được các mục tiêu và ước nguyện
của họ [DFID, 2001].
Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, tác giả sẽ vận dụng khái niệm sinh kế của
DFID để phân tích những thay đổi các nguồn lực sinh kế dưới tác động của chính
sách chi trả dịch vụ môi trường rừng tại cộng đồng xã Chiềng Cọ, tỉnh Sơn La.
Khung sinh kế bền vững
Thuật ngữ “sinh kế bền vững” được sử dụng đầu tiên như là một khái niệm phát
triển vào những năm đầu 1990. Năm 1992, sinh kế bền vững được định nghĩa: sinh
kế bền vững bao gồm con người, năng lực và kế sinh nhai, gồm có lương thực, thu
nhập và tài sản của họ. Ba khía cạnh tài sản là tài nguyên, dự trữ và tài sản vô hình,
như dư nợ và cơ hội. Theo định nghĩa này, sinh kế là bền vững khi nó bao gồm hoặc
mở rộng tài sản địa phương và toàn cầu, mà nó phụ thuộc, và lợi ích ròng tác động
đến sinh kế khác. Sinh kế bền vững về mặt xã hội khi nó có thể chống chịu hoặc hồi
sinh từ những thay đổi lớn và có thể cung cấp cho thế hệ tương lai [Chambers và
Conway, 1992].
Những ý kiến khác cho rằng, sinh kế là bền vững khi nó có khả năng ứng phó và
phục hồi khi bị tác động, hay có thể thúc đẩy các khả năng và tài sản ở cả thời điểm
hiện tại và trong tương lai, trong khi không làm xói mòn nền tảng nguồn lực tự
nhiên [Carney, 1998; Hanstad et al., 2004].
Khung sinh kế bền vững nhận định con người dựa vào năm loại tài sản vốn, hay
hình thức vốn, để giảm nghèo và đảm bảo an ninh sinh kế của mình, bao gồm: vốn
vật chất (physical capital), vốn tài chính (financial capital), vốn xã hội (social
capital), vốn con người (human capital) và vốn tự nhiên (natural capital), là những
14
loại vốn đóng cả hai vai, đầu vào và đầu ra. Tiếp cận sinh kế bền vững cũng thừa
nhận rằng, các chính sách, thể chế và quá trình có ảnh hưởng đến sự tiếp cận và việc
sử dụng các tài sản, mà cuối cùng ảnh hưởng đến sinh kế [Filipe, 2005].
1.2. Nguyên tắc và hình thức của cơ chế chi trả dịch vụ môi trường
1.2.1. Nguyên tắc chi trả dịch vụ môi trường
Hai nguyên tắc cơ bản
1. Tạo ra động lực tài chính hiệu quả, thúc đẩy cá nhân và cộng đồng cung cấp các
dịch vụ môi trường;
2. Chi trả các chi phí cho việc cung cấp các dịch vụ của họ. Việc chi trả này có thể
dưới hình thức là tiền hoặc hiện vật [Wunder, 2005].
Cụ thể hơn, đối với Việt Nam, chi trả cho dịch vụ môi trường rừng được quy định
tại Điều 7, Chương I trong Quyết định 380/QĐ-TTg ngày 10/4/2008 của Thủ tướng
Chính phủ như sau:
- Việc chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng trực tiếp do người được chi trả và
người phải chi trả thực hiện trên cơ sở hợp đồng thỏa thuận theo nguyên tắc thị
trường.
- Mức tiền chi trả sử dụng dịch vụ môi trường rừng gián tiếp do Nhà nước quy
định, được công bố công khai và điều chỉnh khi cần thiết.
- Các tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ môi trường rừng phải chi trả tiền sử dụng
dịch vụ cho người được chi trả dịch vụ môi trường rừng và không thay thế cho
thuế tài nguyên nước hoặc các khoản phải nộp khác theo quy định của pháp luật.
- Đối với tổ chức kinh doanh, tiền chi trả cho việc sử dụng dịch vụ môi
trường rừng được tính vào giá thành sản phẩm của bên sử dụng dịch vụ
môi trường rừng.
15
1.2.2. Nguyên tắc người được hưởng lợi phải trả tiền
Trong các mô hình quản lý môi trường cũng như các giải pháp quản lý môi trường
trước đây, chúng ta thường hay sử dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền
(polluter pays). Cơ chế này yêu cầu những người gây ra các tác động có hại đến môi
trường phải có trách nhiệm chi trả và cải tạo lại môi trường. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy, cơ chế này cũng có một số hạn chế nhất định vì người gây ô nhiễm thường
không muốn trả tiền hoặc không khắc phục các thiệt hại về môi trường [Lê Thị Kim
Oanh, 2010].
Khác với các cơ chế quản lý trước đây, PES không hoạt động theo cơ chế người gây
ô nhiễm phải trả tiền, mà hướng tới một cơ chế khác là người được hưởng lợi từ
dịch vụ môi trường sẽ trả tiền cho việc thụ hưởng đó. Các nhà kinh tế đã tiến hành
nhiều nghiên cứu và chỉ ra rằng, sẽ hiệu quả hơn nếu trả tiền để giữ gìn môi trường
thay vì bắt họ phải chi trả cho những thiệt hại môi trường mà họ đã gây ra [Trần thu
Thủy, 2009].
Một ví dụ cụ thể là, thay vì phạt những người dân ở vùng thượng lưu vì đã chặt phá
rừng gây ra lũ lụt cho vùng hạ lưu thì chi trả cho họ một khoản tiền để họ giữ các
khu rừng đó và đem lại lợi ích cho dân ở vùng hạ lưu. Những người ở vùng hạ lưu
trước đây không phải trả tiền cho bất cứ lợi ích nào họ nhận được từ môi trường
rừng, thì nay họ sẽ chi trả một phần cho các lợi ích mà họ được hưởng. Đây là một
cách tiếp cận rất mới của PES, coi dịch vụ môi trường là hàng hóa và nếu nhận
được lợi ích từ hàng hóa thì hiển nhiên phải trả tiền để được sử dụng. Dựa trên cách
tiếp cận này, các giá trị của dịch vụ môi trường, đặc biệt là dịch vụ môi trường rừng
sẽ được đánh giá một cách chính xác hơn.
1.2.3. Các hình thức chi trả dịch vụ môi trường rừng
Có hai hình thức thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng:
- Chi trả dịch vụ môi trường rừng trực tiếp: là việc người sử dụng dịch vụ môi
trường rừng (người phải chi trả) trả tiền trực tiếp cho người cung ứng dịch vụ
môi trường (người được chi trả).